Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / Tổng hợp 20 bản án tuyên phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do chạy án

Tổng hợp 20 bản án tuyên phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do chạy án

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án tuyên phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do chạy án” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 20 bản án tuyên phạm tội  lừa đảo chiếm đoạt tài sản do chạy án

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án số: 06/2023/HS-PT ngày 05-01-2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung: Nguyễn Hoàng T là người dân sinh sống tại địa phương. Để có tiền tiêu xài, T nói dối mình là cán bộ Công an và quen biết nhiều người có thể lo được cho những người có liên quan đến các vụ án dân sự, hình sự nên từ tháng 5/2019 đến tháng 11/2019 T đã thực hiện 03 vụ lừa chạy án chiếm đoạt số tiền 560.000.000 đồng, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Ông Võ Phát Đ, là nguyên đơn trong vụ án dân sự tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bị đơn bà Nguyễn Bạch Tuyết. Ngày 30/5/2019, Tòa án nhân dân Huyện D, tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa xét xử, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Đ và buộc bà Tuyết trả lại cho ông Đ số tiền 200.000.000 đồng. Ông Đ không đồng ý với kết quả xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm nên kháng cáo. Do biết được thông tin Nguyễn Hoàng T có khả năng chạy án, nên Đ điện thoại nhờ T lo cho thắng vụ kiện ở cấp phúc thẩm và được nhận quyền sử dụng đất tranh chấp, thì T nhận lời với giá 300.000.000 đồng và yêu cầu Đ đưa trước 20.000.000 đồng, hẹn gặp nhau quán cà phê “Hội Nông dân” tại cổng khu công nghiệp B, xã LC, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. Tại quán cà phê “Hội Nông dân”, Đ đưa cho T 20.000.000 đồng, sau đó T trực tiếp đến nhà ông Đ nhận số tiền còn lại 280.000.000 đồng. Ngày 16/9/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm vụ án, ông Đ chỉ được bồi thường thêm số tiền 181.945.000 đồng. Kết quả xét xử phúc thẩm không đúng như thỏa thuận, nên ông Đ điện thoại cho T nhiều lần để đòi lại số tiền ông Đ đưa cho T để lo chạy án. Đến ngày 20/4/2020, T chuyển khoản trả cho ông Đ 130.000.000 đồng, còn lại 170.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Ngày 29/4/2019, ông Trần Văn K và bà Lê Thị L bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện D bắt quả tang về tội tổ chức đánh bạc, ông K bị tạm giam, bà L được cho tại ngoại chờ xử lý. Tháng 6/2019, Nguyễn Hoàng T đến gặp bà L giới thiệu là Đội trưởng đội điều tra Công an tỉnh, lo được cho ông K tại ngoại và được hưởng án treo với giá 160.000.000 đồng và hứa hẹn nếu không lo được sẽ hoàn tiền lại. Bà L tin tưởng nên tháng 7/2019 đi vay mượn tiền đưa cho T 02 lần, mỗi lần 50.000.000 đồng, tổng cộng 100.000.000 đồng. Ngày 13/9/2019, mẹ ruột của ông K là Ngô Thị Sích cùng bà L làm đơn xin bảo lĩnh nên ông K được cho về nhà chờ xét xử. Khoảng 04 đến 05 ngày sau, biết ông K được cho tại ngoại, T đến nhà bà L để nhận tiếp số tiền còn lại 60.000.000 đồng. Ngày 14/11/2019, Tòa án nhân dân Huyện D đưa vụ án ra xét xử, xử phạt Trần Văn K 09 tháng tù giam, bà L 09 tháng tù cho hưởng án treo. Do không thực hiện đúng theo thỏa thuận, nên bà L nhiều lần điện thoại cho T đòi lại tiền và nhiều lần T trả lại tiền được 70.000.000 đồng, còn lại 90.000.000 đồng.

Vụ thứ ba: Cùng ngày 29/4/2019, Nguyễn Văn Thoại là con trai bà Nguyễn Thị E cũng bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện D bắt về hành vi đánh bạc tại nhà ông K, bà L và bị tạm giam để điều tra. Khi thấy ông K được cho về nhà, nên bà Nguyễn Thị E gặp bà L hỏi thăm, bà L nói đưa tiền cho Nguyễn Hoàng T để lo chạy án. Lúc này bà E nhờ L điện thoại hỏi T có thể lo được cho Thoại tại ngoại không, thì T nhận lời giúp được với giá 100.000.000 đồng và hẹn gặp bà E tại quán cà phê Đông Nam tại ấp Ninh Hưng 1, xã LC, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. Do không biết mặt T, nên bà E đi cùng với bà L và con dâu tên Hồ Thị Đẹp đến để gặp T. Tại đây bà E đưa cho T số tiền 100.000.000 đồng. Đến ngày 14/11/2019, Tòa án nhân dân Huyện D đưa ra xét xử, phạt Nguyễn Văn Thoại 02 năm tù giam. Do T không thực hiện đúng theo thỏa thuận, nên bà E đòi lại tiền, T trả tiền lại cho bà E 03 lần được số tiền 50.000.000 đồng, còn lại 50.000.000 đồng. Do nhiều lần thúc giục, đòi trả số tiền còn lại nhưng T đưa ra nhiều lý do để không trả số tiền còn lại cho các bị hại, nên ngày 23/3, 27/3 và 30/3/2021, ông Võ Phát Đ, bà Lê Thị L, bà Nguyễn Thị E đã làm đơn tố cáo hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới hình thức chạy án của T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Tây Ninh

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2021. Áp dụng khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung đối với bị cáo cáo Nguyễn Hoàng T số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

2. Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận bị cáo Nguyễn Hoàng T đã bồi thường xong cho ông Võ Phát Đ số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng); bà Lê 6 Thị L số tiền 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng); bà Nguyễn Thị E số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Ghi nhận các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định

[1] Về hình thức:

Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm. Quá trình tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã tuân thủ quy định tố tụng, chứng cứ được thu thập khách quan, hợp pháp và đầy đủ để giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án.

[2] Về nội dung:

Trên cơ sở đối chiếu lời khai của bị cáo, các bị hại với tài liệu, chứng cứ đã thu thập và kết quả giám định có cơ sở để kết luận: bị cáo Nguyễn Hoàng T đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối, tự nói mình là Công an có quen biết nhiều người để giúp các đối tượng có liên quan đến các vụ án dân sự, hình sự có thể được xử lý có lợi cho họ. Từ tháng 05/2019 đến tháng 11/2019 bị cáo đã lừa được 03 người để chiếm đoạt số tiền tổng cộng 560.000.000 đồng. Các bị hại Võ Phát Đ, Lê Thị L và Nguyễn Thị E đều xác định hành vi của bị cáo và thừa nhận trong quá trình điều tra đã được gia đình bị cáo trả lại đầy đủ số tiền đã chiếm đoạt. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, án sơ thẩm tuyên xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội.

[3] Về yêu cầu kháng cáo:

Bị cáo kháng cáo kêu oan với lý do bị dùng nhục hình trong quá trình điều tra; khiếu nại về thủ tục bắt giữ và cho rằng bản thân không biết bà E, bà Đẹp là ai nên xét xử bị cáo là oan. Xét hành vi của bị cáo đã được điều tra làm rõ, quyền bào chữa được bảo đảm nhưng những khai nại về việc bị bức cung, nhục hình không có căn cứ như án sơ thẩm đã phân tích. Các buổi lấy lời khai của bị cáo đều có ghi âm, ghi hình để công khai nên kháng cáo kêu oan là không có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan thành xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã quy kết.

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2021. Áp dụng khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

2. Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận bị cáo Nguyễn Hoàng T đã bồi thường xong cho ông Võ Phát Đ số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng); bà Lê Thị L số tiền 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng); bà Nguyễn Thị E số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Ghi nhận các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

1-8

2

Bản án số: 804/2019/HS-PT ngày: 18/12/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

Nội dung: Ngày 12/5/2017, Nguyễn Văn Q cùng đồng phạm thực hiện hành vi trộm cắp màn hình điện thoại di động tại Công ty SamSung. Sau khi bị Công an tỉnh Bắc Ninh triệu tập lên làm việc, sợ bị bắt nên Q không đến làm việc theo yêu cầu. Do có quen biết Đào Ngọc L, Q kể cho L nghe về việc mình đang bị điều tra về hành vi trộm cắp tài sản, nhờ L tìm người lo hộ. L nói với Q để L hỏi giúp. Do có quen biết với Hoàng Văn T, biết Tú làm ở Công an thành phố N có thể lo được cho Q, nên L nhờ Tú. Mặc dù không quen biết ai và không có khả năng lo cho Q, nhưng Tú vẫn nói với L có thể lo cho Q được, chi phí hết 300 triệu đồng. Tin tưởng Tú, nên L báo lại cho Q và Q đồng ý.

Đầu tháng 6/2017, Q cùng L và Nguyễn Văn C mang 300 triệu đồng đến một quán Cà phê, đối diện với Công viên Hoà Bình ở Nam Thăng Long – Hà Nội gặp Tú. Lúc đó, Tú có đưa cho Q xem thẻ ngành Công an và giới thiệu Đỗ Trọng T có thể giúp giải quyết. Tại buổi gặp hôm đó, Q đã đưa cho Tú để Tú đưa cho T số tiền 300 triệu đồng. Hai ngày sau, T hẹn gặp Q và trả lời không giúp được Q. Tuy nhiên, do đang cần tiền, nên T đã vay lại của Q 150 triệu đồng và được Q đồng ý. Sau đó, T nhờ vợ là chị Phạm Thị L đưa trả cho Q 150 triệu đồng, còn nợ lại 150 triệu đồng.

Sau khi biết T không giúp được Q, Tú tiếp tục nói với L và Q là có ông Trần Văn Phong có thể lo cho Q được trắng án nhưng phải chi phí hết 700 triệu đồng. Tin tưởng Tú, Q đồng ý. Sau đó, Q đã 05 lần đưa tiền cho L để L đưa cho Tú tổng số 650 triệu đồng. Ngoài số tiền trên, Q còn trực tiếp đưa cho Tú 393 triệu đồng (Trong các lần đưa tiền các bên đều không nhớ được thời gian đưa, địa điểm cụ thể mà chỉ nhớ được 2 lần tại nhà L ở xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong và gần cầu vượt Yên Phong, các lần còn lại các bên đều không nhớ địa điểm cụ thể). Sau khi nhận được tổng số tiền 1.043.000.000đồng của Q, Tú có đưa Q đến gặp ông Phong một lần, nhưng Q không biết nhân thân lại lịch và địa chỉ cụ thể của ông Phong. Sau đó, Q vẫn bị các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Ninh khởi tố, truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”. Do vậy, Q gặp Tú 3 đòi lại tiền, do không có tiền trả lại Q nên khoảng tháng 01/2018, Tú đưa cho L 01 viên đá màu xanh ngọc hình tròn, đường kính 4,2cm để trả cho Q, sau đó không trả tiền nữa. Đến ngày 23/01/2018, Q gửi đơn tố cáo Tú đến Cơ quan điều tra đề nghị giải quyết. Sau khi Q có đơn trình báo, Tú trả cho Q thêm 100 triệu đồng. Ngày 22/3/2018, Q giao nộp viên đá mà Tú đưa cho Cơ quan điều tra. Ngày 01/6/2018, Cơ quan điều tra tiến hành làm việc với Q, L và Tú thì ba người thỏa thuận với nhau viên đá trên có trị giá 300 triệu đồng và đồng ý để Tú trả vào khoản tiền 393 triệu đồng mà Tú đã nhận của Q

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 13/5/2019, nhưng được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 11/6/2018 đến ngày 06/7/2018.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyềt định về 4 trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/10/2019, bị cáo Hoàng Văn T kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định

[1] Về hành vi phạm tội:

Mặc dù quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn T chỉ thừa nhận đã nhận của Q 393.000.000 đồng, nhận của L 200.000.000 đồng để lo cho Nguyễn Văn Q được trắng án. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của người bị hại Q; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đào Ngọc L, anh Đỗ Trọng T, bà Phùng Thị Luân; các biên bản đối chất giữa Q và Tú, Q và L, Tú và L; lời khai người làm chứng; biên bản thể chế nội dung từ âm thanh sang văn bản cuộc nói chuyện giữa L và Tú; vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Mặc dù không quen biết ai, không có khả năng “chạy án”, nhưng Hoàng Văn T vẫn hứa hẹn sẽ lo được cho Nguyễn Văn Q không bị xử lý trong vụ án trộm cắp màn hình điện thoại, tại công ty Sam Sung mà Q có tham gia. Từ tháng 06/2017 đến tháng 7/2017, Tú đã nhận của Q tổng số 1.043.000.000 đồng. Tuy nhiên sau khi nhận tiền, Tú không làm gì giúp cho Q như đã hứa. Bản thân Q đã bị các cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Ninh khởi tố, truy tố, xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”. Do không thực hiện được như hứa hẹn, trước khi anh Q làm đơn tố giác, Tú thông qua Đào Ngọc L trả cho anh Q 01 viên đá màu xanh ngọc hình tròn, đường kính 4,2cm hai bên thỏa thuận trị giá 300.000.000đồng, còn số tiền 743.000.000 đồng bị cáo chiếm đoạt. Mặc dù bị cáo có hành vi gian dối từ trước, nhưng sau đó bị cáo đã trả lại cho người bị hại một phần tài sản. Do vậy, cấp sơ thẩm không xem xét toàn bộ số tiền đã nhận 1.043.000.000 đồng, chỉ xem xét hành vi chiếm đoạt của bị cáo đối với số tiền còn lại 743.000.000 đồng là có lợi cho bị cáo. Với hành vi nêu trên trên, bị cáo Hoàng Văn T đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về tính chất hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì muốn có tiền chi tiêu cá nhân nên hứa hẹn “chạy án” để nhận tiền, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng, cần phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Mặc dù, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình đã tích cực khắc phục thiệt hại, trả lại cho người bị hại toàn bộ số tiền chiếm đoạt, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, với số lượng tiền mà bị cáo lừa đảo chiếm đoạt rất lớn. Vì vậy, việc cách L bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất, hành vi, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, 6 nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, tình hình đấu tranh phòng chống với loại tội này, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày từ trước đến nay không vi phạm pháp luật gì; nhân thân không có tiền án, tiền sự; gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Xét thấy, những căn cứ bị cáo đưa ra đã được cấp sơ thẩm cân nhắc, xem xét. Ngoài tình tiết giảm nhẹ đã áp dụng, bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Mặt khác, như đã nêu trên với số lượng tiền mà bị cáo chiếm đoạt rất lớn, mức hình phạt 07 năm 06 tháng tù là nhẹ đối với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo không có cơ sở, nên không được chấp nhận; Quan điểm đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội là có cơ sở, được chấp nhận.

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn T.

2. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 47/2019/HSST ngày 23/9/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 07(bảy) năm 06(sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2019, nhưng được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 11/6/2018 đến ngày 06/7/2018

9-15

3

Bản án số: 113/2019/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An

Nội dung: Vào khoảng tháng 4 năm 2016, Moong Văn T xuống gọi Lữ Thị Th, sinh năm 1982, trú cùng Bản T, xã C, huyện KS lên tại nhà mình để làm việc với anh Lô Văn Lóa (cán bộ Công an huyện TD, tỉnh Nghệ An) vì thời điểm đó Lữ Thị Th đang bị điều tra về tội “Mua bán người” trong một vụ án hình sự khác. Sau khi làm việc xong với Công an huyện TD, Lữ Thị Th hỏi Moong Văn T “Cháu bỏ tiền nhờ dượng xin giảm án được không?”, thì được Moong Văn T nhận lời. Sau đó, Moong Văn T nói với Lữ Thị Th “Cháu về nhà lấy ba mươi triệu đồng lên để dượng xin giảm nhẹ cho”, nghe Moong Văn T nói vậy thì Lữ Thị Th nói với chồng là anh Xeo Văn Q về nhà lấy số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) lên giao cho Moong Văn T để được giúp đỡ. Sau khi nhận số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) Moong Văn T cất vào tủ rồi viết đơn xin giảm án cho Lữ Thị Th. Số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng) nhận của Lữ Thị Th thì Moong Văn T đã tiêu xài cá nhân hết. Khoảng ba ngày sau, do đang cần tiền trả nợ nên Moong Văn T nảy sinh ý định lừa chị Lữ Thị Th để lấy tiền, Moong Văn T gọi cho Lữ Thị Th với nội dung “Cháu chuẩn bị thêm số tiền mười triệu đồng để dượng lo việc xin giảm án” vì tưởng thật nên Lữ Thị Th đồng ý. Chiều cùng ngày, Moong Văn T nói với vợ là Ngân Thị H lên nhà Lữ Thị Th lấy số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng), sau đó Ngân Thị H xuống nhà Lữ Thị Th rồi nói “Cho mự lấy số tiền cho dượng Tình”, Lữ Thị Th lấy số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) đưa cho Ngân Thị H để cầm về nhà trao lại cho Moong Văn T, số tiền đó Moong Văn T đã sử dụng để trả tiền nợ cá nhân hết. Đến ngày 22/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt Lữ Thị Th 04 năm tù về tội “Mua bán người”. Sau khi bị tuyên 04 năm tù, Lữ Thị Th đến gặp Moong Văn T hỏi “Tại sao cháu đã đưa tiền cho dượng để xin giảm án nhưng vẫn bị xử 04 năm tù”, Moong Văn T nói lại với Lữ Thị Th “Đáng lẽ cháu bị xử 3 sáu, bảy năm nhưng dượng đã chạy nên giảm xuống còn 04 năm”. Vì không tin lời Moong Văn T nên Lữ Thị Th nhiều lần đến xin lại số tiền đã đưa cho Moong Văn T trước đó nhưng Moong Văn T không trả và còn đe dọa, chửi bới Lữ Thị Th. Ngày 12/5/2019, Lữ Thị Th đã làm đơn tố cáo hành vi của Moong Văn T lên Cơ quan chức năng.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

[1] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tại thời điểm Bộ luật Hình sự năm 1999 đang có hiệu lực (trước ngày 01/01/2018), đối với tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định mức hình phạt ngang nhau vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật

[3] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo Moong Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các 4 chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian tháng 4/2016, mặc dù biết dùng tiền chạy án là hành vi trái pháp luật và bản thân không có khả năng xin giảm án cho người khác nhưng Moong Văn T đã dùng thủ đoạn gian dối, hứa hẹn để chiếm đoạt số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) của chị Lữ Thị Th. Hành vi đó của bị cáo Moong Văn T đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét tới các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là: bị cáo đã bồi thường cho bị hại toàn bộ số tiền chiếm đoạt, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại các điểm b, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngoài ra, trong quá trình công tác bị cáo đã có nhiều thành tích.

[4.2] Xét, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Căn cứ vào khoản 1 Điều 139, điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015: Tuyên bố bị cáo Moong Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Moong Văn T 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 04 (Bốn) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/10/2019). Giao Moong Văn T cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

16-21

4

Bản án số: 49/2022/HS-ST ngày: 17/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam

Nội dung: Khoảng đầu tháng 8 năm 2021, Nguyễn Thị H biết tin Lê Văn Th, sinh năm 1983 và Lê Tấn V, sinh năm 1990 cùng trú tại tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Nam bị Công an thành phố P, tỉnh Hà Nam bắt giữ về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Nguyễn Thị H biết cháu họ là anh Lại Văn T, sinh năm 1975 ở tổ dân phố N, thị trấn T, huyện T có chơi với anh Lê Văn T, sinh năm 1987 ở tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T (là anh trai của Lê Văn Th) nên chủ động nói với anh Lại Văn T mục đích để anh Lại Văn T nói lại với anh Lê Văn T về việc mình có thể lo chạy án cho Lê Văn Th và Lê Tấn V không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi được anh Lại Văn T nói lại thì anh Lê Văn T đã liên hệ với Nguyễn Thị H để hỏi về việc chạy án cho Lê Văn Th và Lê Tấn V, Nguyễn Thị H đã nói với anh Lê Văn T là mình có quen với Giám đốc Công an tỉnh Hà Nam và có thể nhờ chạy án cho Lê Văn Th, Lê Tấn V đồng thời yêu cầu anh Lê Văn T đưa trước 50 triệu đồng để chi phí. Tháng 8/2021 anh Lê Văn T đến nhà đưa cho Nguyễn Thị H 50 triệu đồng. Nguyễn Thị H nói với anh Lê Văn T sẽ chạy trắng án cho Lê Văn Th và Lê Tấn V với giá 300.000.000 đồng/1người và hẹn sau 09 ngày sẽ được tha. Ngày 31/8/2021, anh Lê Văn T và anh Lê Đức V, sinh năm 1988 trú tại tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T (là anh trai của Lê Tấn V đến gặp và đưa cho Nguyễn Thị H 300.000.000 đồng để chạy án; khi nhận tiền, Nguyễn Thị H viết giấy biên nhận tổng 350.000.000 đồng và hứa hẹn khoảng từ ngày 15 – 20/01/2022 sẽ lo cho Lê Văn Th và Lê Tấn V về. Một thời gian sau không thấy Lê Văn Th và Lê Tấn V về, anh Lê Văn T liên hệ thì Nguyễn Thị H cho biết có trục trặc đồng thời yêu cầu anh Lê Văn T chuyển thêm tiền để lo chạy án cho Lê Văn Th và Lê Tấn V. Khoảng tháng 11/2021, anh Lê Văn T trực tiếp đưa cho Nguyễn Thị H 200.000.000đ, sau khi nhận tiền, Nguyễn Thị H viết giấy biên nhận thành tổng số tiền 550.000.000đ. Khoảng giữa tháng 12/2021 qua điện thoại, Nguyễn Thị H nói với anh Lê Văn T mỗi trường hợp muốn thoát tội phải mất 400.000.000 đồng/01 người, anh Lê Văn T tiếp tục đến nhà Nguyễn Thị H đưa cho Nguyễn Thị H 175.000.00 đồng để lo chạy án và hứa đưa hết số tiền còn lại khi Lê Văn Th và Lê Tấn V được về nhà. Khi đã nhận tiền, Nguyễn Thị H viết giấy biên nhận tổng số tiền là 725.000.000 đồng. Quá hẹn không thấy Lê Văn Th và Lê Tấn V được về, anh Lê Văn T liên lạc thì Nguyễn Thị H nói mỗi trường hợp chạy trắng án phải mất 500.000.000 đồng và yêu cầu đưa thêm 200.000.000 đồng nhưng anh Lê Văn T nói cứ lo cho Lê Văn Th và Lê Tấn V được về thì sẽ chuyển tiền. Sau nhiều lần anh Lê Văn T truy hỏi về việc chạy án, để tạo niềm tin, Nguyễn Thị H nhờ người (không rõ tên tuổi, địa chỉ) viết giấy bảo lãnh đưa cho anh Lê Văn T. Ngoài ra Nguyễn Thị H còn thuê người (không rõ tên, địa chỉ) đánh máy sửa Quyết định gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự số 03/QĐ-VKSTL ngày 19/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đối với vụ án hình sự Lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà Nguyễn Thị H đang là bị can do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm khởi tố sang mẫu Quyết định gia hạn thời hạn điều tra vụ án do Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam ban hành (quyết định không có chữ ký, đóng dấu) rồi gửi cho anh Lê Văn T qua Zalo mục đích để anh Lê Văn T yên tâm không thúc giục Nguyễn Thị H nữa. Ngày 18/4/2022, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xét xử vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, phạt Lê Văn T 07 năm 06 tháng tù và Lê Tấn V 07 năm 03 tháng tù. Ngày 17/7/2022, anh Lê Văn T gửi đơn tố cáo hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Thị H đến Công an tỉnh Hà Nam.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Nam, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo:

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, của bị hại, người làm chứng, các kết luận giám định; kết quả trích xuất dữ liệu điện thoại và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Do cần tiền để trả nợ và sử dụng cá nhân; trong khoảng đầu tháng 8/2021 khi biết Lê Văn Th và Lê Tấn V bị Công an bắt giữ về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, Nguyễn Thị H đã đưa ra thông tin không đúng sự thật là quen biết Giám đốc Công an tỉnh Hà Nam, có thể lo chạy án cho Lê Văn Th và Lê Tấn V không bị truy cứu trách nhiệm hình sự để anh Lê Văn T (anh trai Lê Văn Th) tin tưởng thông tin bị cáo đưa ra là thật, nên trong thời gian từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021 anh Lê Văn T đã nhờ Nguyễn Thị H chạy án, trực tiếp anh Lê Văn T đã 04 lần đưa tiền cho bị cáo Nguyễn Thị H gồm: đầu tháng 8/2021 đưa bị cáo 50.000.000 đồng (không viết giấy biên nhận), ngày 31/8/2021 đưa 300.000.000 đồng (đi cùng anh Lê Đức V là anh trai Lê Tấn V, bị cáo viết giấy biên nhận tổng tiền là 350.000.000 đồng), khoảng tháng 11/2021 đưa bị cáo 200.000.000 đồng (bị cáo viết giấy biên nhận tổng tiền là 550.000.000 đồng) và khoảng tháng 12/2021 đưa bị cáo 175.000.000 đồng (bị cáo viết giấy biên nhận tổng tiền là 725.000.000 đồng). Như vậy bị cáo Nguyễn Thị H đã chiếm đoạt của anh Lê Văn T tổng số tiền 725.000.000 đồng đến nay chưa trả. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị H đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Ngày 08/7/2022 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 48 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: tại giai đoạn điều tra và phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Thị H dùng thủ đoạn gian dối, đã 04 lần nhận tiền của anh Lê Văn T nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên” tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt:

Xem xét toàn diện tính chất mức độ, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, chiếm đoạt số tiền lớn chưa bồi thường cần xử lý nghiêm minh bằng một hình phạt tù có thời hạn tương xứng tính chất, mức độ tội phạm. Về hình phạt 48 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 42/2022/HSST ngày 08/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam (đã có hiệu lực pháp luật), căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự cần được tổng hợp với hình phạt của bản án này, buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo phạm tội nhằm mục đích chiếm đoạt cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền để sung quỹ nhà nước.

[6] về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải trả lại cho anh Lê Văn T toàn bộ số tiền bị cáo đã chiếm đoạt là 725.000.000 đồng (Bảy trăm hai mươi lăm triệu đồng

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

1. Về hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 14 (Mười bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2022. Tổng hợp với hình phạt 48 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 42/2022/HSST ngày 08/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 18 (Mười tám) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2022.Phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền 15.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

2. Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải trả lại cho anh Lê Văn T, sinh năm 1987, nơi cư trú: tổ dân phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Nam toàn bộ số tiền bị cáo đã chiếm đoạt là 725.000.000 đồng (Bảy trăm hai mươi lăm triệu đồng).

3. Xử lý vật chứng: tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone XS Max do có liên quan đến tội phạm; trả lại bị cáo Nguyễn Thị H 01 (Một) Căn cước công dân số 035177000526 mang tên Nguyễn Thị H do Cục C06 – Bộ Công an cấp ngày 11/8/2021 và 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 5S màu trắng do không có liên quan đến tội phạm nhưng tạm giữ chiếc điện thoại này để đảm bảo thi hành án.

22-30

5

Bản án số: 54/2018/HS-PT ngày 07-8 -2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn

Nội dung: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 12/10/2017 Đường Quang L có hành vi đánh bạc cùng với nhiều người khác tại Thôn Y, xã T3, huyện B, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Bắc Sơn phát hiện bắt quả tang. Lợi dụng lúc hỗn loạn Đường Quang L đã chạy thoát. Do lo sợ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nên khoảng 09 giờ cùng ngày Đường Quang L gọi điện thoại cho Đỗ Văn C, hỏi xem có ai quen để nhờ “chạy án” giúp khỏi bị xử lý hình sự. Đỗ Văn C gọi điện thoại cho Nguyễn Xuân T4 và nói cho Nguyễn Xuân T4 biết nội dung mà Đường Quang L nhờ. Do trước đây vào năm 2014 Nguyễn Xuân T4 bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử tại thị xã Y1, tỉnh Thái Nguyên, có quen biết với Triệu Văn Q là cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Y1, tỉnh Thái Nguyên nghĩ rằng Triệu Văn Q có thể “chạy án” được cho Đường Quang L, nên Nguyễn Xuân T4 đã liên lạc với Triệu Văn Q. Triệu Văn Q nhận lời giúp và bảo cứ chuẩn bị tiền trước khoảng 50.000.000 đồng thì lo được.

Nguyễn Xuân T4 trao đổi lại cho Đỗ Văn C là có người chạy án được với giá 60.000.000 đồng, nhưng chưa có tiền hoa hồng. Nghe vậy thì Đỗ Văn C nói “Vậy bảo với Đường Quang L là 70.000.000 đồng”. Trong quá trình trao đổi giữa Đường Quang L, Đỗ Văn C, Nguyễn Xuân T4 thì Đường Quang L đồng ý và chuẩn bị số tiền là 65.000.000 đồng, để Nguyễn Xuân T4 hẹn Triệu Văn Q lên huyện B chạy án; khi gặp nhau thì Đường Quang L đã đưa cho Nguyễn Xuân T4 65.000.000 đồng, rồi Nguyễn Xuân T4 lên xe ô tô taxi do Triệu Văn Q thuê từ thị xã Y1 lên gặp. Lúc này trên xe ô tô có Triệu Văn Q, Nguyễn Xuân T4 cùng lên xe ô tô để lên thị trấn B, theo Nguyễn Xuân T4 nói là đi gặp người để lo việc “chạy án”. Sau đó Nguyễn Xuân T4 và Triệu Văn Q quay trở lại gặp Đường Quang L, thì Triệu Văn Q thông báo cho Đường Quang L là lo xong rồi và bảo Đường Quang L không phải lo đâu, sau đó Triệu Văn Q đi xe ô tô taxi về Thái Nguyên.

Ngày hôm sau 13/10/2017 Triệu Văn Q trao đổi với Nguyễn Xuân T4, bảo Nguyễn Xuân T4 chuyển cho Triệu Văn Q 30.000.000 đồng. Nguyễn Xuân T4 đồng ý chuyển bằng tài khoản cho Triệu Văn Q. Khoảng 03 ngày sau Nguyễn Xuân T4 lại gửi cho Triệu Văn Q theo yêu cầu của Triệu Văn Q thêm 2.000.000 đồng theo xe ô tô khách. Ngoài hai khoản tiền trên thì vào tối hôm Triệu Văn Q lên huyện B gặp Đường Quang L, Đỗ Văn C, Nguyễn Xuân T4, thì Nguyễn Xuân T4 đã đưa cho Triệu Văn Q 2.500.000 đồng để Triệu Văn Q trả tiền taxi. Tổng cộng số tiền mà Triệu Văn Q đã nhận từ Nguyễn Xuân T4 là 34.500.000 đồng. Sau khi nhận tiền Triệu Văn Q đã chi tiêu cho cá nhân hết. Đối với Đường Quang L sau khi đã đưa cho Nguyễn Xuân T4 65.000.000 đồng để Nguyễn Xuân T4 lo “chạy án”, hai hôm sau Đường Quang L lại đưa tíếp cho Đỗ Văn C 5.000.000 đồng cho đủ số tiền như đã thống nhất là 70.000.000 đồng.

Đối với số tiền 70.000.000 đồng sau khi nhận từ Đường Quang L, Nguyễn Xuân T4 đã chuyển cho Triệu Văn Q, tổng cộng là 34.500.000 đồng; đưa lại cho Đường Quang L để mua xăng 500.000 đồng; chia cho Đỗ Văn C 2.500.000 đồng. Còn lại 32.500.000 đồng Nguyễn Xuân T4 giữ lại cho bản thân; khi Đường Quang L bị bắt Nguyễn Xuân T4 đã đem số tiền 20.000.000 đồng đến nhà trả cho bà Lý Thị V là mẹ đẻ của Đường Quang L, đồng thời cũng đã đem nộp số tiền 12.500.000 đồng tại Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Sơn. Triệu Văn Q cũng 3 đã tự đem nộp số tiền 30.000.000 đồng cho Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Sơn, Đỗ Văn C cũng đã nộp 2.500.000 đồng cho Công an huyện Bắc Sơn sau khi được gọi hỏi. Ngày 02/11/2017 Đường Quang L được vận động ra đầu thú về hành vi đánh bạc tại Công an huyện Bắc Sơn và bị tạm giữ, tạm giam. Thấy việc bỏ tiền ra để “chạy án” cho hành vi đánh bạc không được, ngày 06/12/2017 Đường Quang L viết đơn tố cáo hành vi của Nguyễn Xuân T4 và Triệu Văn Q lừa tiền “chạy án”.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Tuyên bố bị cáo Đường Quang L phạm Tội đưa hối lộ và bị cáo Triệu Văn Q phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng khoản 3 Điều 289; Điều 33 Bộ luật Hình sự 1999, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; điểm a khoản 1 Điều 364; điểm i, r, s khoản 1, 2 Điều 51 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Đường Quang L 9 (chín) tháng tù giam. Thời gian chấp hành tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 02/11/2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 139; Điều 33 Bộ luật Hình sự 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 1 Điều 174 ; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Triệu Văn Q 10 (mười) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Triệu Văn Q đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình và thừa nhận Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử bị cáo về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

[2] Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và hoàn cảnh phạm tội cũng như áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và xử phạt bị cáo Triệu Văn Q 10 (mười) tháng tù là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Triệu Văn Q, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản thân bị cáo là người am hiểu các quy định của pháp luật nhưng do muốn kiếm được tiền bằng hành vi bất chính, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tiền của bị cáo Đường Quang L. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của địa phương. Bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để xử phạt bị cáo mức án 10 (mười) tháng tù giam là phù hợp, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn trình bày về hoàn cảnh điều kiện khó khăn của gia đình, bản thân bị cáo mắc bệnh phải điều trị thường xuyên có sổ khám điều trị cùng các tài liệu phục vụ điều trị kèm theo. Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, có nơi cư trú rõ ràng và có nhân thân tốt. Đối chiếu với Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng về án treo thì có căn cứ để chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm theo hướng chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt tù đối với bị cáo của Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn nhưng chuyển cho bị cáo được hưởng án treo.

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Triệu Văn Q, sửa một phần quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2018/HS-ST ngày 03/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn; cụ thể: Căn cứ khoản 1 Điều 139; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 174 ; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt bị cáo Triệu Văn Q 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời gian thử thách là 20 (hai mươi) tháng tính từ ngày xét xử phúc thẩm 07/8/2018. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Thị trấn S, huyện T, tỉnh Thái Nguyên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

31-35

6

Bản án số: 01/2020/HS-ST ngày 03 – 01 – 2020 của Tòa án nhân dân huyện K thành phố Hải Phòng

Nội dung:

Ngày 17/8/2017, Tòa án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với Đinh Văn T, sinh năm: 1971, ở thôn K1, xã T, huyện K và Mạc Như V, sinh năm: 1982, ở thôn Đ, xã N, huyện K và đồng phạm về các tội “Tổ chức đánh bạc”, “Gá bạc” và “Đánh bạc” và tuyên phạt Đinh Văn T 21 tháng tù, Mạc Như V 27 tháng tù. Do Nguyễn Danh L có mối quan hệ bạn bè, quen biết với Đinh Văn T, Mạc Như V nên L biết T và V đều có mong muốn được hưởng án treo. Sau khi Tòa án nhân dân huyện K xét xử một vài ngày L, T, V cùng đến nhà anh Vũ Duy P, sinh năm 1964 ở thôn S, xã M, huyện K để chơi, tại đây L chủ động đặt vấn đề “chạy án” từ hình phạt tù sang án treo cho T, V nhưng lúc này cả T, V đều chưa đồng ý nhờ L “chạy án” vì chưa tin tưởng. Để tạo sự tin tưởng của T và V, L đã đưa ra các thông tin không đúng sự thật, L nhiều lần nói về việc có mối quan hệ quen biết với những người làm trong các Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, đồng thời khẳng định “chạy án” cho T, V được hưởng án treo. Mục đích để T, V sẽ giao tiền cho Lý để “chạy án”. Sau nhiều lần thuyết phục, T và V đồng ý nhờ L “chạy án”. Theo yêu cầu của L, T đã giao 200.000.000 đồng, V giao 210.000.000 đồng cho L để “chạy án”. Sau khi nhận được tiền của T và V, L sử dụng toàn bộ vào việc chi tiêu cá nhân mà không làm bất cứ hành động nào, không liên hệ với ai để “chạy án” cho T và V vì L không có khả năng thực hiện việc này. Ngày 17/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm vụ án, không chấp nhận kháng cáo của T, V và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Lúc này, T và V nghi ngờ L lừa đảo chiếm đoạt tiền của mình nên đã yêu cầu L trả lại tiền. L hẹn gặp T, V ở khu vực ngã 5 K, thành phố Hải Phòng, L đi cùng 03 người bạn của mình (trong đó có một người bạn tên H, ở Hà Nội, còn lại 02 người khác đều là bạn của H, chưa xác định rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể). Tại đây, L trả cho T, V mỗi người 10.000.000 đồng. Sau đó, đến thời điểm trước khi T đi thi hành án, L dẫn theo bạn là M ở thành phố Hồ Chí Minh (chưa xác định được rõ lai lịch) đến nhà T, trả lại cho T thêm 25.000.000 đồng. Do Tứ phải đi thi hành án nên T bảo L viết giấy vay số tiền là 165.000.000 đồng và nhờ ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964, ở thôn Đ, xã T, huyện K đứng tên là người cho vay. Khi T đi thi hành án phạt tù, L đã trả thêm cho T 60.000.000 đồng, còn lại 105.000.000 đồng L chưa bồi thường, khắc phục hậu quả. Đối với V, L trả thêm được 10.000.000 đồng, còn lại 190.000.000 đồng đến nay chưa bồi thường, khắc phục hậu quả.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố đối với bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Danh L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Danh L đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo đã chiếm đoạt của anh Đinh Văn T số tiền là 200.000.000 đồng và chiếm đoạt của anh Mạc Như V số tiền là 210.000.000 đồng, tổng giá trị chiếm đoạt là 410.000.000 đồng nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự như kết luận của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không vi phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về dân sự: Người bị hại là anh Đinh Văn T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 105.000.000 đồng, anh Mạc Như V yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 190.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Danh L cũng đồng ý bồi thường theo yêu cầu của các người bị hại. Xét yêu cầu của các người bị hại và sự đồng ý bồi thường của bị cáo L là phù hợp quy định của pháp luật nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Danh L 11 (mười một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 07/5/2019.

Về dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584; 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Nguyễn Danh L phải bồi thường cho các người bị hại, cụ thể như sau:

+ Bồi thường cho anh Đinh Văn T số tiền 105.000.000 đồng (một trăm lẻ năm triệu đồng).

+ Bồi thường cho anh Mạc Như V số tiền 190.000.000 đồng (một trăm chín mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

36-42

7

Bản án số: 230/2018/HS-PT ngày: 05 – 10 – 2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Nội dung: Vào lúc 15 giờ 20 phút, ngày 28/10/2011, tại nhà nghỉ N của vợ chồng Phạm Thị L2 và Triệu Đức N địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện E, tỉnh Đăk Lắk, khi bà Phạm Thị L2 đang có hành vi cho gái bán dâm là Hoàng Thị G và Lê Thị H1 bán dâm cho khách thì bị Công an tỉnh Đắk Lắk bắt quả tang về hành vi chứa mại dâm, bà Lê Thị H1 và bà Hoàng Thị G cũng bị bắt về hành vi bán dâm tại nhà nghỉ của vợ chồng ông Triệu Đức N. Ngày 04/11/2011, Phạm Thị L2 bị cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện E khởi tố và tạm giam về Tội chứa mại dâm; ngày 15/11/2011 gái bán dâm Hoàng Thị G và Lê Thị H1 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện E ra quyết định đưa vào Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Đắk Lắk chữa bệnh bắt buộc, thời hạn 06 tháng.

Sau khi Phạm Thị L2 và gái bán dâm Hoàng Thị G và Lê Thị H1 bị bắt, Triệu Đức N gặp Hoàng Thị P (chị gái của Hoàng Thị G) trao đổi tìm người lo cho L2 được tại ngoại và hưởng án treo khi xét xử và lo cho hai gái bán dâm được giảm thời hạn giáo dục tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Đắk Lắk; bà P đã đến gặp Nguyễn Thị H đề nhờ lo cho L2 và hai gái bán dâm. Mặc dù không có khả năng và không quen biết ai là người có thẩm quyền giải quyết cho bà L2 được tại ngoại và được hưởng án treo khi xét xử và giải quyết cho gái bán dâm Lê Thị H1 và Hoàng Thị G được giảm thời hạn giáo dục, Nhưng bị cáo H vẫn nhận lời và yêu cầu đưa trước số tiền 85.000.000đ, trong đó 50.000.000đ lo cho hai gái bán dâm, 35.000.000đ là tạm ứng lo cho bà L2, sau khi gặp gỡ trao đổi với H, bà P thông báo cho ông N biết thì được ông N đồng ý. Ngày 04/11/2011 tại thị trấn P, huyện K, ông N đưa cho bà P 50.000.000đ, ngày 07/11/2011 ông N đưa tiếp cho bà P 35.000.000đ tại thị trấn huyện C, tỉnh Đắk Nông, cùng ngày bà P gọi điện thoại cho H đến lấy tiền, do bận việc nên bị cáo H nhờ chồng là Nguyễn Quang S đến lấy tiền, sau khi lấy tiền từ bà P, S đem về đưa hết cho bị cáo H. Trong các ngày 09, 12, và 13/12/2011 tại nhà ông Triệu Đức N, bị cáo H tiếp tục nhận từ ông N số tiền 115.000.000đ; cụ thể: Ngày 09/12/2011 nhận 65.000.000đ; ngày 12/12/2011 nhận 25.000.000đ và ngày 13/12/2011 nhận 25.000.000đ tất cả các lần nhận tiền H đều viết giấy thể hiện số tiền và nội dung của việc nhận tiền. Khi Nguyễn Thị H không lo cho Phạm Thị L2 được tại ngoại, được hưởng án treo và lo cho gái bán dâm là Lê Thị H1, Hoàng Thị G được giảm thời hạn giáo dục, ông Triệu Đức N đã nhiều lần đòi lại số tiền nhưng H không trả. Như vậy, Nguyễn Thị H đã chiếm đoạt của ông Triệu Đức N số tiền 200.000.000đ, toàn bộ số tiền này bị cáo H đã dùng tiêu xài cá nhân hết, hiện Nguyễn Thị H chưa trả lại số tiền này cho ông Triệu Đức N.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 3 điều 139 Bộ luật Hình sự; điểm b Khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. 4 Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 08 (Tám) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tổng hợp hình phạt chung của bán án số 198/2013/HS-PT ngày 22/5/2013 và bản án số 28/2013/HS-PT ngày 04/11/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải chấp hành hình phạt chung là 30 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 23/3/2012.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 42 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 608 Bộ luật Dân sự: Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo NGUYỄN THỊ H phải trả cho ông Triệu Đức N 166.500.000 đồng (Một trăm sáu mươi sáu triệu năm trăm ngàn đồng).

Xử lý vật chứng: Trả cho ông Lê Quang L: 01 điện thoại di động hiệu Nokia model X1-01; 02 sim điện thoại và 01 thẻ nhớ có đặc điểm được mô tả cụ thể tại biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu ngày 05/4/2014

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định

[1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và lời khai của bị cáo, bị hại tại phiên tòa phúc thẩm thì có cơ sở để kết luận: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tải sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. Sau khi án xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn Thị H không kháng cáo.

[2]. Xét kháng cáo của người bị hại ông Triệu Đức N và người liên quan bà Phạm Thị L2 yêu cầu: Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án; xác định lại tội danh mà bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự, tránh làm oan sai và bỏ lọt tội phạm; làm rõ căn cứ và tuyên buộc những người liên quan khác phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả lại toàn bộ số tiền mà tôi đã “chạy án” thông qua bị cáo Nguyễn Thị H; hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2017/HS-ST ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk để điều tra xét xử lại thì thấy: Trong các ngày 09, 12, 13/12/2011 tại nhà của ông Triệu Đức N, bị cáo Nguyễn Thị H đã nhận của ông N số tiền 115.000.000 đồng và nhận của Nguyễn Quang S (chồng của bị cáo) số tiền 85.000.000 đồng (số tiền này ông N đưa cho bà P, bà P đưa cho H nên H nhờ Nguyễn Quang S tới lấy). Số tiền này bị cáo H và ông N cho rằng là để chạy cho bà Phạm Thị L2 (vợ ông N) được tại ngoại và được hưởng án treo khi xét xử (trước đó bà Phạm Thị L2. đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện E khởi tố và tạm giam về tội “chứa mại dâm”) và lo cho những người bán dâm là Hoàng Thị G và Lê Thị H1 được giảm thời hạn giáo dục tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Đắk Lắk. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm không xác định được có việc “chạy án” như bị cáo H, ông N và Bà L2 đã khai nhận nên hành vi của bị cáo H bị truy tố và xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi án xử sơ thẩm bị cáo H cũng không kháng cáo.

Bị cáo Nguyễn Thị H bị tuyên bố phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, người bị hại trong vụ án được xác định là ông Triệu Đức N nên Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2017/HS-ST ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải trả lại cho ông Triệu Đức N 200.000.000 đồng mà bị cáo đã chiếm đoạt của ông N là có căn cứ, đúng quy định tại: khoản 2 Điều 41 và Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999, nên các nội dung kháng cáo về tội danh và bồi thường của ông Triệu Đức N không có căn cứ để chấp nhận.

[2.1]. Xét kháng cáo cho rằng: Chưa làm rõ vai trò của ông Lê Quang L trong việc chạy án của bị cáo Nguyễn Thị H; chưa xác minh làm rõ giao dịch tiền bạc giữa bị cáo H và ông Lê Quang L; chưa xác minh làm rõ những mâu thuẫn qua nội dung đối chất giữa các ông Lê Quang L, Trần Duy T, Trần Anh T1 và ông Nguyễn Văn Đ; chưa làm rõ hoàn cảnh, lý do Nguyễn Văn Đ phải thốt lên “lạy ông tui ở bụi này” với bà Nguyễn Thị L3; chưa xác minh làm rõ lý do đối tượng Phạm Thị L2 được tại ngoại và việc lưu trữ hồ sơ của bệnh viện Thiện Hạnh liên quan đến bệnh án của Phạm Thị L2; chưa xác minh các vấn đề liên quan đến việc giao tiếp, liên lạc giữa ông Lê Quang L với các Điều tra viên Phạm Ngọc H, Tạ Quang H với bị cáo Nguyễn Thị H trong quá trình tạm giam; chưa làm rõ việc bị cáo H tố giác là ông Vũ Ngọc B và ông Vũ Đức S có mối quan hệ cha con; Kiểm sát viên không vô tư trong khi làm nhiệm vụ; vật chứng quan trọng của vụ án là chiếc thẻ nhớ của bị cáo Nguyễn Thị H chưa được xem xét khách quan trong quá trình giải quyết vụ án.

[2.2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông N và bà L2 yêu cầu xem xét lại các nội dung nói trên nhưng không có chứng cứ nào mới nên kháng cáo của ông N và bà L2 yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định

Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của ông Triệu Đức N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị L2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2017/HS-ST ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

1. Áp dụng: điểm a khoản 3 Điều 139; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 8 (tám) năm tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tải sản”. Tổng hợp hình phạt chung của Bản án số 198/2013/HS-PT ngày 22/5/2013 và Bản án số 28/2013/HS-PT ngày 04/11/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải chấp hành hình phạt chung là 30 (ba mươi) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt của bị cáo tính từ ngày 23 tháng 3 năm 2012.

2. Áp dụng: Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 608 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải trả cho ông Triệu Đức N 166.500.000 đồng. Kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật, người bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Nguyễn Thị H không trả đủ các khoản tiền thuộc trách nhiệm của mình nêu trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

43-50

8

Bản án số:67/2022/HS-ST Ngày 08 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H tỉnh Bình Phước

Nội dung: Trần Thị L, sinh năm 1974, địa chỉ: Tổ 3, ấp Sóc Rul, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước biết bà Lê Thị L có con trai là Võ Thanh H bị Công an tỉnh Bình Phước bắt giam về hành vi “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” nên nảy sinh ý định lừa đảo bà L thông qua hình thức chạy án cho con bà Lđể chiếm đoạt tài sản. Ngày 20/5/2021, Trần Thị L đến nhà bà Lvà giới thiệu với bà Lcó chồng tên là H (Không xác định nhân thân) là Công an công tác tại Trại giam An Phước, H có thể lo tại ngoại và giảm án cho Hải. Sau đó, L đưa H đến nhà bà Lợi, L và H nói với bà L là có thể lo tại ngoại và giảm hình phạt của Hải khi xét xử, đồng thời H và L nói bà L bỏ ra 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) để chạy án, tạm thời bà L có bao nhiêu tiền thì đưa trước cho H, số tiền còn lại bà L trả dần. Khi nghe H và L nói vậy, bà L đồng ý rồi nói với Võ Thị H (Con ruột bà Lợi) giao tiền cho L tổng cộng là 13.000.000đ, cụ thể vào các ngày 20/5/2021, Hà đưa 5.000.000đ tiền mặt cho Lanh; Cùng ngày Hà tiếp tục chuyển số tiền 5.000.000đ, đến ngày 23/5/2021, Hà chuyển số tiền 3.000.000đ theo yêu cầu của H vào số tài khoản 0108797505 mang tên Trần Thị L của ngân hàng Đông Á. Sau khi nhận được tiền từ Hà, L đã đưa hết cho H (BL 19, 20; 53 – 54, 89 – 90; 58 – 59; 62 – 63). Ngoài ra, bà L còn chuyển cho H tổng số tiền là 4.000.000đ vào các ngày 30/5/2021, chuyển số tiền 1.000.000đ; ngày 21/5/2021, chuyển số tiền 2.000.000đ; ngày 01/6/2021, chuyển số tiền 1.000.000đ thông qua tài khoản số 6600112696007 mang tên Nguyễn Thị Thanh T, ngân hàng TMCP Quân Đội theo hướng dẫn của H (BL 16, 17, 18, 60 – 61). Khi Võ Thanh H bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 17 năm tù về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi bà L làm đơn tố cáo hành vi lừa đảo của L và H.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, Lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Về nội dung vụ án: Bị cáo Trần Thị L biết rõ con của bà Lê Thị L là Võ Thanh H sắp bị tòa án tỉnh Bình Phước xét xử về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, nên nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà Lê Thị L thông qua việc chạy án cho con bà Lê Thị L. Ngày 20/5/2022 bị cáo cùng H đến nhà bà L giới thiệu H là chồng mình là công an công tác tại Công an trại giam An Phước để lừa dối bằng cách hứa hẹn sẽ liên hệ với Cơ quan Công an để giảm án và xin tại ngoại cho Hải với số tiền 100.000.000đ, bà L tin tưởng nên đã đồng ý. Sau đó, bà L đã đưa cho L và H tổng cộng 17.000.000đ, nhận tiền xong bị cáo và H không thực hiện việc đã hứa với bà Lợi.

[3] Bị cáo là người đã thành niên, đủ năng lực hành vi dân sự, nhận thức rõ dùng thủ đoạn gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 17.000.000 đồng của bị hại là phạm tội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo về tội “ Lừa đảo chiểm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xem thường pháp luật, xâm phạm đến quyền tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Do đó cần có hình phạt nghiêm nhằm cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình, xã hội cũng như phong ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

– Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt nên cần áp dụng quy định tại điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét.

– Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Bình Phước đã xử lý đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiêm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 18.000.000 đồng, phía bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điều 38; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Thị L 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm ngày) để đảm bảo thi hành án.

51-54

9

Bản án số: 01/2020/HS-ST ngày: 08/01/2020 của Tòa án nhận dân tỉnh Hải Dương

Nội dung: Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2017 đến tháng 8/2018, Nguyễn Đỗ H lợi dụng danh nghĩa sỹ quan Công an, H đã đưa ra thông tin gian dối về việc mình có khả năng lo “chạy án” và xin được việc làm tại Bộ công an, Bệnh viện tâm thần Hải Dương để mọi người tin tưởng giao tiền, H đã chiếm đoạt sử dụng chi tiêu cá nhân như sau:

1. Hành vi chiếm đoạt số tiền 1.250.000.000 đồng của anh Nguyễn Đăng T, chị Nguyễn Thị C thông qua ông Nguyễn Văn T

Chị Nguyễn Thị C (là con gái ông Nguyễn Văn T) tốt nghiệp nhưng chưa có việc làm. Thông qua bà Lê Thị H1 (em vợ ông T) thì ông T nghe nói bà Nguyễn Thu H2 có khả năng xin việc vào ngành Công an. Sau đó ông T trao đổi với bà H2 để xin việc cho anh T thì bà H2 nói chi phí xin việc là 250 triệu đồng và yêu cầu ông T đặt cọc trước 100 triệu đồng, số tiền còn lại khi nào anh T có giấy báo đi làm thì thanh toán hết. Ngày 24/12/2016, ông T đã đến gặp bà Hồ Thị X (là bà ngoại của anh T) nhận số tiền 100 triệu đồng rồi mang đến giao cho bà H2 tại nhà ở của bà H2. Sau khi đã nhận của ông T tổng số tiền 700 triệu đồng để xin việc cho chị C và anh T, đến khoảng tháng 5/2017, bà H2 nói với ông T là không xin việc được cho anh T, nên giới thiệu ông T với em rể của bà H2 là Nguyễn Đỗ H. Ngay sau đó bà H2 trả lại ông T số tiền 100 triệu đồng, ông T đưa số tiền này cho H, sau đó H nhận tiền và viết giấy biên nhận. Ngày 10/5/2017, ông T đến nhà bà X nhận tiếp 150 triệu đồng, hôm sau ông T đến gặp H tại nhà và đưa cho H số tiền trên. H nói với ông T là bà H2 không xin được để H xin việc cho chị C với chi phí là 900 triệu đồng, với hứa .Tin tưởng H có khả năng xin việc cho chị C nên ông T đồng ý. Ông T đến gặp bà H2 lấy lại số tiền 600 triệu đồng rồi một mình đến đưa cho H tại nhà ở của H. Khoảng đầu tháng 6/2017, để củng cố niềm tin cho ông T nhằm chiếm đoạt thêm tiền, H đưa cho ông T 1 bộ hồ sơ. Trong thời gian đang nhờ H xin việc, ngày 29/5/2017 H nói cần tiền chi phí đi lại xin việc cho chị C, anh T và chi tiêu cá nhân nên có hỏi vay ông T số tiền 100 triệu đồng, cùng ngày ông T đến nhà bà X nói với bà X là chi phí xin việc mất thêm 50 triệu đồng nên bà X đã đưa thêm cho ông T 50 triệu đồng. Ngày 28/6/2017 ông T giao cho H 100 triệu đồng gồm 50 triệu đồng nhận của bà X cùng số tiền 50 triệu của ông T để cho H vay. Khoảng đầu tháng 11/2017, H thông báo với ông T chi phí để xin việc cho anh T vào Bệnh viện tâm thần Hải Dương là 400 triệu đồng chứ không phải 250 triệu đồng như thỏa thuận ban đầu, ông T đã nói lại với bà X thì bà X đồng ý và giao tiếp cho ông T 100 triệu đồng. Ngày 10/11/2017 ông T đã đến phòng làm việc của H giao số tiền 100 triệu đồng để xin việc cho T, số tiền 50 triệu đồng còn lại hai bên thỏa thuận khi nào T có quyết định đi làm thì ông T sẽ trả nốt cho H (trừ đi từ số tiền 100 triệu đồng đã cho H vay). Tổng cộng ông T đã đưa cho H số tiền 1 tỷ 250 triệu đồng để xin việc gồm: 900 triệu đồng để xin việc cho chị C và 350 triệu đồng để xin việc cho anh T. Sau khi giao tiền, ông T nhiều lần thúc giục H xin việc cho chị C và anh T nhưng H không thực hiện được theo như cam kết. Ngày 20/3/2018, vợ chồng H đến nhà ông T nói cho ông T biết là không xin được việc cho chị C và anh T, H viết 01 giấy nhận nợ với nội dung đã vay của ông T số tiền 1 tỷ 350 triệu đồng.

2. Hành vi chiếm đoạt số tiền 250.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1992, trú tại: thôn M, xã T, huyện C, tỉnh Hải Dương:

Chị Nguyễn Thị G có chồng là anh Bùi Xuân S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương khởi tố, bắt tạm giam về tội Cướp tài sản. Tháng 8/2018 khi biết Tòa án tỉnh Hải Dương có quyết định đưa vụ án ra xét xử, anh Nguyễn Đình P là người cùng xã với chị G gọi điện và nói với chị G về việc anh Vương Đức B trú cùng xã có mối quan hệ có thể“chạy án” cho anh S. Qua anh B, chị G biết Nguyễn Đỗ H có thể lo “chạy án” treo cho chồng chị nên chị G đã chủ động liên hệ và hẹn gặp H. H không có khả năng và thẩm quyền quyết định về mức án của anh S nhưng do không có tiền chi tiêu cá nhân và nợ nần nhiều nên khi được chị G đặt vấn đề lo “chạy án” cho anh S, H đã đồng ý và hẹn gặp chị G. Ngày 20/8/2018, tại quán cà phê ở địa chỉ: đường L, phường N, thành phố D, chị G cùng bác anh S là ông Bùi Xuân N, sinh năm 1963, trú tại: xã T, huyện C, tỉnh Hải Dương gặp H. Tại đây, H nói với chị G muốn chạy cho anh S được hưởng án treo phải chi phí 200 triệu đồng, chị G tin tưởng nên đồng ý. Ngày 23/8/2018 cũng tại quán cà phê trên chị G cùng ông N đã đưa trước cho H số tiền 100 triệu đồng. Do thiếu tiền chi tiêu nên ngày 24/8/2018 H gọi điện cho chị G và đưa ra lý do “Sếp” bảo phải chi phí hết 250 triệu đồng mới chạy được án treo nên ngày 27/8/2018 cũng tại quán cà phê trên, chị G và ông N giao cho H số tiền còn lại 150 triệu đồng, số tiền trên là của chị G nhưng ông N yêu cầu H viết giấy biên nhận vay nợ với ông N để làm tin. Sau khi nhận số tiền trên của chị G, H không thực hiện theo như lời hứa mà sử dụng số tiền trên vào việc chi tiêu cá nhân, H mới trả cho chị G số tiền 100 triệu đồng, còn 150 triệu đồng đến nay H chưa trả, chị G yêu cầu H phải hoàn trả chị số tiền trên và không đề nghị gì khác.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai báo, người bào chữa không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo về cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương.

Như vậy hành vi của bị cáo H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt trên 500.000.000đ nên VKS truy tố bị cáo theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS như là đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, HĐXX nhận thấy:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội nhiều lần và mỗi lần phạm tội đều cấu thành tội phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi có hành vi chiếm đoạt tài sản, H đã trả lại một phần số tiền chiếm đoạt cho bị hại; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thời điểm công tác trong ngành Công an bị cáo thành tích xuất sách được tặng thưởng Bằng khen, Huy chương Chiến sĩ vẻ vang. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s, v khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đã bị xuất ngũ khỏi ngành Công an, đình chỉ sinh hoạt Đảng, hiện không còn tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã trả cho ông T 470.000.000đ. Ông T hoàn trả 400.000.000đ cho bà X và ông K, bà X và ông K không yêu cầu bồi thường thêm khoản tiền nào khác nên HĐXX không xét. Ông T bị chiếm đoạt số tiền 850.000.000đ đã được hoàn trả 70.000.000đ, nay yêu cầu bồi thường 780.000.000đ. Số tiền 250.000.000đ của chị C do chị C và ông T tự thỏa thuận, HĐXX không xét. Đối với việc ông T cho H vay số tiền 100.000.000đ, ông T xác định là thỏa thuận dân sự nên nếu có yêu cầu thì được giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

Chị G bị chiếm đoạt 250.000.000đ, đã được hoàn trả 100.000.000đ, yêu cầu bồi thường 150.000.000đ. Yêu cầu của ông T, chị G là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 584, 585, 586, 589 BLDS nên cần chấp nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đỗ H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đỗ H 13 (Mƣời ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 20/9/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Đỗ H phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn T 780.000.000đ (Bảy trăm tám mươi triệu đồng); bồi thường cho chị Nguyễn Thị G 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng). Tổng số tiền bị cáo H phải bồi thường là 930.000.000đ (Chín trăm ba mươi triệu đồng).

55-64

LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 20 bản án tuyên phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do chạy án

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan