FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tội giả mạo trong công tác” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 20 bản án về tội “giả mạo trong công tác”
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số 27/2023/HS-ST ngày 22 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An về tội “ Giả mạo trong công tác”
Tóm tắt nội dung vụ án: Vào ngày 06/02/2022, tại xóm E, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An, vì động cơ vụ lợi nên Hồ Thức H lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Trạm trưởng Trạm y tế xã D đã cấp 05 (năm) phiếu trả lời kết quả xét nghiệm âm tính Covid – 19 mà không thực hiện quy trình xét nghiệm theo quy định của Bộ Y, trong đó có 03 (ba) phiếu trả lời kết quả xét nghiệm âm tính với Covid-19 là chữ ký của Hồ Thức H, còn 02 (hai) phiếu trả lời kết quả xét nghiệm âm tính với Covid-19 là chữ ký photocopy nên Phòng K Công an tỉnh N không tiến hành giám định chữ ký để chiếm đoạt số tiền 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Toà án sơ thẩm nhận định Hành vi thực hiện của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan, tổ chức gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi dụng dịch bệnh Covid-19 để chiếm đoạt tài sản, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân nói riêng và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội nói chung. Bị cáo có đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi thực hiện của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ nghiêm. Toà án sơ thẩm quyết định Tuyên bố bị cáo Hồ Thức H phạm tội “Giả mạo trong công tác”. Xử phạt bị cáo Hồ Thức H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. |
1 |
|
Bản án số 477/2023/HS-PT ngày 21 tháng 7 năm 2023 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Thành phố Hồ Chí Minh về tội “ Giả mạo trong công tác”
Tóm tắt nội dung vụ án: Lê Quang H là Điều tra viên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G, tỉnh Tiền Giang và Nguyễn Hoài P là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Các bị cáo được thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phân công giải quyết và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm xảy ra ngày 10/01/2019, 13/01/2019 và 03/02/2019 tại địa phương. Do để quá thời hạn giải quyết nhưng không tiến hành kiểm tra, xác minh theo quy định. Lo sợ đoàn thanh tra nghiệp vụ của Thanh tra Công an tỉnh tiền G phát hiện vi phạm nên H đã làm giả văn bản bằng phương pháp in L3 và scan chữ ký của Phó thủ trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra để làm nên 02 Công văn trao đổi, 03 Quyết định không khởi tố vụ án và 01 Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin tội phạm; Nguyễn Hoài P soạn thảo 03 Công văn thống nhất không khởi tố vụ án hình sự rồi dán ghép, photocopy chữ ký của Viện trưởng để hợp thức hóa hồ sơ. Toà án sơ thẩm tuyên Tuyên bố các bị cáo Lê Quang H và Nguyễn Hoài P phạm tội “Giả mạo trong công tác”. Xử phạt bị cáo Lê Quang H 03 (ba) năm tù; thời hạn từ tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài P 01 (một) năm tù; thời hạn từ tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Ngày 3/3/2023, bị cáo Nguyễn Hoài P kháng cáo xin hưởng án treo. Ngày 8/3/2023, bị cáo Lê Quang H kháng cáo xin hưởng án treo. Toà án phúc thẩm nhận định Đối với bị cáo Lê Quang H là người giữ vai trò chính, không những thiếu trách nhiệm trong công việc được phân công dẫn đến để nguồn tin tội phạm quá thời hạn luật định mà còn thực hiện và xúi giục đồng phạm thực hiện hành vi giả mạo các quyết định của Thủ trưởng cơ quan đều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông. Mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo không mang tính vụ lợi về vật chất, tuy nhiên tính chất, mức độ đối với hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề là đã có khoan hồng đối với bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt nào mới. Do đó đơn kháng cáo của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với Nguyễn Hoài P mặc dù trong quá trình được phân công kiểm sát đối với nguồn tin tội phạm cũng đã thực hiện việc trao đổi, đôn đốc đối với điều tra viên thụ lý vụ việc. Tuy nhiên việc kiểm sát là chưa đầy đủ và do nể nang, tin tưởng nên khi được H nhờ hợp thức hóa đã soạn thảo văn bản, photocopy chữ ký của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông, tạo ra văn bản giả mạo là 03 Công văn với nội dung thống nhất không khởi tố vụ án hình sự. Do đó mức án 01 năm tù mà Tòa sơ thẩm xử phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên đã được cấp sơ thẩm áp dụng, thì xét thấy trong quá trình công tác bị cáo Nguyễn Hoài P nhiều năm được tặng thưởng danh hiệu Lao động tiên tiến và Chiến sỹ thi đua cơ sở. Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách niệm hình sự, người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong công tác theo quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được Hội đồng xét xử áp dụng bổ sung đối với bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ vai trò thứ yếu trong vụ án, phạm tội vì nể nang, tin tưởng, không vụ lợi về vật chất vì thế đủ điều kiện để được áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự, nên đơn kháng cáo của bị cáo được chấp nhận. Toà án phúc thẩm quyết định Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Quang H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2003/HS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về hình phạt đối với bị cáo Lê Quang H. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoài P. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2003/HS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hoài P. |
8 |
|
Bản án số 85/2023/HS-PT ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang về tội “ Giả mạo trong công tác”
Tóm tắt nội dung vụ án: Theo quyết định số 48-QĐ/ĐU ngày 04/5/2016 của Đảng ủy xã N về việc điều động Phạm Mai Nhật T từ phó Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về Văn phòng Đảng ủy xã N, theo đó T được phân công nhiệm vụ tham mưu cho Thường trực Đảng ủy về công tác soạn thảo văn bản, lưu trữ hồ sơ đảng ủy và những công việc có liên quan đến công tác văn phòng. Ngoài ra, theo lời khai của ông Lê Minh C1 xác định: các hồ sơ đảng viên này chính ông C1 là người tiếp nhận, kiểm tra đầy đủ thủ tục trình tự và đã báo trong cuộc họp lệ tháng với Đảng ủy, được Đảng ủy xã N thống nhất chuyển hồ sơ đề nghị Ban Tổ chức Huyện ủy ra Quyết định công nhận đảng viên chính thức, sau đó, ông C1 bàn giao lại cho T để soạn thảo nghị quyết. Đồng thời, T cũng thừa nhận, bản thân bị cáo cũng là thư ký của các cuộc họp này và có nhiệm vụ tham mưu soạn thảo các nghị quyết được thông qua tại cuộc họp trình Ban thường vụ Đảng ủy xã N ký ban hành theo đúng quy định. Như vậy, trách nhiệm tham mưu, soạn thảo nghị quyết đề nghị công nhận đảng viên chính thức cho Trần Thị Kim N1, Trần Thị Cẩm L và Đỗ Thị Kim T3 phù hợp, đúng với nhiệm vụ được phân công theo quyết định số 48-QĐ/ĐU ngày 04/5/2016 của Đảng ủy xã N. Nhưng do quên, chưa soạn thảo nghị quyết để làm thủ tục chuyển hồ sơ đến Ban T5 (nay là Ban T5), sợ bị kiểm điểm, kỷ luật, đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ, bị giảm uy tín, bị cáo đã dùng phôi giấy giả, in phun màu thực hiện làm, cấp giả 03 Quyết định công nhận đảng viên chính thức. Toà án sơ thẩm tuyên Tuyên bố các bị cáo Phạm Mai Nhật T phạm tội “Giả mạo trong công tác”. Xử phạt bị cáo Phạm Mai Nhật T 03 (ba) năm tù; thời hạn từ tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/6/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ- VKSAG kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS-ST ngày 30/5/2023 của Tòa án nhân dân thị xã T; đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm vụ án, theo hướng hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình đã có nhiều đóng góp và được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen, xin Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Toà án phúc thẩm nhận định Nhận thấy, lời khai của bị cáo T hoàn toàn không mâu thuẫn với lời khai ông D, C1 và Quyết định điều động T đến công tác tại Văn phòng Đảng ủy như kháng nghị đã nhận định. Do đó, Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Mai Nhật T về tội “Giả mạo trong công tác” với tình tiết định khung “Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 359 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Từ những phân tích trên, xét thấy không có căn cứ chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKSAG ngày 28/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang về việc hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã T. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Mai Nhật T với mức án 03 năm tù là có phần nghiêm khắc. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là lao động chính trong gia đình, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo đã cung cấp nhiều giấy khen của bị cáo, nhiều bằng khen của cha, mẹ bị cáo thể hiện bị cáo và gia đình đã có nhiều công sức đóng góp cho đất nước, cho xã hội; bị cáo đã có thành tích xuất sắc trong học tập, đạt Giải nhì Môn Lý trong Kỳ thi học sinh giỏi cấp Tỉnh năm học 2001 – 2002, đạt Giải nhất Tài năng học đường năm học 2003 – 2004. Đây là tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” được quy định tại điểm v khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự, chưa được cấp sơ thẩm xem xét. Do vậy, Hội đồng xét xử có xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Toà án phúc thẩm quyết định Không chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐ-VKSAG ngày 28/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang về việc hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã T. Sửa án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Mai Nhật T. |
18 |
|
Bản án số 40/2022/HS-ST ngày 06 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum về tội “ Giả mạo trong công tác”
Tóm tắt nội dung vụ án: Huỳnh Văn C là C1 bộ công tác tại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N H từ năm 2006. Tháng 01/2017 đến tháng 8/2019 bị cáo được bổ nhiệm chức vụ Phó Giám đốc, Giám đốc Chi nhánh – Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện N H. Nhiệm vụ của bị cáo được giao phụ trách trong hai giai đoạn trên là đo đạc bản đồ, trích đo hồ sơ địa chính thửa đất; thống kê, kiểm kê đất đai; chỉnh lý biến động đất đai; L2 hồ sơ thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDD tại địa bàn các xã: Sa Loong, Đắk Kan, Đắk Xú và thị trấn Plei Kần, huyện N H. Bị cáo Huỳnh Văn C nhiều lần tiếp nhận, quản lý phôi Giấy CNQSD đất do Phòng Tài nguyên và môi trường huyện N H giao để thực hiện việc cấp Giấy CNQSD đất cho người dân. Trong quá trình công tác, Huỳnh Văn C đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng việc được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý, sử dụng phôi Giấy CNQSD đất đã không thực hiện việc đăng ký đất đai, hồ sơ địa chính theo đúng trình tự, thủ tục quy định về việc cấp Giấy CNQSD đất mà tự ý cập nhập thông tin của người thân quen, thông tin về thửa đất vào phôi Giấy CNQSD đất rồi tự ý ký giả chữ ký của ông Vương Văn T4 – Phó Chủ tịch UBND huyện N H; giả chữ ký của ông Nguyễn Y KH (Phó Giám đốc – Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện N H), tự ý xác nhận nội dung chuyển nhượng khi không có việc chuyển nhượng, sau đó mang Giấy CNQSD đất giả mạo đến bộ phận văn thư thuộc Văn phòng HĐND và UBND huyện N H đóng dấu rồi giao cho người dân. Tổng cộng bị cáo đã có H1nh vi giả mạo 16 Giấy CNQSD đất gồm số: BC 685854, BC 685855, BC 685879; BT 212905; BT 212406, BT 212421, BT 212422, BT 212430, BT 212432, BT 212492, CH 079343, CH 079344, CH 079345 và AO 097144, AĐ 985328, X 505761. Bên cạnh đó, bị cáo Huỳnh Văn C còn có H1nh vi: Vào các năm 2015, 2017 mặc dù những người được cấp các GCNQSDĐ số AĐ 985328, X 505761 không chuyển nhượng QSDĐ, nhưng C đã đưa ra thông tin gian dối là những người này có nhờ C chuyển nhượng đất, làm chị Th tin tưởng và giao dịch nhận chuyển nhượng đất với C để C chiếm đoạt của chị Th số tiền 120.000.000 đồng. Toà án sơ thẩm nhận định Xét H1nh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm mất uy tín của cơ quan, tổ chức. H1nh vi của bị cáo còn là biểu hiện của sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống của người C1 bộ, đảng viên, công chức nH1 nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa P, gây dư luận bất B trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được H1nh vi của mình nhưng vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Do đó, cần phải xử lý bị cáo nghiêm để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này trong tình hình hiện nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc là cần Thết, buộc phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo Th4 công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, xét thấy cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để áp dụng cho bị cáo được hưởng. Toà án sơ thẩm quyết định Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn C (Tên gọi khác: Không) phạm tội “Giả mạo trong công tác” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn C 13 (mƣời ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giả mạo trong công tác”.Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn C 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng Điều 55 BLHS năm 2015, Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 16 (mƣời sau) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp H1nh hình phạt tù tính từ ngày b t tạm giam (ngày 08/5/2020). |
24 |
|
Bản án số 108/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân Tp. Hải Dương, tỉnh Hải Dương về tội “Giả mạo trong công tác”
Tóm tắt nội dung vụ án: Với nhiệm vụ được Giám đốc CDC H giao chạy máy xét nghiệm để phân tích, cho ra kết quả từ mẫu thu thập. Đây là một khâu quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình xét nghiệm nên Nguyễn Tùng L là người có quyền hạn nhất định. Vì động cơ vụ lợi, Nguyễn Tùng L đã lợi dụng quyền hạn của mình, thực hiện hành vi thuê làm dấu chức danh của bà Hoàng Thị Mai H (phó trưởng khoa xét nghiệm) và dấu chức danh của ông Nguyễn Phúc T (phó giám đốc trung tâm), sau đó đã thực hiện việc tự ý đi lấy mẫu của những người có nhu cầu mang về CDC H; tự trộn ghép mẫu đưa vào máy chạy phân tích, khi có kết quả âm tính đã sử dụng mẫu trả kết quả của CDC H trên máy vi tính điền thông tin, ghép và photocopy chữ ký của lãnh đạo khoa xét nghiệm và lãnh đạo CDC H vào phiếu trả lời kết quả, lợi dụng sơ hở của nhân viên văn thư dùng con dấu của trung tâm đóng lên chữ ký ghép và chữ ký photocopy phần lãnh đạo tại phiếu trả lời kết quả, trả cho người có nhu cầu xét nghiệm để thu tiền mà không qua hệ thống theo dõi tại CDC H theo quy định. Toà án sơ thẩm nhận định Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi làm các phiếu kết quả xét nghiệm Covid-19 không theo quy trình, không đưa vào hệ thống theo dõi của CDC H, giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn tại CDC H tại các phiếu trả kết quả để cấp cho người có nhu cầu là hành vi làm và cấp giấy tờ giả; đồng thời bị cáo cũng nhận thức được nếu không phải là người làm việc tại CDC và không được CDC H giao nhiệm vụ chạy máy xét nghiệm thì không thể thực hiện được việc làm ra các phiếu trả lời kết quả này. Hành vi mà bị cáo đã thực hiện đã xâm phạm đến sự hoạt động đúng đắn của CDC H, làm cho CDC H suy yếu, mất uy tín và với hành vi làm, cấp số lượng 09 phiếu trả lời kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 giả nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương đề nghị kết tội bị cáo Nguyễn Tùng L về tội Giả mạo trong công tác theo quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 359 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Toà án sơ thẩm quyết định Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tùng L phạm tội “Giả mạo trong công tác”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng L 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 28/6/2021. |
40 |
|
Bản án số 50/2022/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên về tội “giả mạo trong công tác”
Tóm tắt nội dung vụ án: Vào tháng 11 năm 2021, tại UBND phường Xuân Đ, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, Nguyễn Văn T (là công chức Văn Phòng-Thống kê thuộc UBND phường Xuân Đ) vì động cơ vụ lợi đã lợi dụng vị trí trong công tác đã nhiều lần sử dụng chữ ký của ông Phan Phụng Ch và bà Bùi Thị Thu V, chức vụ Phó Chủ tịch UBND phường Xuân Đ phô tô vào 02 văn bản thỏa thuận giao dịch đất và 03 giấy bán đất rồi sử dụng con dấu tròn của UBND phường Xuân Đ, dấu tên và dấu chức vụ của ông Phan Phụng Ch và bà Bùi Thị Thu V đóng vào chữ ký phô tô rồi đưa cho Lê Tấn K để nhận số tiền 4.000.000 đồng. Toà án sơ thẩm nhận định Hành vi bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, làm cho cơ quan, tổ chức mất uy tín. Hành vi của bị cáo còn là biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống của người cán bộ, công chức, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào các cơ quan nhà nước, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự, xã hội tại địa phương. Do đó, cần phải bị xử lý nghiêm để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời cũng là bài học sâu sắc trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong cơ quan, tổ chức. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đã nộp lại số tiền 4.000.000 đồng thu lợi bất chính, có cha là ông Nguyễn Văn Cải là thương binh, mẹ là bà Lê Thị Ngọc tham gia thanh niên xung phong được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến, là lao động chính trong gia đình, gia đình có hoàn cảnh khó khăn phải nuôi mẹ già và các con nhỏ là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy đinh tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS Toà án sơ thẩm quyết định Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Giả mạo trong công tác”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. |
50 |