FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án số: 09/2022/HC-ST ngày 30/06/2022 của Tòa án nhân dân Tỉnh Đắk Nông.
Về việc “Khiếu kiện hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ)” Nội dung vụ án: Ông Huỳnh Tấn Đ khởi kiện UBND huyện Đ yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ số AP861253 cấp cho thửa đất số 12, tờ bản đồ số 47 đứng tên ông Bùi Văn T cấp vì ông Đ cho rằng UBND huyện Đ đã cấp GCNQSDĐ sai chồng lấn lên thửa đất số ông Đ khai hoang từ năm 1999. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Đ biết được ông T đã nhượng lại thửa đất nêu trên cho ông Trần Văn H đã được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp GCNQSDĐ số DA1805538 ngày 03/01/2021. Do đó, ngày 07/03/2022 ông Đ có đơn bổ sung yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ số DA180538 đứng tên ông H. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Xét yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tấn Đ: Tại văn bản số: 1267/UBND-TNMT ngày 29/4/2020 của UBND huyện Đ đã xác định việc cấp GCNQSDĐ số AL809105, thửa số 12, tờ bản đồ số 47 cho ông K’T chồng lấn lên phần diện tích đất gia đình ông Đ thực tế đang sử dụng. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 09/3/2022 của TAND tỉnh Đắk Nông ghi nhận: Thực tế, diện tích đất ông Huỳnh Tấn Đ đang sử dụng thuộc thửa số 31, tờ bản đồ số 29 đo đạc năm 2013 có ranh giới rõ ràng, không tranh chấp. Ranh giới đất giữa ông Huỳnh Tấn Đ với ông K’T (đã chuyển nhượng cho nhiều người khác) được phân định bằng hàng rào cọc bê tông cố định và hội trường thôn 08, xã Đ, huyện Đ. Như vậy, HĐXX có căn cứ kết luận: UBND huyện Đ đã cấp GCNQSDĐ số AL809405, thửa đất 12, tờ bản đồ số 47 cho ông KT chồng lấn lên diện tích đất thực tế gia đình ông Đ đang sử dụng, giữa các bên không tranh chấp. Quá trình thực hiện thủ tục cấp GCNQSDĐ đối với ông Bùi Văn T trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông K’T, các cơ quan có thẩm quyền đã không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục theo quy định của luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành luật đất đai, nên có sai sót cấp GCNQSDĐ nhầm vị trí trên thực địa, dẫn đến việc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Nông cấp GCNQSDĐ cho ông Trần Văn H trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Bùi Văn T không đúng vị trí trên thực địa. Song giữa các đương sự không có tranh chấp đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thừa nhận việc cấp GCNQSDĐ số DA180538, thửa đất số 42, tờ bản đồ số 47, diện tích 400m2 cho ông Trần Văn H là có sai sót. Do đó, HĐXX có căn cứ chấp nhận quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Đắk Nông tại phiên tòa và yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tấn Đ. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Tấn Đ: Hủy GCNQSDĐ số DA180538 do Sở TN và MT tỉnh Đắk Nông cấp ngày 03/11/2021 cho ông Trần Văn H. |
01 – 05 |
2 |
Bản án số: 01/2022/HC-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân Tỉnh Sóc Trăng.
Về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc hủy GCNQSDĐ” Nội dung vụ án: Gia đình Bà Nguyễn Thị Mỹ N và gia đình bà Nguyễn Thị U hiện đang tranh chấp phần đất có diện tích 96,6m2, thửa đất số 12, tờ bản đồ số 44 tại ấp An Thành, thị trấn Kế Sách, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Nhưng UBND huyện Kế Sách đã cấp GCNQSDĐ cho bà U đối với thửa đất nêu trên. Do đó, bà N khởi kiện UBND huyện K yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy toàn bộ GCNQSDĐ số CN592825 (số vào sổ CH03509) ngày 03/9/2019 và số CX 828788 (số vào sổ CS04082) ngày 09/03/2021 đối với phần diện tích 96,6m2 tại thửa đất nêu trên. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Tại thời điểm bà Nguyễn Thị U có Đơn đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 10/05/2019, đối với Thửa đất số 12, tờ bản đồ số 44, diện tích 96,6m2 (loại đất ODT), tọa lạc ấp An Thành, thị trấn Kế Sách, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng là đất đang có tranh chấp, chưa được giải quyết và trên Sổ mục kê ruộng đất do người khác đứng tên sử dụng đất. Đứng ra, cơ quan chuyên môn và UBND huyện Kế Sách phải từ chối và không cấp Giấy chứng nhận cho bà U, do không đủ điều kiện cấp theo quy định tại Điều 99 và Điều 101 Luật đất đai năm 2013; hướng dẫn tại khoản 5 Điều 19 và Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ (Sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ). Xét thấy, khi lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho bà U thì tình trạng đất đang có tranh chấp và trên Sổ mục kê ruộng đất ghi nhận người đứng tên sử dụng đất là “Trịnh Thị L”, trong khi việc tranh chấp chưa được giải quyết và chưa có kết luận của người hoặc cơ quan có thẩm quyền việc Sổ mục kê ruộng đất “Trịnh Thị L” đứng tên đúng hay sai; nhưng khi xác lập thủ tục tại Đơn đăng ký (BL 41), Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư và Biên bản xác nhận cùng ngày 21/02/2019 (BL 100, 101). Danh sách công khai ngày 25/04/2019 (BL 102) thì về nguồn gốc đất đều có ghi thêm “Sổ mục kê ghi tên Trịnh Thị L là sai”, các thủ tục này đều được Công chức địa chính và UBND thị trấn K ký xác nhận, chứng thực “Tình trạng đất không tranh chấp” và được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Kế Sách có ý kiến “Đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận”. Từ đó, UBND huyện Kế Sách cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 592825 ngày 03/9/2019 cho bà Nguyễn Thị U và ngày 13/09/2019 điều chỉnh biến động cho Đỗ Huy C đứng tên là không có căn cứ và không đúng pháp luật. Do việc cấp Giấy chứng nhận cho bà U chưa đúng quy định của pháp luật, nên ngày 05/09/2019 bà U tặng cho lại anh C và ngày 13/09/2019 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Kế Sách điều chỉnh biến động cho anh C đứng tên cũng không đảm bảo theo quy định. …Xét thấy, trước khi cấp Giấy chứng nhận cho bà H SởTài nguyên & Môi trường tỉnh Sóc Trăng không kiểm tra tính xác thực và có căn cứ của việc chuyển nhượng mà căn cứ vào hồ sơ do UBND thị trấn K chứng thực và cơ quan chuyên môn huyện Kế Sách thiết lập để cấp Giấy chứng nhận cho bà H là chưa đảm bảo theo quy định pháp luật, Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ án hành chính (thụ lý ngày 17/12/2020) nhưng Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận cho bà H ngày 09/03/2021 là không đúng luật định. Như đã phân tích và nhận định trên, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất só CN 592825 ngày 03/9/2019 cấp cho bà Nguyễn Thị U và ngày 13/09/2019 điều chỉnh biến động cho Đỗ Huy C đứng tên được ban hành chưa đúng pháp luật, nên theo người khởi kiện yêu cầu hủy là có căn cứ. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện Nguyễn Thị Mỹ N về việc yêu cầu hủy GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN 592825 ngày 03/9/2019 của UBND huyện Kế Sách cấp cho bà Nguyễn Thị U và ngày 13/9/2019 điều chỉnh biến động cho Đỗ Huy C đứng tên. 2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện Nguyễn Thị Mỹ N về việc yêu cầu hủy GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CX 828788 ngày 09/03/2021 của Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Sóc Trăng cấp cho bà Trần Thị Lệ H. |
06 – 15 |
3 |
Bản án số: 41/2022/HC-ST ngày 29/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính hủy GCNQSDĐ” Nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị H khởi kiện Sở M tỉnh Đắk Lắk yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 170572, thửa đất số 108, tờ bản đồ số 8, được Sở M tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 12/11/2018 cho ông Nguyễn Văn T, diện tích đất 250m2 tọa lạc tại thôn E, xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Căn cứ vào đơn xin tự nguyện trả lại GCNQSDĐ (BL số 15) do ông Nguyễn Văn T viết trong giai đoạn giải quyết tranh chấp đất vào ngày 09/11/2021 có nội dung “Lý do tôi làm đơn này trình lên các cấp có thẩm quyền là trong thời gian kê khai đất, tôi có nhầm lẫn sang bên diện tích nhà bà H, thông tin thửa đất như sau: GCNQSDĐ số CP 170572, thửa đất số 108, tờ bản đồ số 8, diện tích 250m2” Ban tự quản có xác nhận lô đất là do bà H sử dụng không có tranh chấp và căn cứ vào Biên bản hòa giải của Hội đồng hòa giải UBND xã Y (BL số 08 – 11) đều xác định thửa đất số 108, tờ bản đồ số 08, diện tích 250m2 là thuộc quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị H. Như vậy, ý kiến trình bày của ông T cho rằng thửa đất này trước đây đã được cấp GCNQSDĐ cho ông T và cho gia đình bà H mượn tạm để canh tác nhưng không viết giấy tờ nên ông T có quyền sử dụng đất là không có căn cứ”. Do đó, căn cứ vào Điều 95, Điều 97, Điều 99, Điều 100 Luật đất đai năm 2013, thì việc Sở M tỉnh Đắk Lắk cấp GCNQSDĐ số CP 170572, thửa đất số 108, tờ bản đồ số 8, cấp ngày 12/11/2018 cho ông Nguyễn Văn T là không đúng nguồn gốc đất người có quyền sử dụng đất trong thực tế, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà H. Do vậy, có căn cứ để chấp nhận đơn khởi kiện của bà H, áp dụng khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013 hủy GCNQSDĐ số CP 170572. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H. Hủy GCNQSDĐ số CP 170572, thửa đất số 108, tờ bản đồ số 8, được Sở M tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 12/11/2018 cho ông Nguyễn Văn T, diện tích đất 250m2 tạo lạc tại thôn E, xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bà Nguyễn Thị H có quyền, nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký cấp GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật. |
16 – 23 |
4 |
Bản án số: 271/2022/HC–PT ngày 07/07/2022 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội
Về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về hủy Quyết định cấp GCNQSDĐ” Nội dung vụ án: Ông Nguyễn Duy H khởi kiện UBND thành phố PY, tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Tòa án tuyên hủy Quyết định số 638/QĐ-UBND ngày 04/4/2019 của UBND thành phố PY về việc cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu cho ông H và giải quyết hậu quả của việc tuyên hủy Quyết định hành chính nêu trên. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Duy H đề nghị tuyên hủy Quyết định số 638/QĐ-UBND ngày 04/4/2019 của UBND thành phố PY về việc cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu cho ông H và bác đề nghị giải quyết hậu quả của việc tuyên hủy quyết định nêu trên. Ngày 05/10/2021, Người khởi kiện có đơn kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Như vậy, thửa đất có diện tích 183,1 m2, thuộc thửa đất số 92, tờ bản đồ số 34, ông H xin cấp GCNQSDĐ được ông H sử dụng từ năm 1983 ổn định, không có tranh chấp, không có giấy tờ, phù hợp với quy hoạch, trên đất trồng cây ăn quả. Căn cứ các quy định nêu trên, thửa đất đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ, loại đất được xác định theo hiện trạng là đất trồng cây lâu năm và ông H chỉ phải nộp lệ phí trước bạ, không phải nộp tiền sử dụng dụng đất. Do vậy, Quyết định số 638/QĐ-UBND ngày 04/4/2019 của UBND thành phố P Y v/v cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu cho ông H với diện tích 183,1 m2 tại thửa đất số 92, tờ bản đồ số 34, mục đích sử dụng đất là đất trồng cây lâu năm là đúng quy định. Từ các phân tích nêu trên, xét thấy ông H yêu cầu hủy Quyết định số 638/QĐ-UBND ngày 04/4/2019 của UBND thành phố PY là không có căn cứ chấp nhận. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm bác đơn khởi kiện của ông H về nội dung này là có căn cứ, đúng quy định. Ông H kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới, do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông H. Ông H yêu cầu giải quyết hậu quả của việc tuyên hủy Quyết định 638/QĐ-UBND ngày 04/4/2019 của UBND thành phố P Y … là không có căn cứ chấp nhận. Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của ông H là đúng quy định. Kháng cáo của ông H về nội dung này không có căn cứ chấp nhận. Từ các nhận định nêu trên, xét thấy ông Nguyễn Duy H kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm là không có căn cứ chấp nhận. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử: Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Duy H. Giữ nguyên Bản án Hành chính sơ thẩm số 15/2021/HC-ST ngày 21/9/2021 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc. |
24 – 34 |
XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn