FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN NHƯNG CHO HƯỞNG ÁN TREO” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN NHƯNG CHO HƯỞNG ÁN TREO
STT |
TÊN VĂN BẢN |
TRANG |
|
Bản án số 22/2020/HS-PT ngày 15, 18/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
Tóm tắt nội dung vụ án Do bà T1 nợ tiền của vợ chồng ông H, bà T lâu ngày không trả nên T gọi C (em rể) và C1 là con của H và T cùng đến nhà của bà T1 đòi nợ và bàn bạc là nếu T1 không trả nợ thì lấy đồ vật có giá trị trong nhà T1 mang về. Tuy nhiên, T1 chưa có tiền trả nên xin khất nợ nhưng T, H không đồng ý nên đã cùng C và C1 khiêng nhiều đồ vật có giá trị trong nhà T1 ra sân và thuê xe chở về dù cho không được sự đồng ý của T1 và Th là con trai của T1. Quá trình các đối tượng khiêng đồ ra xe để chở về đều bị Th dùng điện thoại di động quay video lại. Sau đó, anh Th làm đơn trình báo Cơ quan CSĐT, Công an huyện Duy Tiên đề nghị xử lý T, H, C và C1 theo quy định của pháp luật. Tại kết luận về việc định giá tài sản xác định tổng giá trị các tài sản bị cưỡng đoạt là 8.927.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định Tại Bản án hình sự sơ thẩm số Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam đã Tuyên bố các bị cáo đều phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo T 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; bị cáo H và bị cáo C, mỗi bị cáo bị xử phạt 13 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; bị cáo C1 bị xử Ngày 13/01/2020, các bị cáo T, H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo, bị cáo C1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và tiếp tục được hưởng án treo. Ngày 15/01/2020, bị cáo C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo một lần nữa thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo T cùng đồng phạm đều về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Xét kháng cáo của các bị cáo Mặc dù hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nhưng xét về nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo là xuất phát từ việc gia đình người bị hại vay tiền của gia đình bị cáo T đã lâu, mặc dù gia đình bị cáo đã đòi nhiều lần nhưng người bị hại vẫn chưa trả, gây bức súc cho các bị cáo. Quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo T cung cấp đơn đề nghị của các hộ dân tại nơi cư trú; bị cáo C cung cấp đơn xin xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là Tòa án cấp phúc thẩm quyết định Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo. Sửa bản án hình sự sơ thẩm. Xử phạt: – Bị cáo T 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. – Các bị cáo H và C, mỗi bị cáo 13 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 26 tháng tù kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. – Bị cáo C1 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bản án còn quy định về án phí. |
1-9 |
|
Bản án số 120/2020/HS-PT ngày 17/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
Tóm tắt nội dung vụ án Do vợ chồng ông T, bà Nh nợ tiền của cha bị cáo H 36 triệu đồng nên ngày 20/10/2019 bị cáo H cùng một số người bạn gồm Dương Văn Đ, Tạ Khắc T, Phan Văn B, Phạm Công C, Phạm Xuân N đến nhà của anh Nguyễn Vĩnh T để đòi nợ. Do vợ chồng anh T không chịu trả nợ nên H đã lấy 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Eciter, BKS, 37P1-542.52 của anh T rồi điều khiển ra khỏi nhà anh T, Dương Văn Đ cũng dắt 01 chiếc xe nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius, BKS 37N1-320.37 đi ra ngoài. Do thấy Nguyễn Xuân H đi nhiều người, thái độ rất hung hăng, dữ tợn, nên vợ chồng anh T không dám ngăn cản, chị Nh dùng điện thoại quay lại toàn bộ sự việc. Đến 15 giờ 00 phút cùng ngày, nhận thức được việc làm của mình là trái quy định pháp luật nên Nguyễn Xuân H đem xe giao nộp xe cho Công an xã Công Thành, huyện Yên Thành. Sau đó Dương Văn Đ cũng đến Công an huyện Yên Thành đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Tại kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thành xác định tổng giá trị của 02 chiếc xe mà H và Đ đã cưỡng đoạt của anh T là 41.300.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19/2020/HSST ngày 24/03/2020 của TAND huyện Yên Thành đã quyết định: xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân H 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Dương Văn Đ 12 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng. Thời hạn thử thách đối với bị cáo được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/3/2020, người bị hại là anh Nguyễn Vĩnh T kháng cáo bản án, vì lý do mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo là quá nhẹ, đề nghị cấp phúc thẩm nâng mức hình phạt đối với Nguyễn Xuân H lên 03 năm tù, đối với Dương Văn Đ lên 02 năm tù. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Tại phiên tòa phúc thẩm Bị cáo H khai rằng bị cáo không có ý thức chiếm đoạt xe máy của vợ chồng anh T để trừ nợ mà chỉ muốn lấy để xe để buộc vợ chồng anh T có ý thức trả nợ, nhưng hành vi dùng lời nói, hành động trấn áp về tinh thần lấy tài sản không được đồng ý của chủ sở hữu là là trái pháp luật, phạm vào tội Cưỡng đoạt tài sản. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không kháng cáo, bị cáo không có tình tiết mới để cấp phúc thẩm xem xét. Vì vậy, không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt như trình bày của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm. Xét kháng cáo đề nghị tăng hình phạt của người bị hại đối với các bị cáo: Người bị hại là anh Nguyễn Vĩnh T kháng cáo yêu cầu tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo. Tuy nhiên, như đã phân tích trên, cấp sơ thẩm đã đánh giá hành vi phạm tội, tính chất vụ án, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo xử phạt Nguyễn Xuân H 15 tháng tù, Dương Văn Đ 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo tăng hình phạt của người bị hại đối với các bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định Không chấp nhận kháng cáo của anh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án còn quy định về án phí. |
10-17 |
|
Bản án số 32/2020/HS-PT ngày 01/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 26/12/2019 Bùi Văn Hải nhặt được một số giấy tờ gồm: 01giấy phép lái xe mô tô mang tên Bùi Mạnh T, 01 giấy phép lái xe mô tô và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS: 28E1-151.64 mang tên Bùi Thị Kiển (vợ T). Biết số giấy tờ trên là của anh Bùi Mạnh T dạy cùng trường nên Hải không trả mà cất đi để trêu T. Sau đó Hải đưa cho Quách Văn P kêu P đăng lên facebook tìm người mất giấy tờ và trả lại cho họ. Sau đó P cũng đã đăng facebook và vợ chồng anh T thấy nên đã liên lạc với P để xin nhận lại giấy tờ của mình. Sau đó P cùng Đỗ Văn C đến gặp anh T, nhưng P nói là do anh T nợ tiền của một người bạn của P nên nhờ P gặp anh T để đòi nợ số tiền 5 triệu đồng. P dọa T nếu không trả 5 triệu đồng thì P sẽ đốt giấy tờ của T. Anh T khẳng định mình không nợ ai nên không đồng ý đưa 5 triệu cho P. Sau đó anh T liên lạc lại cho P và đồng ý đưa 4 triệu đồng cho P để nhận lại giấy tờ. Trưa ngày 06/01/2020, anh T gọi điện cho P hẹn gặp để đưa cho P số tiền 4.000.000đ. P gọi điện cho Chiến rủ đi cùng đến quán nước đối diện sân vận động Quá trình điều tra P khai rằng anh Hải đã đưa cho P và nhờ P đòi 5 triệu từ anh T, nhưng anh Hải không thừa nhận và khai chỉ nhờ P đăng facebook tìm người làm rơi để trả lại. Do không có chứng cứ chứng minh anh Hải là đồng phạm nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Hải. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2020/HS- ST ngày 11/8/2020 Tòa án nhân Ngày 21/9/2020, bị cáo Quách Văn P có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự công cộng và trị an tại địa phương. Cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo về tội Cưỡng đoạt tài sản là có căn cứ,đúng người, đúng tội. Xét kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo, HĐXX xét thấy: Bị cáo Quách Văn P không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần đầu, quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo có mẹ đẻ là người tàn tật được hưởng trợ cấp xã hội, bị cáo có con còn nhỏ bị bệnh tim bẩm sinh, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Tại cấp phúc thẩm bị hại anh Bùi Mạnh T có đơn xin cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét bị cáo Quách Văn P có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ –HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán – Toà án nhân dân tối cao để HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo P xin hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định Chấp nhận kháng cáo của bị cáo P, sửa bản án hình sự sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo: Quách Văn P phạm tội Cưỡng đoạt tài sản. Xử phạt Quách Văn P 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. |
18-24 |
|
Bản án số 131/2020/HS-PT ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
Tóm tắt nội dung vụ án Đỗ Thị Thu H là giáo viên tại trường THPT vùng cao VB, quá trình công tác tại trường H quen chị H1. H khai có nhận từ T1 cùng là giáo viên dạy tại trường số tiền 600 triệu đồng rồi giao cho chị H1 nhờ xin việc cho một số người quen và còn cho H1 vay thêm 1 tỷ đồng. Đến ngày 31/12/2014 bà Lục Thúy H1 được bổ nhiệm giữ chức vụ Hiệu trưởng trường Phổ thông vùng cao VB. Lúc này, H đến gặp bà H1 để đòi lại số tiền đã giao cho nhưng bà H1 khẳng định không được nhận tiền của H. Vì không có chứng cứ chứng minh về việc giao nhận tiền giữa hai bên, bản thân H đang nợ nhiều tiền ở ngoài xã hội nên đến cuối năm 2017 H viết đơn xin nghỉ việc và bỏ đi nơi khác. Đầu năm 2019 T1 yêu cầu H trả tiền nhưng H không có tiền để trả. Biết thông tin bà H1 chuẩn bị bổ nhiệm lại chức hiệu trưởng nên đã bàn với T1 dùng thủ đoạn để tạo áp lực, đe dọa bà H1 để chiếm đoạt tiền. Sau đó, H, T1 cùng với T và C1 đã thực hiện 02 lần dùng thủ đoạn đưa ra thông tin giả về việc H trong thời gian công tác tại trường có nhận tiền để chạy việc, nếu H1 không giải quyết sẽ tố cáo ra Bộ giáo dục đào tạo để chiếm đoạt số tiền 150 triệu đồng của bà H1. Khi các đối tượng định thực hiện tiếp lần thứ ba thì bà H1 nghi ngờ nên đã trình báo công an. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo H, T1, T và C1 đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định Tại bản án hình sự sơ thẩm số 290/2020/HSST ngày 04/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố các bị cáo Đỗ Thị Thu H, Dương Thị T1, Lý Thị T và Phạm Thành C1 phạm tội: “Cưỡng đoạt tài sản”; xử phạt bị cáo Lý Thị T 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/10/2019. Ngày 11/8/2020, bị cáo Lý Thị T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa bị cáo xin thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Với hành vi đã thực hiện, bị cáo T bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội: “Cưỡng đoạt tài sản”; theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 170 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Bị cáo Lý Thị T tham gia với vai trò là người giúp sức. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đã ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã nộp toàn bộ số tiền được hưởng lợi để khắc phục hậu quả, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có nhân thân tốt, được hưởng nhiều Tình tiếtgiảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, ngoài ra, trong hồ sơ thể hiện quá trình công tác bị cáo có nhiều thành tích xuất sắc, được tặng thưởng nhiều Giấy khen, Bằng khen và kỷ niệm chương về sự nghiệp giáo dục, Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng Tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo là chưa đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, cấp phúc thẩm cần áp dụng cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có đủ các điều kiện để được hưởng án treo, việc cho bị cáo được hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lý Thị T, sửa bản án hính sự sơ thẩm: Tuyên bố: Bị cáo Lý Thị T phạm tội: “Cưỡng đoạt tài sản”, xử phạt bị cáo Lý Thị T 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Bản án còn quy định về án phí. |
25-32 |
|
Bản án số 105/2020/HS-PT ngày 21/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông
Tóm tắt nội dung vụ án Do vợ chồng anh Huỳnh Văn D nợ tiền hơn 60 triệu đồng của vợ chồng Lê Thị L nên vào ngày 01/12/2018 L rủ Phan Kỳ P, Nguyễn Minh T4, D Ngọc T3, Trần Quốc T5 tới nhà của anh D để đòi nợ. Tuy nhiên khi nhóm của L tới anh D đã bỏ vào trong nhà và khóa cửa lại. L dọa nếu anh D không ra nói chuyện trả nợ sẽ hốt hết cà phê đang phơi ở sân của anh D. Sau đó, L gọi điện thuê xe và cùng các đối tượng thực hiện đóng bao toàn bộ số cà phê anh D đang phơi ở sân nhà rồi mang đến gửi ở kho của trung đoàn 720 tổng cộng 2.328,8 kg cà phê nhân khô quy chuẩn, sau đó Phan Kỳ P đã bán 150 kg cà phê nhân cho trung đoàn 720 được số tiền 5.100.000 đồng. Ngày 12/12/2018 anh Huỳnh Văn D có đơn tố cáo đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đ để yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật. Tại kết luận định giá tài sản xác định, tổng giá trị tài sản mà các đối tượng chiếm đoạt là 76.834.811 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2020/HS-ST ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đ, tỉnh Đắk Nông quyết định: Tuyên bố các bị cáo Lê Thị L, Phan Kỳ P, Nguyễn Minh T4, D Ngọc T3 và Trần Quốc T5 phạm tội“Cưỡng đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Lê Thị L 02 (Hai) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Xử phạt bị cáo Phan Kỳ P 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 21/02/2020. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T4; D Ngọc T3; Trần Quốc T5 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 21/02/2020. Ngày 29-5-2020 bị cáo Lê Thị L kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 02/6/2020, bị hại Huỳnh Văn D kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm hủy Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Căn cứ theo các tài liệu, chứng cứ, lời khai có trong hồ sơ vụ án xét thấy kháng cáo của bị hại là không có căn cứ chấp nhận. Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo L, quá trình lượng hình, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Tuy Đ đã có xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, trong vụ án này bị cáo L là người khởi xướng việc cưỡng đoạt tài sản, vì vậy cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo L dưới mức thấp nhất của khung hình phạt với mức án 02 năm tù là tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo này của bị cáo L. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án còn quy định về án phí. |
33-42 |
|
Bản án số 139/2020/HS-PT ngày 14/12/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Tóm tắt nội dung vụ án Từ tháng 8/2018 đến tháng 9/2019, tại xã T, huyện T, tỉnh Quảng Bình, có 33 người tham gia vào các dây hụi do chị Trần Thị H làm chủ hụi và đồng thời là thành viên đóng hụi. Quá trình đóng hụi một số thành viên đã lĩnh hụi số tiền lớn rồi bỏ trốn không tiếp tục đóng hụi, nên dẫn đến bị vỡ hụi. ngày 26/11/2019 Nguyễn Thị Th, Cao Thị Bích Th kéo đến nhà yêu cầu chị H xác nhận số tiền đã góp hụi thành tiền nợ và buộc chị H cam kết trả nợ. Chị H không đồng ý nên 02 đối tượng yêu cầu chị H chuyển nhượng một số tài sản và viết giấy xác nhận nợ cá nhân. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, do bị đe dọa và ép buộc nên chị H, anh S phải ký vào giấy chuyển nhượng tài sản, giao xe mô tô cho Cao Thị Bích Th; giao cho Nguyễn Thị Th một bộ bàn ghế bằng gỗ, nhận nợ và cam kết trả số tiền 130.000.000 đồng còn lại. Tại kết luận định giá tài sản xác định tổng giá trị tài sản mà 02 đối tượng đã chiếm đoạt là 80 triệu đồng. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Tuyên Hóa quyết định: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Th và Cao Thị Bích Th phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th 36 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; xử phạt bị cáo Cao Thị Bích Th 18 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Ngày 09 tháng 10 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa nhận được đơn kháng cáo của bị hại Trần Thị H và Trần Ngọc S với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tăng năng hình phạt đối với hai bị cáo Nguyễn Thị Th và Cao Thị Bích Th. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Xét kháng đề nghị tăng nặng hình phạt của bị hại Trần Thị H và Trần Ngọc S thấy: Xuất phát từ việc bị hại Trần Thị H làm chủ hụi bị vỡ, do sợ không lấy được tiền đã đóng hụi nên hai bị cáo Nguyễn Thị Th và Cao Thị Bích Th đã lấy một số tài sản của vợ chồng chị Trần Thị H để trừ tiền đóng hụi ngoài ý chí của vợ chồng bị hại. Từ nguyên nhân trên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm d khoản 2 Điều 170, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự cho cả hai bị cáo, riêng bi cáo Th áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th 36 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 60 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; xử phạt bị cáo Cao Thị Bích Th 18 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là đúng với hành vi phạm tội của hai bị cáo, vì vậy không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của bị hại Trần Thị H và Trần Ngọc S để tăng nặng hình phạt đối với hai bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định Không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án còn quy định về án phí. |
43-47 |
LINK PDF: Tổng hợp 20 bản án về tội cưỡng đoạt tài sản nhưng cho hưởng án treo
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn