Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ HỤI, HỌ, BIÊU, PHƯỜNG

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ HỤI, HỌ, BIÊU, PHƯỜNG

FDVN tiếp tục chia sẻ tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ HỤI, HỌ, BIÊU, PHƯỜNG” do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích bất hợp pháp.

MỤC LỤC

Tổng hợp 20 Bản án và Quyết định giám đốc thẩm tranh chấp liên quan đến quy định về hụi, họ, biêu, phường

STT

TÊN VĂN BẢN

SỐ TRANG

1

Bản án sơ thẩm số 01/2020/DS-ST ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp đòi nợ hụi.

Trong quá trình tham gia chơi hụi các bị đơn không thực hiện đúng như thỏa thuận, nộp thiếu số tiền hụi nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các bị đơn trả số tiền nợ hụi.

Tòa án tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị T. Buộc các bị đơn bà Ông Thị C và ông Nguyễn Văn P có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn bà Đỗ Thị T tiền hụi còn nợ là 302.000.000 đồng.

01

2

Bản án sơ thẩm số 37/2019/DS-ST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hòa tỉnh Phú Yên về tranh chấp hợp đồng hụi.

Từ năm 2016 đến đầu năm 2019, bà N với ông Th, bà T xác lập hợp đồng hụi, với hình thức hụi có lãi, theo đó, bà N là chủ hụi, ông Th, bà T là con hụi. Ông Th, bà T tham gia nhiều dây hụi và hốt hụi đầu, sau đó đóng hụi chết cho bà N. Đến khi chốt nợ thì ông Th, bà T xác nhận còn nợ bà N tổng số tiền 1.472.538.000 đồng.

Bà T thừa nhận khi tham gia chơi hụi, ông Th đều biết và để bà T chơi cho hai vợ chồng, việc này phù hợp với lời khai của những người làm chứng, việc chơi hụi là để phục vụ đời sống kinh tế gia đình nên ông Th, bà T phải có trách nhiệm liên đới theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 dù ông Th cho rằng mình không trực tiếp chơi. Do đó, việc ông Th cho rằng mình không hay biết và không chơi
hụi với bà N, cũng như việc ông Th, bà T không thừa nhận còn nợ bà N số tiền 1.472.538.000 đồng là không có căn cứ.

Tòa án tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Đoàn Thị N:
Buộc bị đơn ông Nguyễn Th, bà Trương Thị Kim T phải trả cho nguyên đơn bà Đoàn Thị N 1.472.538.000 đồng.

08

3

Bản án sơ thẩm số 18/2019/DS-ST ngày 14/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang về tranh chấp nợ hụi.

Thời gian vào năm 2017, giữa bà Nguyễn Thị T và bà Trịnh Thị T có
thỏa thuận giao kết hợp đồng góp hụi với nhau, bà T là chủ hụi, bà T là tay em, bà T tham gia chơi 3 dây hụi, hụi sổ bình thường đến tháng 8/2017 thì bà T tuyên bố bể hụi, số tiền hai bên chốt nợ với nhau bà T còn nợ lại bà T tổng cộng là 92.620.000đ. Sau đó, bà T bỏ đi nơi khác làm ăn không trả nợ cho bà T kéo dài đến nay.

Tòa án tuyên: Buộc bà Trịnh Thị T và ông Võ Văn H cùng có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền nợ hụi tổng cộng là 92.620.000đ.

18

4

Bản án sơ thẩm số 24/2019/DS-ST ngày 12/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng góp hụi.

Chị P yêu cầu ông Lê Văn H và bà Hồ Thị Thu H cùng có trách nhiệm trả số tiền hụi còn nợ các chân hụi mở ngày 06/11/2017 (hụi đã mãn, anh K chị P được lĩnh 32.000.000đ), mở ngày 12/02/2017, ngày 06/01/2018 đều là hụi có lãi, khi có hụi viên kêu và được lĩnh hụi thì anh K, chị P góp hụi sống không đến số tiền 2.000.000đ, như vậy thực tế anh K chị P thực góp số tiền không đến 28.000.000đ của chân hụi mở
ngày 12/02/2018; và không đến số tiền 112.000.000đ cho dây hụi mở ngày 06/01/2018 (02 phần x 28.000.000đ/phần x 02 dây). Do quan hệ cô dì cháu, anh K, chị P tin tưởng chủ hụi nên không mở sổ theo dõi các lần góp hụi sống, bà H là chủ hụi hưởng huê hồng nhưng thực hiện không hết trách nhiệm của chủ hụi trong việc lập và quản lý sổ
sách theo dõi việc góp hụi, lĩnh hụi và giao hụi để làm căn cứ đối chiếu việc kêu hụi, góp hụi và lĩnh hụi, đồng thời làm căn cứ cho việc giải quyết khi xảy ra tranh chấp.

Mặt khác, sau khi vở hụi bà H đã thống nhất và viết biên nhận còn nợ vợ chồng anh K, chị P số tiền là 152.000.000đ, đã trả 4.000.000đ; bà H, ông H không tham gia tố tụng ở cấp sơ thẩm, Tòa án cũng không thể thu thập thêm chứng cứ nào khác để làm căn cứ xem xét điều chỉnh lãi suất của các dây hụi đang tranh chấp, vì vậy chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh K chị P xác định số tiền bà H còn nợ là 148.000.000đ.

Xét việc bà H mở hụi làm chủ hụi, tham gia chơi hụi là để chi tiêu
phục vụ cho chi tiêu sinh hoạt thiết yếu trong gia đình, việc mở hụi tại nhà, khoản nợ phát sinh trong thời gian vợ chồng ông H bà H chung sống, ông H đều biết; ông H cũng không phản đối yêu cầu của anh K, chị P nên buộc ông H và bà H cùng trả số nợ trên là có căn cứ và phù hợp với Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tòa án tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh K và chị Đoàn Thị Hồng P: Buộc ông Lê Văn H và bà Hồ Thị Thu H có trách nhiệm hoàn trả anh K chị P số tiền hụi còn nợ bằng 148.000.000đ.

23

5

Bản án phúc thẩm số 196/2019/DS-PT ngày 30/07/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về tranh chấp tiền hụi, tiền vay và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Đối với dây hụi 10.000.000 một tháng khui 01 lần, tại thời điểm giao dịch hụi thì thành viên tham gia hụi đều thống nhất là hụi có lãi, lãi mà thành viên được hưởng từ việc bỏ thăm ở từng kỳ hụi, đây là sự thỏa thuận tự nguyện giữa các thành viên khi tham gia. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 của Nghị định số: 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường) quy định về quyền của thành viên trong họ đầu thảo: Đưa ra mức lãi ở mỗi kỳ mở họ (hiện nay được quy định tại Điều 20 Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường). Trên tinh thần quy định của điều luật phù hợp với sự tự nguyện giữa các thành viên khi tham gia hụi và hụi viên có quyền bỏ thăm ở mỗi kỳ mở hụi và họ được hưởng khoản lãi hụi, chị N1 hốt hụi đầu tiên thì phải mất một khoản lãi cho những hụi viên hốt hụi sau là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật nên phần lãi hụi được chấp nhận.

Án sơ thẩm chỉ xem xét buộc ông M, bà N2 thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận, không đề cập đến việc xử lý tài sản là phần đất giao khoán cho hộ gia định ông M, bà N2 nên án sơ thẩm không đưa tất cả các thành viên hộ gia đình để tham gia tố tụng là đúng quy định pháp luật.

Tòa án tuyên:

– Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Hồng T1 đối với chị Nguyễn Thị Mỹ N1, anh Phạm Thế T2 về việc thanh toán tiền vay, tiền hụi và thực hiện bảo lãnh đối với ông Nguyễn Văn M, bà Phan Thị Nghiêm.

– Buộc chị N1, anh T2 có trách nhiệm liên đới thanh toán cho chị T1 tổng số tiền 997.629.000 đồng, trong đó: Tiền vay 340.000.000 đồng; Tiền hụi 662.000.000 đồng; Tiền lãi hụi 5.629.000 đồng.

28

6

Bản án phúc thẩm số 38/2019/DS-PT ngày 06/06/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về tranh chấp huê, hụi.

Bà T khởi kiện bà T1 yêu cầu hoàn trả 50.000.000đ tiền huê hụi, thời hạn đóng huê của bà T1 cho bà T là 20 kỳ tính từ ngày 20/02/2012, hạn chót bà T1 phải đóng huê là ngày20/10/2013. Như vậy sau thời hạn ngày 20/10/2013 được tính là ngày bà T có quyền và lợi ích bị xâm phạm và thời hiệu khởi kiện được tính là 03 năm. Tuy nhiên, ngày 21/9/2018 trong quá trình làm việc tại Tòa án bà T1 đã thừa nhận có tham gia dây hụi như bà T trình bày. Việc bà T1 đã thừa nhận có chơi hụi ngày 20/01/2012 là thừa nhận nghĩa vụ đối với bà T. Như vậy, thời hiệu khởi kiện của bà T được bắt đầu lại từ ngày 21/9/2018 theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 157 BLDS năm 2015.

Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 20/01/2012 do bà T làm chủ là họ
hoa hồng quy định tại Điều 24 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP. Bà T1 tham gia dây hụi này và là người hốt đầu với số tiền là 100.000.000 đồng. Do vậy, bà T1 phải có nghĩa vụ đóng 20 kỳ hụi còn lại với tổng số tiền 100.000.000 đồng. Thực tế thì bà T1 chỉ đóng 10 kỳ với số tiền là 50.000.000 đồng, trong 10 kỳ này, bà T1 trực tiếp đóng cho bà T 04 kỳ và có gửi cho bà T2 đóng cho bà T 06 kỳ, điều này đã được bà
T thừa nhận. Như vậy, số tiền hụi 10 kỳ còn lại tương ứng với số tiền 50.000.000 đồng lẽ ra bà T1 phải có nghĩa vụ đóng cho chủ hụi là bà T theo thỏa thuận. Do bà T1 không đóng cho bà T và bà T đã đóng thay bà T1 số tiền này nên bà T yêu cầu bà T1 trả lại cho bà số tiền 50.000.000 đồng là đúng quy định tại khoản 3 Điều 28 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc T.
Buộc bà Ngô Thị T1 và ông Lê Minh T phải trả phải trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc T số tiền 50.000.000 đồng.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc T: Buộc bà Ngô Thị T1 và ông Lê Minh T phải trả phải trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc T số tiền 50.000.000 đồng.

38

7

Bản án phúc thẩm số 03/2019/DS-PT ngày 27/03/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Hậu Giang về tranh chấp nợ hụi.

Nguyên đơn Ngô Xuân N khởi kiện bị đơn Huỳnh Thị H yêu cầu giải quyết trả nợ hụi.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Ngô Xuân N số tiền nợ hụi 17.000.000 đồng.

44

8

Bản án phúc thẩm số 29/2019/DS-PT ngày 15/03/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp dân sự về hụi.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn D về việc yêu cầu bị đơn U và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan V liên đới trả tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ; Bác yêu cầu của bà D về việc yêu cầu anh V liên đới cùng chị U trả tiền hụi cho chị D. Buộc bà U trả cho bà D số tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của bà U; Giữ  nguyên bản án sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cảu của bà D về việc yêu cầu bà U trả tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ; không chấp nhận yêu cầu cả bà D về việc yêu cầu anh V liên đới cùng bà U trả tiền hụi cho bà D; Buộc bà U trả cho bà D số tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ.

48

9

Bản án sơ thẩm số 05/2019/DS-ST ngày 28/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau về tranh chấp tiền hụi.

Bà B có chơi 01 chân hụi do bà H làm chủ: Dây hụi 05 triệu đồng mở ngày 06/9/2014 âm lịch, 01 tháng khui 01 lần, gồm có 29 hụi viên. Trong danh sách hụi ghi tên “Út T”; dây hụi thứ hai do bà B làm chủ mở ngày 09/02/2015 âm lịch, loại hụi 03 triệu đồng, 01 tháng khui 01 lần, gồm 24 hụi viên, bà H chơi 02 chân. Hai dây hụi nói trên thuộc loại hụi hưởng hoa hồng. Việc tham gia chơi hụi giữa bà B và bà H là tự nguyện. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án công nhận giao dịch hụi giữa các đương sự là có thật và hợp pháp.

Sau khi bể hụi, bà H không thanh toán khoản tiền mà bà B đã đóng vào dây hụi 05 triệu đồng do bà H làm chủ hụi cũng như không đóng 02 chân hụi chết của dây hụi 03 triệu đồng do bà B làm chủ là vi phạm nghĩa vụ thanh toán của chủ hụi cũng như của hụi viên. Tuy nhiên, đối với số tiền 80 triệu đồng mà bà B yêu cầu gia đình bà H thanh toán trong dây hụi 05 triệu đồng được tính trên giá trị đầu hụi là không
phù hợp, vì bà B đang nuôi hụi sống, số tiền thực tế mà bà đóng vào dây hụi chỉ có 44.280.000 đồng, số tiền còn lại theo yêu cầu là phần lãi suất của mỗi kỳ khui hụi. Ngược lại, bà H chỉ đồng ý thanh toán phần vốn hụi cũng là không phù hợp, bởi bà H làm chủ dây hụi có lãi.

Tòa án tuyên:

– Không chấp nhận bổ sung yêu cầu của bà Nguyễn Thị Út B (tên gọi khác là Út T) về việc yêu cầu anh Huỳnh Phương V thanh toán khoản nợ hụi.
– Buộc bà Phạm Đông H và ông Huỳnh Việt T cùng chịu trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Út B (tên gọi khác là Út T) tổng số tiền hụi còn nợ là 123.653.000 đồng (một trăm hai mươi ba triệu sáu trăm năm mươi ba ngàn đồng). 4. Kể từ ngày bà B có đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp bà H, ông T không chịu thanh toán khoản tiền nói trên cho bà B, thì hàng tháng, bà H và ông T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

55

10

Bản án phúc thẩm số 02/2019/DS-PT ngày 15/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và phường họ.

Căn cứ vào các giấy vay tiền ngày 02/12/2017, ngày 31/01/2018, ngày 27/3/2018 thì Bà H1 là người viết giấy vay tiền của Bà Ng1, Ông S1. Giấy biên nhận bà cho Anh Tr2, anh Toản vay tiền là trước thời điểm bà viết giấy vay tiền Bà Ng1. Nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định không có căn cứ xác định Bà H1 vay tiền của Bà Ng1 để cho Anh
Tr2, anh Toản vay là có căn cứ.

Bà H1 và Ông C1 là vợ chồng hợp pháp, trong các giấy vay tiền Bà
Ng1 đều ghi mục đích để kinh doanh, giữa Bà H1 và Ông C1 không có thỏa thuận về viêc kinh doanh chia tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ Điều 288 Bộ luật dân sự; Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình thì Bà H1, Ông C1 phải 11 chịu trách nhiệm liên đới đối với việc thanh toán nợ gốc, lãi và tiền phường họ là có căn cứ.

Việc Bà H1 trình bày ký và viết giấy biên nhận vay nợ Bà Ng1 là do
Bà Ng1 ép buộc nhưng bà không có chứng cứ nào để chứng minh nên không có căn cứ xác định việc vay nợ do bị ép buộc bà cho vay nặng lãi. Do đó, Toà sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Bà Ng1 buộc Bà H1 và Ông C1 phải trả cho Nghĩa số tiền gốc 410.000.000 đồng là có căn cứ.

Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Ng1.
-Buộc bà Nguyễn Thị H1 và ông Nguyễn Văn C1 phải có nghĩa vụ liên đới thanh thanh toán trả bà Ngô Thị Ng1 và ông Nguyễn Tiến S1 số tiền vay nợ gốc là 9.410.000.000đ và 20.888.300đ tiền lãi. Tổng cả gốc và lãi: 430.888.300đồng

– Buộc bà Nguyễn Thị H1 và ông Nguyễn Văn C1 phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán trả bà Ngô Thị Ng1 và ông Nguyễn Tiến S1 số tiền phường họ còn nợ là 130.207.000đ, trong đó nợ gốc là 110.000.000đ, lãi là 20.207.000đ. Tổng số tiền bà Nguyễn Thị H1 và ông Nguyễn Văn C1 phải liên đới thanh thanh toán trả bà Ngô Thị Ng1 và ông Nguyễn Tiến S1 (gồm tiền vay gốc, lãi và tiền phường họ: gốc, lãi) là 561.095.300đ (Năm trăm sáu mươi mốt triệu không trăm chín mươi lăm nghìn ba trăm đồng).

66

11

Bản án sơ thẩm số 36/2018/DS-ST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang về phường họ.

Xét yêu cầu của ông C và yêu cầu ông B và L phải trả cho ông C số tiền 86.400.000đ.

Theo biên bản họp thường, họ, các thành viên tham gia họp thường họ có thỏa thuận về số tiền đóng phường, họ cũng như trách nhiệm của các thành viên. Như vậy, các bên đã giao kết về hợp đồng dân sự, việc giao này giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, về hình thức và nội dung giao kết không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định Điều 389,401, 402, 403, 404 của Bộ luật dân sự 2005 tại thời điểm giao kết phù hợp với quy định tại Điều 7,8,13,14,15,16,17 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về ho, hụi.

Ông B và bà L là quan hệ vợ chồng. Việc chơi phường, họ trong dân nhằm mục đích phát triển kinh tế gia đình, thu nhập hợp pháp cũng như vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là thu nhập và nợ C của vợ chồng. Căn cứ Điều 288 Bộ luật dân sự và điều 27,37 Luật hôn nhân và gia đình thì bà L, ông B phải chịu trách nhiệm liên đới đối với việc thanh toán nợ gốc và lãi cho ông C.

Tòa án tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C.

– Buộc ông B và bà L phải có nghĩa vụ L đới thanh toán trả cho ông C và bà B số tiền phường họ còn nợ là 84.800.000đ.

80

12

Bản án sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị về tranh chấp họ, hụi, biêu phường.

Nguyên đơn yêu cầu bà Q phải trả số nợ tiền hụi còn lại là
5.000.000 đồng theo giấy cam kết viết ngày 17/5/2017.

Tòa án tuyên:

– Đình chỉ yêu cầu của ông Phan Thanh V về yêu cầu trả nợ tiền hụi đối với bà Lê Thị T số tiền 2.300.000 đồng; bà Nguyễn Thị D số tiền 1.815.000 đồng; bà Nguyễn Thị X số tiền 1.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị D1 số tiền 2.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị D số tiền 14.815.000 đồng; bà Lê Thị N số tiền 1.600.000; bà Nguyễn Thị Q số tiền 6.000.000 đồng theo giấy cam kết trả tiền ngày 17/5/2017.
– Không chấp nhận yêu cầu của ông Phan Thanh V về yêu cầu bà Nguyễn Thị Q trả cho ông số nợ tiền hụi còn lại 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) theo giấy cam kết trả nợ ngày 17/5/2017.

– Buộc ông Lê Anh K phải trả cho ông Phan Thanh V số nợ tiền hụi
1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

– Buộc bà Lê Thị G phải trả cho ông Phan Thanh V số nợ tiền hụi 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng) theo giấy cam kết ngày 14/4/2016.

96

13

Bản án phúc thẩm số 727/2018/DS-PT ngày 09/08/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp nợ hụi.

Ông P tham gia giao dịch hụi và thừa nhận đã nhận (hốt) tiền hụi nhưng không đóng lại tiền hụi hàng tháng (còn gọi là hụi chết) cho bà L là vi phạm nghĩa vụ của hụi viên, bà L đã đóng phần tiền hụi chết cho ông P. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L là có
căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường.

Ông P có chơi 09 dây hụi do bà L làm chủ, ông P đã hốt hết cả 09 dây và chưa đóng một số phần hụi chết nên bà L phải đóng thay. Căn cứ khoản 3 Điều 16 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường về quyền của chủ
họ:“Yêu cầu thành viên không góp phần họ của mình phải hoàn trả phần họ trong trường hợp chủ họ đã góp thay cho thành viên đó”. Số tiền hụi 1.120.000.000 đồng là số tiền ông P chưa đóng của 09 dây hụi do bà L đóng thay nay ông P phải hoàn trả nên không có căn cứ để điều chỉnh lãi như yêu cầu của bị đơn.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc Thùy L
Buộc ông Phạm Văn P có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Ngọc Thùy L
số tiền nợ hụi là 1.120.000.000 đồng.

Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn P. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm

104

14

Bản án sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 05/07/2018 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng về tranh chấp giao dịch dân sự phường, họ.

Ông Nguyễn Thanh H và 10 người trong Thôn N, xã HH, huyện VB thành phố Hải Phòng có tổ chức vào hội phường tiền. Phường quy định đóng vào 02 vụ/năm (vụ tháng 5 và vụ tháng 10 trong năm), mỗi suất đóng 5.000.000đ/vụ, ai lấy rồi đóng 7.000.000đ/vụ. Phường có 11
người tham gia và vào 12 suất , phường họp và bầu ông Phạm Công L làm trưởng phường, ông Đào Xuân H1 làm phó phường. Trưởng, phó phường không được hưởng lợi gì từ người chơi phường mà có trách nhiệm đôn đốc những người chơi phường nộp tiền cho trưởng, phó phường hoặc người được nhận phường và đến ăn liên hoan tại gia
đình người được nhận phường. Trưởng hoặc phó phường nhận tiền phường của các thành viên trong hội phường thì có trách nhiệm bàn giao cho người được nhận phường. Quá trình tham gia phường, ông Nguyễn Thanh H vào 02 suất , ông H đã lấy suất phường đầu tiên vào tháng 5/2012, tháng 10/2017 ông H là người lấy phường sau cùng. Suất phường tháng 10/2017 ông H đã nhận trực tiếp 05 suất là 35.000.000đ, ông H1 đã trực tiếp nhận 07 suất phường là 49.000.000đ. Sau khi nhận tiền ông H1 không bàn giao trả ông H theo quy định của phường. Nay ông H yêu cầu ông H1 phải trả ông số tiền phường đã nhận là 49.000.000đ.

Tòa án tuyên:

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh H, buộc ông Đào Xuân H1 phải thanh toán trả ông Nguyễn Thanh H số tiền phường là 49.000.000đ.

115

15

Bản án sơ thẩm số 07/2018/DS-ST ngày 15/05/2018 của Tòa án nhân dân huyện EA SÚP thành phố Đắk Lắk về tranh chấp về góp hụi.

Nguyễn Thị Ln có tham gia hai lần góp hụi do bà Nguyễn Thị Lh làm chủ, trong đó lần 01 còn nợ 15.000.000đ, lần 02 là 200.000.000đ tổng hai lần là 215.000.000đ (Hai trăm mười lăm triệu đồng). Chị Ln
và anh Q xác nhận số tiền nợ hụi nêu trên. Tuy nhiên chi Ln xin trả trước 30.000.000đ còn lại trả dần hàng tháng, bà Lh không đồng ý cho trả dần mà yêu cầu anh chị phải trả ngay. Xét thấy việc chị Ln tham gia góp hụi với nhiều người do bà Nguyễn Thị Lh đứng ra làm chủ và có trách nhiệm thu tiền của những người chơi trả tiền cho người hốt được hụi. Sau khi hốt hụi chị Ln chỉ đóng được một số tháng, còn lại 10 tháng không đóng tiền hụi cho bà Lh nên bà Lh phải bỏ tiền ra trả cho những
người chơi hụi. Việc chị Ln không trả tiền hụi như các bên đã thỏa thuận là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lh, do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Mặc khác anh Đoàn Minh Q (chồng chị Ln) không tham gia chơi hụi nhưng thừa nhận có nợ tiền hụi như bà Lh trình bày nên cần buộc anh Q phải liên đới với chị Ln trả cho bà Lh số tiền còn nợ hụi nêu trên.

Bà Lh yêu cầu tính lãi kể từ ngày kết thúc hụi ngày 01/02/2018
đến nay theo mức lãi suất là 9%/năm là phù hợp nên buộc bị đơn phải trả lãi như sau: Từ ngày 01/02/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm 15/5/2018 là 03 tháng 15 ngày x 9%/năm (0,75%/tháng) x 215.000.000đ = 5.643.000đ.

Tòa án tuyên:

Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lh.
Buộc chị Nguyễn Thị Ln và anh Đoàn Minh Q phải trả cho bà Nguyễn Thị Lh tổng số tiền còn nợ góp hụi là 215.000.000đ và 5.643.000đ tiền lãi suất tổng cộng: 220.643.000đ.

120

16

Bản án sơ thẩm số 13/2018/DS-ST ngày 08/05/2018 của Tòa án nhân dân h thành phố Quảng Ngãi Tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp về biêu (hụi).

Bà Nguyễn Thị T có tham gia dây hụi ngày 20-8-2016 (âm lịch) do bà Dương Hồng Phượng A làm chủ hụi. Dây hụi này kéo dài 12 tháng và có 12 người tham gia, những người này tự quyết định số chân hụi mà mình tham gia góp. Những người tham gia dây hụi nói trên thống nhất thỏa thuận mỗi tháng 01 chân hụi sẽ góp số tiền 1.000.000đồng,
người nào hốt hụi sẽ phải trả cho những chân hụi khác số tiền lãi là 120.000đồng/01 chân hụi và trả cho chủ hụi số tiền 220.000đồng/01 chân hụi. Theo đó, mỗi chân hụi chưa hốt thì phải nộp cho bà A 880.000đồng, nếu đã hốt hụi thì mỗi chân hụi phải nộp cho bà A đủ 1.000.000đồng vào ngày 20 (âm lịch) hàng tháng.

Nguyễn Thị T đã đăng ký tham gia 16 chân hụi và đã hốt đầy đủ 16 chân hụi mà bà đã đăng ký với tổng số tiền hụi đã lãnh là 169.160.000đồng. Tuy nhiên, sau khi đã hốt hụi xong thì bà T không nộp tiền hụi đầy đủ theo thỏa thuận và từ kỳ hụi ngày 20-4-2017 (âm lịch) trở đi, bà T hoàn toàn không nộp tiền hụi cho bà A. Do bà T không nộp và nộp không đầy đủ số tiền hụi theo thỏa thuận nên chủ hụi là bà Dương Hồng Phượng A phải nộp thay số tiền hụi mà bà T không nộp với tổng số tiền là 105.500.000đồng. Việc bà T không thực hiện
việc nộp tiền hụi cho bà A theo thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ được quy định tại Điều 25 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27-11-2006 của Chính phủ. Bà A là chủ hụi nên đứng ra nộp thay phần hụi mà bà T không nộp là phù hợp với quy định tại Điều 27 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27-11-2006 của Chính phủ. Do đó, việc bà Dương Hồng Phượng A khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị T trả lại số tiền hụi 105.500.000đồng mà bà A đã nộp thay cho bà T là phù hợp với quy định tại Điều 28 và Điều 30 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27-11-2006.

Tòa án tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Hồng Phượng A: Buộc bà Nguyễn Thị T phải có trách nhiệm trả cho bà Dương Hồng
Phượng A số tiền 105.500.000đồng.

124

17

Bản án sơ thẩm số 84/2017/DS-ST ngày 28/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau về tranh chấp về nợ hụi.

Bà M và ông Ph tham gia chơi 04 chân hụi 1.000.000 đồng/tháng do chị Ph làm chủ, hụi mở vào ngày 25 – 9 – 2015 âm lịch là thực tế có xảy ra được các bên thừa nhận. Tuy nhiên giữa các bên tranh chấp trình bày có nhiều mâu thuẫn về thời gian hốt hụi, số lần hốt hụi, số tiền bỏ hụi hốt. Tòa án tiến hành xác minh thu thập các danh sách hụi mà hụi viên cung cấp thể hiện bà M và ông Ph (“Hia Ph”) có tham gia 04 chân hụi. Các danh sách theo dõi hụi của các hụi viên trong cùng dây hụi thì đều
4 thể hiện là “Hia Ph” đã hốt hai chân hụi, trong đó có một chân hốt vào ngày 25 – 12 – 2015.

Bà M và chị K đã trực tiếp hốt 02 chân hụi trong tổng số 04 chân hụi tham gia gia do chị làm chủ là có cơ sở chấp nhận. Do đó, chị Ph yêu cầu chị K, anh S, bà M và ông Ph trả cho chị số tiền nợ hụi tính từ ngày 05 – 12 – 2016 đến ngày xét xử sơ thẩm là 5.260.000 đồng.

Tòa án tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lê Hồng Ph đối với chị Nguyễn Thúy K, anh Tiêu Thanh S, bà Trần Ngọc M, ông Tiêu Thanh Ph.
Buộc chị Nguyễn Thúy K, anh Tiêu Thanh S, bà Trần Ngọc M, ông Tiêu Thanh Ph trả cho chị Lê Hồng Ph số tiền nợ hụi là 5.260.000 đồng

129

18

Bản án sơ thẩm số 57/2017/DS-ST ngày 31/08/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Bìa Rịa tỉnh Bìa Rịa- Vũng Tàu về tranh chấp về hợp đồng góp hụi.

Nguyên đơn và bị đơn không có tranh chấp về số tiền nợ nhưng chưa thỏa thuận được với nhau về phương thức trả nợ.

Hội đồng xét xử xét thấy: tại giấy mượn tiền ngày 25/10/2016 không xác định thời hạn trả tiền; tại giấy thiếu tiền hụi thì thời hạn trả góp cuối cùng là ngày 11/4/2017, bà L đã thông báo về việc yêu cầu trả nợ nhiều lần nhưng bà A không thực hiện, như vậy theo các quy định của Bộ luật dân sự thì bà A đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên việc bà L khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ.

Tòa án tuyên:

– Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Ngọc L về việc Tranh chấp hợp đồng góp hụi đối với bà Trương Thoại A.
– Buộc bà Trương Thoại A có trách nhiệm thanh toán cho bà Huỳnh Thị
Ngọc L số nợ là 161.600.000 đồng (Một trăm sáu mươi mốt triệu, sáu trăm ngàn đồng).

135

19

Bản án sơ thẩm số 69/2017/DS-ST ngày 16/08/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre tỉnh Bến Tre về tranh chấp về nợ hụi.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Mỹ H phải trả cho bà T số tiền hụi mà bà T đã đóng hụi là 48.725.000 đồng, không yêu cầu tính lãi và bà T chỉ kiện một mình bà H không khởi kiện chồng của bà H là ông Nguyễn Ngọc C cùng chịu trách nhiệm liên đới trả nợ.

Tòa án tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi tiền hụi của nguyên đơn bà Phạm Thị T đối với bị đơn bà Nguyễn Mỹ H. Buộc bà Nguyễn Mỹ H phải trả cho bà Phạm Thị T số tiền 48.725.000 (bốn mươi tám triệu, bảy trăm hai mươi lăm ngàn) đồng.

– Ghi nhận bà Phạm Thị T không yêu cầu tính lãi số tiền nêu trên.

– Ghi nhận bà Phạm Thị T không khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Ngọc C cùng chịu trách nhiệm liên đới trả nợ cùng bà Nguyễn Mỹ H.

142

20

Quyết định giám đốc thẩm số 442/2014/DS-GĐT ngày 19/11/2014 về vụ án tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản

Chị Lữ Ngọc Mỹ khởi kiện yêu cầu chị Lê Thị Phượng trả 132.750.000đ tiền nợ hụi và 170.000.000đ tiền chị Phượng đã vay vào thời gian tháng 7/2009, chị Mỹ không yêu cầu chị Phượng trả lãi.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng hóp hụi và hợp đồng vay tài sản của chị Lữ Ngọc Mỹ đối với chị Lê Thị Phượng.

– Buộc chị Lê Thị Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho chị Lữ Ngọc Mỹ số tiền là 170.000.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu đồng chẵn), ghi nhận chị Mỹ không yêu cầu tính lãi.

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mỹ yêu cầu chị Phượng thanh toán nợ hụi là 132.750.000 đồng đối với họp đồng góp hụi giữ chị Mỹ và chị Phượng

Tòa án phúc thẩm tuyên:

– Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Lữ Ngọc Mỹ, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh Hùng- người đại diện theo ủy quyền của bị đơn chị Lê Thị Phượng.

– Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2011/DS-ST ngày 18/5/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lữ Ngọc Mỹ về “Hợp dồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản” đối với chị Lê Thị Phượng.

Giám đốc thẩm quyết định: Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 193/2011/DS-PT ngày 15/08/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 69/2011/DSST  ngày 18/05/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Tây Ninh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng góp hụi và họp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là bà Lữ Ngọc Mỹ với bị đơn là bà Lê Thị Phượng.

146

——-

LINK TẢI: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ HỤI, HỌ, PHƯỜNG

……………….

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

45C Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Phú Quốc

65 Hùng Vương, Dương Đông, Phú Quốc, Kiên Giang

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan