Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / Tổng hợp 20 bản án về tội giả mạo trong công tác

Tổng hợp 20 bản án về tội giả mạo trong công tác

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tội giả mạo trong công tác” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 20 bản án về tội “giả mạo trong công tác”

STT

NỘI DUNG

TRANG

Bản án số 27/2023/HS-ST ngày 22 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An về tội “ Giả mạo trong công tác”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Vào ngày 06/02/2022, tại xóm E, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An, vì động cơ vụ lợi nên Hồ Thức H lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Trạm trưởng Trạm y tế xã D đã cấp 05 (năm) phiếu trả lời kết quả xét nghiệm âm tính Covid – 19 mà không thực  hiện  quy  trình  xét  nghiệm  theo  quy  định  của  Bộ  Y,  trong  đó  có  03  (ba) phiếu trả lời kết quả xét nghiệm âm tính với Covid-19 là chữ ký của Hồ Thức H, còn    02  (hai)  phiếu  trả  lời  kết  quả  xét  nghiệm  âm  tính  với  Covid-19  là  chữ  ký photocopy  nên  Phòng  K  Công  an  tỉnh  N  không  tiến  hành  giám  định  chữ  ký  để chiếm đoạt số tiền 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Toà án sơ thẩm nhận định

Hành vi thực hiện của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan, tổ chức gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi dụng dịch bệnh Covid-19  để chiếm đoạt tài sản, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân nói riêng và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội nói chung. Bị cáo có đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi thực hiện của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực  hiện  tội  phạm.

Xét  thấy,  bị  cáo  có  nhiều  tình  tiết  giảm  nhẹ,  không  có  tình  tiết  tăng  nặng trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng nên không nhất thiết phải  cách  ly  bị  cáo  ra  khỏi  xã  hội  một  thời  gian  mà  cho  bị  cáo  được  hưởng  án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ nghiêm.

Toà án sơ thẩm quyết định

Tuyên bố bị cáo Hồ Thức H phạm tội “Giả mạo trong công tác”.

Xử phạt bị cáo Hồ Thức H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo,  thời  gian  thử  thách  60  (Sáu  mươi)  tháng.  Thời  gian thử  thách  tính  từ  ngày tuyên án sơ thẩm.

1

Bản án số 477/2023/HS-PT ngày 21 tháng 7 năm 2023 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Thành phố Hồ Chí Minh về tội “ Giả mạo trong công tác”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Lê  Quang  H  là  Điều  tra  viên  cơ  quan  cảnh  sát  điều  tra  Công  an huyện  G,  tỉnh  Tiền  Giang  và  Nguyễn  Hoài  P  là  Kiểm  sát  viên  Viện  kiểm  sát nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Các bị cáo được thủ trưởng cơ quan  cảnh  sát  điều  tra  và  Viện  trưởng  Viện  kiểm  sát  nhân  dân  phân  công  giải quyết và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm xảy ra ngày 10/01/2019, 13/01/2019 và 03/02/2019 tại địa phương. Do để quá thời hạn giải quyết  nhưng  không  tiến  hành  kiểm  tra,  xác  minh  theo  quy  định.  Lo  sợ  đoàn thanh tra nghiệp vụ của Thanh tra Công an tỉnh tiền  G phát hiện vi phạm nên H đã làm giả văn bản bằng phương pháp in L3 và scan chữ ký của Phó thủ trưởng Cơ  quan  cảnh  sát  điều  tra  để  làm  nên  02  Công  văn  trao  đổi,  03  Quyết  định không  khởi  tố  vụ  án  và  01  Thông  báo  kết  quả  giải  quyết  nguồn  tin  tội  phạm; Nguyễn Hoài P soạn thảo 03 Công văn thống nhất không khởi tố vụ án hình sự rồi dán ghép, photocopy chữ ký của Viện trưởng để hợp thức hóa hồ sơ.

Toà án sơ thẩm tuyên

Tuyên  bố các bị cáo  Lê  Quang  H  và  Nguyễn  Hoài  P phạm  tội  “Giả  mạo trong công tác”.

Xử phạt bị cáo Lê Quang H 03 (ba) năm tù; thời hạn từ tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài P 01 (một) năm tù; thời hạn từ tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngày 3/3/2023, bị cáo Nguyễn Hoài P kháng cáo xin hưởng án treo. Ngày 8/3/2023, bị cáo Lê Quang H kháng cáo xin hưởng án treo.

Toà án phúc thẩm nhận định

Đối với bị cáo Lê Quang H là người giữ vai trò chính, không những thiếu trách nhiệm trong công việc được phân công dẫn đến để nguồn tin tội phạm quá thời hạn luật định mà còn thực hiện và xúi giục đồng phạm thực hiện hành vi giả mạo các quyết định của Thủ trưởng cơ quan đều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân  dân  huyện  Gò  Công  Đông.  Mặc  dù  hành  vi  phạm  tội  của  bị  cáo  không mang tính vụ lợi về vật chất, tuy nhiên tính chất, mức độ đối với hành vi của bị cáo  là  rất nghiêm  trọng.  Khi  quyết  định  hình  phạt  cấp  sơ thẩm  đã  áp dụng  đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề là đã có khoan hồng đối với bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt nào mới. Do đó đơn kháng cáo của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với Nguyễn Hoài P mặc dù trong quá trình được phân công kiểm sát đối với nguồn tin tội phạm cũng đã thực hiện việc trao đổi, đôn đốc đối với điều tra viên thụ lý vụ việc. Tuy nhiên việc kiểm sát là chưa đầy đủ và do nể nang, tin tưởng  nên  khi  được  H  nhờ  hợp  thức  hóa  đã  soạn  thảo  văn  bản,  photocopy  chữ ký  của  Viện  trưởng  Viện  kiểm  sát  nhân  dân  huyện  Gò  Công  Đông,  tạo  ra  văn bản giả mạo là 03 Công văn với nội dung thống nhất không khởi tố vụ án hình sự. Do đó mức án 01 năm tù mà Tòa sơ thẩm xử phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo,  ăn  năn  hối  cải;  tích  cực  hợp  tác  với  cơ  quan  điều  tra  trong  quá  trình  giải quyết vụ án nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài các tình tiết giảm  nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên đã được cấp sơ thẩm áp dụng, thì xét thấy trong quá trình công tác bị cáo Nguyễn Hoài P nhiều năm được tặng thưởng danh hiệu Lao động tiên tiến  và  Chiến  sỹ  thi  đua  cơ  sở.  Đây  được  coi  là  tình  tiết  giảm  nhẹ  trách  niệm hình sự, người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong công tác theo quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được Hội đồng xét xử áp dụng bổ sung đối với bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ vai trò thứ yếu trong vụ án, phạm tội vì nể nang, tin tưởng, không vụ lợi về vật chất vì thế đủ điều kiện để được áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều  kiện theo quy  định  tại  Điều  65  Bộ luật hình  sự,  nên  đơn kháng cáo của bị cáo được chấp nhận.

Toà án phúc thẩm quyết định

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Quang H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2003/HS-ST ngày 28 tháng 02 năm  2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về hình phạt đối với bị cáo Lê Quang H.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoài P. Sửa Bản án hình sự sơ  thẩm  số  07/2003/HS-ST  ngày  28  tháng  02  năm  2023  của  Tòa  án  nhân  dân tỉnh Tiền Giang về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hoài P.

8

Bản án số 85/2023/HS-PT ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang về tội “ Giả mạo trong công tác”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Theo quyết định số 48-QĐ/ĐU ngày 04/5/2016 của Đảng ủy xã N về việc điều  động  Phạm  Mai  Nhật  T  từ  phó  Bí  thư  Đoàn  thanh  niên  Cộng  sản  Hồ  Chí Minh  về  Văn  phòng  Đảng  ủy  xã  N,  theo  đó  T  được  phân  công  nhiệm  vụ  tham mưu cho Thường trực Đảng ủy về công tác soạn thảo văn bản, lưu trữ hồ sơ đảng ủy và những công việc có liên quan đến công tác văn phòng. Ngoài ra, theo lời khai  của  ông  Lê  Minh  C1  xác  định:  các  hồ  sơ  đảng  viên  này  chính  ông  C1  là người  tiếp  nhận,  kiểm  tra  đầy  đủ  thủ  tục  trình  tự  và  đã  báo  trong  cuộc  họp  lệ tháng với Đảng ủy, được Đảng ủy xã N thống nhất chuyển hồ sơ đề nghị Ban Tổ chức  Huyện  ủy  ra  Quyết  định  công  nhận  đảng  viên  chính  thức,  sau  đó,  ông  C1 bàn  giao  lại  cho  T  để  soạn  thảo  nghị  quyết.  Đồng  thời,  T  cũng  thừa  nhận,  bản thân bị cáo cũng là thư ký của các cuộc họp này và có nhiệm vụ tham mưu soạn thảo  các nghị  quyết  được  thông  qua  tại  cuộc  họp trình  Ban thường vụ  Đảng ủy xã  N  ký  ban  hành  theo  đúng  quy  định.  Như  vậy,  trách  nhiệm  tham  mưu,  soạn thảo nghị quyết đề nghị công nhận đảng viên chính thức cho Trần Thị Kim N1, Trần Thị Cẩm L và Đỗ Thị Kim T3 phù hợp, đúng với nhiệm vụ được phân công theo  quyết  định  số  48-QĐ/ĐU  ngày  04/5/2016  của  Đảng  ủy  xã  N.  Nhưng  do quên, chưa soạn thảo nghị quyết để làm thủ tục chuyển hồ sơ đến Ban T5 (nay là Ban T5), sợ bị kiểm điểm, kỷ luật, đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ, bị giảm uy  tín,  bị  cáo  đã  dùng  phôi  giấy  giả,  in  phun  màu  thực  hiện  làm,  cấp  giả  03 Quyết định công nhận đảng viên chính thức.

Toà án sơ thẩm tuyên

Tuyên  bố các bị cáo  Phạm Mai Nhật T phạm  tội  “Giả  mạo trong công tác”.

Xử phạt bị cáo Phạm Mai Nhật T 03 (ba) năm tù; thời hạn từ tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/6/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân  tỉnh  An  Giang  ban  hành  Quyết  định  kháng  nghị  phúc  thẩm  số  04/QĐ- VKSAG kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 30/5/2023 của  Tòa  án  nhân  dân  thị  xã  T;  đề  nghị  Tòa  án  nhân  dân  tỉnh  An  Giang  xét  xử phúc thẩm vụ án, theo hướng hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị  cáo  đã  nhận  thức  được  hành  vi phạm tội của mình, bị cáo đã ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình đã có nhiều đóng góp  và  được  tặng  thưởng  nhiều  bằng  khen,  giấy  khen,  xin  Hội  đồng  xét  xử  có xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Toà án phúc thẩm nhận định

Nhận thấy,  lời  khai  của  bị  cáo  T  hoàn  toàn  không  mâu  thuẫn  với  lời  khai ông D, C1 và Quyết định điều động T đến công tác tại Văn phòng Đảng ủy như kháng nghị đã nhận định. Do đó, Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Mai Nhật T về tội “Giả mạo trong công tác” với tình tiết định khung “Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 359 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Từ những phân tích trên, xét thấy không có căn cứ  chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKSAG ngày 28/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm  sát  nhân  dân  tỉnh  An  Giang  về  việc  hủy  bản  án  sơ  thẩm  của  Tòa  án  nhân dân thị xã T. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo  Phạm Mai Nhật T với mức án 03 năm tù là có phần nghiêm khắc. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là lao động chính trong gia đình,  những  người  có  quyền  lợi, nghĩa  vụ  liên quan đến  vụ  án  có  mặt  tại  phiên tòa  sơ  thẩm  xin  giảm  nhẹ  hình  phạt  cho  bị  cáo.  Tại  phiên  tòa  phúc  thẩm  hôm nay, bị cáo đã cung cấp nhiều giấy khen của bị cáo, nhiều bằng khen của cha, mẹ bị cáo thể hiện bị cáo và gia đình đã có nhiều công sức đóng góp cho đất nước, cho xã hội; bị cáo đã có thành tích xuất sắc trong học tập, đạt Giải nhì Môn Lý trong Kỳ thi học sinh giỏi cấp Tỉnh năm học 2001 – 2002, đạt Giải nhất Tài năng học đường năm  học 2003  –  2004.  Đây  là tình  tiết giảm  nhẹ  “Người  phạm  tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” được  quy  định  tại  điểm  v  khoản  1  điều  51  Bộ  luật  Hình  sự,  chưa  được  cấp  sơ thẩm  xem  xét.  Do  vậy,  Hội  đồng  xét  xử  có  xem  xét  giảm  cho  bị  cáo  một  phần hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Toà án phúc thẩm quyết định

Không  chấp  nhận  Quyết  định  kháng  nghị  phúc  thẩm  số  04/QĐ-VKSAG ngày 28/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang về việc hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã T. Sửa án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Mai Nhật T.

18

Bản án số 40/2022/HS-ST ngày 06 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum về tội “ Giả mạo trong công tác”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Huỳnh Văn C là C1 bộ công tác tại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N H từ năm 2006. Tháng 01/2017 đến tháng 8/2019 bị cáo được bổ nhiệm chức vụ Phó Giám đốc, Giám đốc Chi nhánh – Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện N H. Nhiệm vụ của bị cáo được giao phụ trách trong hai giai đoạn trên là đo đạc bản đồ, trích đo hồ sơ địa chính thửa đất; thống kê, kiểm kê đất đai; chỉnh lý biến động đất đai; L2 hồ sơ thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDD tại địa bàn các xã: Sa Loong, Đắk Kan, Đắk Xú và thị trấn Plei Kần, huyện  N H. Bị cáo Huỳnh Văn C nhiều lần tiếp nhận, quản lý phôi Giấy CNQSD đất do Phòng Tài nguyên và môi trường  huyện  N  H  giao  để  thực  hiện  việc  cấp  Giấy  CNQSD  đất  cho  người  dân. Trong quá trình công tác, Huỳnh Văn C đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng việc  được  giao  nhiệm  vụ  trực  tiếp  quản  lý,  sử  dụng  phôi  Giấy  CNQSD  đất  đã không thực hiện việc đăng ký đất đai, hồ  sơ địa chính theo đúng trình tự, thủ tục quy định về việc cấp Giấy CNQSD đất mà tự ý cập nhập thông tin của người thân quen, thông tin về thửa đất vào phôi Giấy CNQSD đất rồi tự ý ký giả chữ ký của ông  Vương  Văn  T4  –  Phó  Chủ  tịch  UBND  huyện  N  H;  giả  chữ  ký  của  ông Nguyễn Y KH (Phó Giám đốc – Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện  N H),  tự  ý  xác  nhận  nội  dung  chuyển  nhượng  khi  không  có  việc  chuyển  nhượng, sau  đó  mang  Giấy  CNQSD  đất  giả  mạo  đến  bộ  phận  văn  thư  thuộc  Văn  phòng HĐND và UBND huyện N H đóng dấu rồi giao cho người dân.

Tổng cộng bị cáo đã có  H1nh vi giả mạo 16 Giấy CNQSD đất gồm số: BC 685854,  BC  685855,  BC  685879;  BT  212905;  BT  212406,  BT  212421,  BT 212422,  BT  212430,  BT  212432,  BT  212492,  CH  079343,  CH  079344,  CH 079345 và AO 097144, AĐ 985328, X 505761.

Bên cạnh đó, bị cáo Huỳnh Văn C còn có H1nh vi: Vào các năm 2015, 2017 mặc dù những người được cấp các GCNQSDĐ số AĐ 985328, X 505761 không chuyển nhượng QSDĐ, nhưng C đã đưa ra thông tin gian dối là những người này có  nhờ  C  chuyển  nhượng  đất,  làm  chị  Th  tin  tưởng  và  giao  dịch  nhận  chuyển nhượng đất với C để C chiếm đoạt của chị Th số tiền 120.000.000 đồng.

Toà án sơ thẩm nhận định

Xét  H1nh  vi  phạm  tội  của  bị  cáo  là  nguy  hiểm  cho  xã  hội,  xâm  phạm đến  hoạt  động  đúng  đắn  của  cơ  quan,  tổ  chức;  làm  mất  uy  tín  của  cơ  quan,  tổ chức. H1nh vi của bị cáo còn là biểu hiện của sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối  sống  của  người  C1  bộ,  đảng  viên,  công  chức  nH1  nước,  gây  ảnh  hưởng  xấu đến  tình  hình  trật  tự  xã  hội  tại  địa  P,  gây  dư  luận  bất  B  trong  quần  chúng  nhân dân.  Bị  cáo  là  người  có  đầy  đủ  năng  lực  trách  nhiệm  hình  sự,  nhận  thức  được H1nh vi của mình nhưng vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Do đó, cần phải xử lý  bị  cáo  nghiêm  để  giáo  dục,  cải  tạo  bị  cáo,  đồng  thời  góp  phần  tích  cực  trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này trong tình hình hiện nay.

Vì  vậy,  Hội  đồng  xét  xử  xét  thấy,  cần  xử  phạt  bị  cáo  một  mức  án  nghiêm khắc là cần Thết, buộc phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải  tạo, giáo dục bị  cáo  Th4  công dân  có  ích  cho  xã hội.  Tuy  nhiên,  xét  thấy cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để áp dụng cho bị cáo được hưởng.

Toà án sơ thẩm quyết định

Tuyên bố bị  cáo  Huỳnh  Văn  C  (Tên  gọi  khác:  Không)  phạm  tội  “Giả  mạo trong công tác” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn C 13 (mƣời ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giả mạo trong công tác”.Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn C 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Điều 55 BLHS năm 2015, Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là  16  (mƣời  sau)  năm  06  (sáu)  tháng  tù.  Thời  hạn  chấp  H1nh  hình  phạt  tù tính từ ngày b t tạm giam (ngày 08/5/2020).

24

Bản án số 108/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân Tp. Hải Dương, tỉnh Hải Dương về tội “Giả mạo trong công tác”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Với nhiệm vụ được Giám đốc CDC H giao chạy máy xét nghiệm để phân tích, cho ra kết quả từ mẫu thu thập. Đây là một khâu quan trọng nhất trong toàn bộ quá  trình  xét nghiệm  nên  Nguyễn  Tùng  L  là người có quyền  hạn nhất định.  Vì động cơ vụ lợi, Nguyễn Tùng L đã lợi dụng quyền hạn của mình, thực hiện hành vi  thuê  làm  dấu  chức  danh  của  bà  Hoàng  Thị  Mai  H  (phó  trưởng  khoa  xét nghiệm)  và  dấu  chức  danh  của  ông  Nguyễn  Phúc  T  (phó  giám  đốc  trung  tâm), sau đó đã thực hiện việc tự ý đi lấy mẫu của những người có nhu cầu mang về CDC H; tự trộn ghép mẫu đưa vào máy chạy phân tích, khi có kết quả âm tính đã sử dụng mẫu trả kết quả của CDC H trên máy vi tính điền thông tin, ghép và photocopy chữ ký của lãnh đạo khoa xét nghiệm và lãnh đạo CDC H vào phiếu trả lời kết quả, lợi dụng sơ hở của nhân viên văn thư dùng con dấu của trung tâm đóng  lên  chữ  ký  ghép  và  chữ  ký  photocopy  phần  lãnh  đạo  tại  phiếu  trả  lời  kết quả,  trả  cho  người  có  nhu  cầu  xét  nghiệm  để  thu  tiền  mà  không  qua  hệ  thống theo dõi tại CDC H theo quy định.

Toà án sơ thẩm nhận định

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi làm  các  phiếu  kết  quả  xét  nghiệm  Covid-19  không  theo  quy  trình,  không  đưa vào hệ thống theo dõi của CDC H, giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn tại CDC H tại các phiếu trả kết quả để cấp cho người có nhu cầu là hành vi làm và cấp giấy tờ giả; đồng thời bị cáo cũng nhận thức được nếu không phải là người  làm  việc  tại  CDC  và  không  được  CDC  H  giao  nhiệm  vụ  chạy  máy  xét nghiệm thì không thể thực hiện được  việc làm ra các phiếu trả lời kết quả này. Hành  vi  mà  bị  cáo  đã  thực  hiện  đã  xâm  phạm  đến  sự  hoạt  động  đúng  đắn  của CDC H, làm cho CDC H suy yếu, mất uy tín và với hành vi làm, cấp số lượng 09 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 giả nên Viện kiểm sát nhân dân thành  phố  Hải  Dương  đề  nghị  kết  tội  bị  cáo  Nguyễn  Tùng  L  về  tội  Giả  mạo trong công tác theo quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 359 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Toà án sơ thẩm quyết định

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tùng L phạm tội “Giả mạo trong công tác”.

Xử phạt bị cáo  Nguyễn Tùng L 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 28/6/2021.

40

Bản án số 50/2022/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên về tội “giả mạo trong công tác”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Vào  tháng  11  năm  2021,  tại  UBND  phường  Xuân  Đ,  thị  xã  Sông  Cầu, tỉnh  Phú  Yên,  Nguyễn  Văn  T  (là  công  chức  Văn  Phòng-Thống  kê  thuộc  UBND phường Xuân Đ) vì động cơ vụ lợi đã lợi dụng vị trí trong công tác đã nhiều lần sử dụng chữ ký của ông Phan Phụng  Ch và bà Bùi Thị Thu V, chức vụ Phó Chủ tịch UBND phường Xuân Đ phô tô vào 02 văn bản thỏa thuận giao dịch đất và 03 giấy bán đất rồi sử dụng con dấu tròn của UBND phường Xuân  Đ, dấu tên và dấu chức vụ  của ông  Phan  Phụng  Ch và bà  Bùi  Thị  Thu  V đóng vào  chữ  ký phô tô  rồi đưa cho Lê Tấn K để nhận số tiền 4.000.000 đồng.

Toà án sơ thẩm nhận định

Hành vi bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, làm cho cơ quan, tổ chức mất uy tín. Hành vi của bị cáo  còn  là  biểu  hiện  cụ  thể  của  sự  suy  thoái  về  chính  trị,  đạo  đức,  lối  sống  của người cán bộ, công chức, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào các cơ quan nhà nước, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự, xã hội tại địa phương. Do đó, cần phải bị xử  lý  nghiêm  để  giáo  dục,  cải  tạo  bị  cáo,  đồng  thời  cũng  là  bài  học  sâu  sắc  trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong cơ quan, tổ chức.

Về  tình  tiết  tăng  nặng:  Bị  cáo  phạm  tội  02  lần  trở  lên  là  tình  tiết  tăng  nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi  phạm  tội,  đã  nộp  lại  số  tiền  4.000.000  đồng  thu  lợi  bất  chính,  có  cha  là  ông Nguyễn Văn Cải là thương binh, mẹ là bà Lê Thị Ngọc tham gia thanh niên xung phong được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến, là lao động chính trong gia đình, gia đình có hoàn cảnh khó khăn phải nuôi mẹ già và các con nhỏ là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy đinh tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS

Toà án sơ thẩm quyết định

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Giả mạo trong công tác”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

50

LINK PDF: Tổng hợp 20 bản án về tội giả mạo trong công tác

Bài viết liên quan