Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TUYÊN GIAO DỊCH VÔ HIỆU DO TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ VỚI BÊN THỨ BA

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TUYÊN GIAO DỊCH VÔ HIỆU DO TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ VỚI BÊN THỨ BA

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TUYÊN GIAO DỊCH VÔ HIỆU DO TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ VỚI BÊN THỨ BA” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TUYÊN GIAO DỊCH VÔ HIỆU DO TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ VỚI BÊN THỨ BA

STT

TÊN VĂN BẢN

SỐ TRANG

1.

Bản án số 47/2021/DS-PT ngày 08/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh LA

Về việc: “Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho tài sản là quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 21/8/2018 Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án ông Trần Văn Th khởi kiện ông Ngô Văn ChE về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Trong thời gian Tòa án thụ lý giải quyết, đến ngày 04/9/2018 ông Ngô Văn ChE và vợ bà Nguyễn Thị N lập hợp đồng tặng cho QSDD để tặng cho ông Ngô Nguyễn Hữu Tr đối với các thửa đất 143 và đã được Văn phòng công chứng chứng nhận. Ông ChE và bà N đã thực hiện hoàn tất thủ tục tặng cho QSDD cho ông Ngô Nguyễn Hữu Tr và ông Tr đã được cấp GCN QSDD. Ông Tr thế chấp vay vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện TT (số tiền 400.000.000 đồng. Ông Th yêu cầu: Hủy hợp đồng tặng cho QSDĐ được ký giữa ông Ngô Văn Chiếm Em, bà Nguyễn Thị N với ông Ngô Nguyễn Hữu Tr đối với các thửa đất 143, 120, 292.  Hủy GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho ông Ngô Nguyễn Hữu Tr để đảm bảo thi hành án cho ông Th.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Th.

Tuyên xử: Hợp đồng tặng cho QSDĐ (không có tài sản gắn liền với đất), ngày 04/9/2018 giữa ông Ngô Văn ChE, bà Nguyễn Thị N với anh Ngô Nguyễn Hữu Tr là vô hiệu.

GCN QSDD của ông Ngô Nguyễn Hữu Tr được Sở tài nguyên và môi trường tỉnh LA cấp gồm các thửa 143, 120, 292, các bên đương sự đến Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận QSD đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.

Ngày 02/10/2020, ông Ngô Nguyễn Hữu Tr kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do án sơ thẩm giải quyết là quá thiệt thòi quyền lợi của ông.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa ông Th với ông ChE được giải quyết và tại Bản án dân sự phúc thẩm số 30/2019/DS-PT ngày 20/02/2019 của TAND tỉnh LA xét xử buộc ông Ngô Văn ChE có nghĩa vụ trả ông Trần Văn Th số tiền gốc vay 475.000.000 đồng và tiền lãi 38.743.109 đồng. Ông ChE và bà N đã ý thức được rằng phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông Th nên đã cố ý chuyển dịch tài sản cho ông Tr nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án khi vụ án kết thúc và bản án có hiệu lực pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để tuyên bố Hợp đồng tặng cho QSDĐ giữa ông Ngô Văn ChE, bà Nguyễn Thị N với ông Ngô Nguyễn Hữu Tr vô hiệu do giả tạo trong giao dịch nhằm né tránh việc thực hiện nghĩa vụ với người thứ 3 theo quy định tại Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015 là đúng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào hợp đồng thế chấp QSD đất ngày 24/9/2018 thấy rằng Ngân hàng Agribank – Chi nhánh huyện TT đang nhận thế chấp phần đất nêu trên theo GCN QSD đất cấp cho ông Ngô Nguyễn Hữu Tr và các bên đương sự không có yêu cầu xem xét giải quyết giao dịch dân sự thế chấp nên nguyên đơn yêu cầu hủy GCN QSD đất là không cơ sở chấp nhận. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử “…các bên đương sự đến Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận QSD đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án” là không chính xác, chưa phù hợp với khoản 2 Điều 133 của Bộ luật dân sự năm 2015. Các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ án khác theo quy định của pháp luật nếu xét thấy ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Th. Vô hiệu Hợp đồng tặng cho QSDĐ (không có tài sản gắn liền với đất) giữa ông Ngô Văn ChE, bà Nguyễn Thị N với anh Ngô Nguyễn Hữu Tr đối với các thửa đất 143; thửa 120 và thửa 292.

– Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Th về việc hủy GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho ông Ngô Nguyễn Hữu Tr.

1-9

2.

Bản án số 05/2021/DS-PT ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình

Về việc: “Tranh chấp đòi quyền sở hữu tài sản”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Năm 2007, bà H1 là giám đốc Công ty vàng bạc đá quý TC và là Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng GPBank. Bà H1 trao đổi với bà Th về việc mua cổ phiếu của GPBank sẽ có lãi. Bà H1 hứa giúp bà Th vay tín chấp tại Công ty vàng bạc đá quý TC để mua cổ phiếu GP Bank. Bà Th đã thống nhất nhờ bà H1 mua hộ cổ phần GP Bank. Bà H sẽ mua hộ cho bà Th cổ phiếu Ngân hàng GP Bank với số lượng và giá cả tùy theo từng đợt. Cụ thể: Ngày 03/6/2007, bà H1 trao đổi với bà Th mua 400.000.000 cổ phiếu với số tiền 2.800.000.000 đồng. Bà H1 cho biết số cổ phiếu này là của ông Hà Văn D (ông D là em rể bà H1). Bà Th đưa cho bà H1 700.000.000 đồng tiền mặt và ký hợp đồng vay GP Bank chi nhánh Ninh Bình số tiền 2.100.000.000 đồng. Theo yêu cầu của bà H1, cán bộ GPBank chuyển 2.800.000.000 đồng vào tài khoản của ông D và đưa phiếu chuyển tiền cho bà Th; Ngày 18/10/2007, bà H1 trao đổi với bà Th mua 220.000.000 cổ phiếu số tiền là 880.000.000 đồng. Bà Th đã ký hợp đồng vay tại Công ty vàng bạc đá quý TC số tiền 880.000.000 đồng để trả cho bà H1; Ngày 27/12/2007, bà H1 trao đổi với bà Th mua 380.000.000 cổ phiếu với giá 380.000.000 đồng và mua 1.000.000.000 cổ phiếu với giá 2.000.000.000 đồng. Bà Th cũng ký hợp đồng để vay 2.380.000.000 đồng tại Công ty vàng bạc đá quý TC để trả cho bà H1. Tổng số tiền bà H1 đã nhận của bà Th là 6.060.000.000 đồng với thỏa thuận để mua cho bà Th 2.000.000.000 cổ phiếu GPBank và có trách nhiệm sang tên cổ phiếu cho bà Th.

Khi trao đổi việc mua bán cổ phiếu bà H1 nói với bà Th trong năm 2008 Ngân hàng GPBank có 2 đợt tăng vốn điều lệ, khi đó bà Th sẽ được mua cổ phần ưu đãi giá gốc theo tỷ lệ số cổ phần bà Th đang nắm giữ. Nhưng hết năm 2008, Ngân hàng GPBank không có đợt tăng vốn nào như bà H1 nói nên bà Th đã yêu cầu bà H1 nhận lại cổ phiếu và trả lại tiền cho bà Th. Bà H1 đồng ý nhận lại 1.000.000.000 cổ phiếu đã bán cho bà Th với giá 2.000.000.000 đồng. Bà H1 cho nhân viên làm thủ tục để bà Th trả nợ Công ty vàng bạc đá quý 2.000.000.000 đồng.

Nguyên đơn yêu cầu:

– Tuyên bố hợp đồng mua bán cổ phiếu không có thật giữa bà Th với bà Nguyễn Thị H1 và hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa ông Đinh Ngọc V ngày 03/11/2009 với bà Th là vô hiệu;

– Yêu cầu bà H1 trả lại cho bà Th số tiền gốc 4.060.000.000 đồng là số tiền bà Th chuyển cho bà H1 để bà H1 mua 1 tỷ cổ phiếu của GP Bank nhưng bà H1 không mua;

– Yêu cầu bà H1 trả cho bà Th số tiền lãi của số tiền 3.060.000.000 đồng bà Th phải trả lãi cho Ngân hàng và tiền lãi của số tiền 700.000.000 đồng theo lãi suất tiền vay Ngân hàng tương đương với thời gian bà Th chuyển tiền cho bà H1 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Đình chỉ hai yêu cầu khởi kiện về việc “tuyên bố hợp đồng mua bán cổ phiếu không có thật giữa bà Lê Thị Th và bà Nguyễn Thị H1 là vô hiệu và yêu cầu của bà Th đòi bà H1 trả 2 khoản tiền lãi 3.060.000.000đ và 700.000.000đ.

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Th, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà H1 và yêu cầu độc lập của ông V.

– Hủy hợp đồng chuyển nhượng 100.000 cổ phần GPBank ngày 02/11/2009 giữa ông V và bà Th tại Ngân hàng TMCP Dầu khí TC (nay là Ngân hàng TM TNHH một thành viên Dầu khí TC).

– Buộc bà H1 trả lại cho bà Th số tiền 4.060.000.000đ nhờ bà H1 mua hộ cổ phiếu GPBank đứng tên bà Th nhưng bà H1 không mua.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị H1 có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đinh Ngọc V kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm liên quan đến ông V.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh 19 chấp trong vụ án là “Tranh chấp quyền sở hữu đối với tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn đề nghị xác định lại quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng và đề nghị áp dụng thời hiệu để đình chỉ yêu cầu khởi kiện là không có cơ sở. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 3 Điều 87 Luật Doanh nghiệp năm 2005 cổ phần được coi là đã bán khi được thanh toán đầy đủ và những thông tin của người mua quy định tại khoản 2 Điều 86 Luật Doanh nghiệp năm 2005 được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng ký cổ đông.

Có đủ cơ sở khẳng định: Năm 2007, bà Th và bà H1 đã có thỏa thuận về việc mua bán cổ phiếu Ngân hàng GP Bank. Đến thời điểm viết giấy biên nhận bà H1 đã nhận của bà Th số tiền 4.060.000.000 đồng để mua 1.000.000.000 cổ phiếu theo thỏa thuận giữa bà H1 và bà Th.

Đủ cơ sở khẳng định giao dịch chuyển nhượng cổ phần GPBank từ ông V sang bà Th không thể hiện ý chí của bà Th và vi phạm quy định tại khoản 5 Điều 87 Luật Doanh nghiệp năm 2005 không có chữ ký của người mua. Giao dịch dân sự này là giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ của bà H1 nên giao dịch này vô hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005. Cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà H1 về việc “buộc bà Th phải thực hiện nghĩa vụ nhận đúng và đủ số lượng và chủng loại tài sản của bà là 100.000 cổ phần GP.Bank”; không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông V về việc “đề nghị Tòa án xác định 100.000 cổ phần GP-Bank đứng tên bà Th từ ngày 03/11/2009 là tài sản mà bà H1 đã giao cho bà Th để thực hiện nghĩa vụ giao tài sản phát sinh từ giao dịch giữa bà Th và bà H1” là có cơ sở.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Sửa một phần bản án sơ thẩm:

1.1. Đình chỉ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Th về việc: Tuyên bố hợp đồng mua bán cổ phiếu không có thật giữa bà Th với bà Nguyễn Thị H1 là vô hiệu; yêu cầu bà H1 trả cho bà Th số tiền lãi của số tiền 3.060.000.000 đồng bà Th phải trả lãi cho Ngân hàng và tiền lãi của số tiền 700.000.000 đồng theo lãi suất tiền vay Ngân hàng tương đương với thời gian bà Th chuyển tiền cho bà H1 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

1.2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Th. Buộc bà Nguyễn Thị H1 phải trả lại số tiền 4.060.000.000 đồng cho bà Lê Thị Th.

1.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị H1 về việc buộc bà Th phải thực hiện nghĩa vụ nhận đúng và đủ số lượng và chủng loại tài sản của bà là 100.000 cổ phần GP Bank và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đinh Ngọc V đề nghị Tòa án xác định 100.000 cổ phần GP Bank 15 đứng tên bà Th từ ngày 03/11/2009 là tài sản mà bà H1 đã giao cho bà Th để thực hiện nghĩa vụ giao tài sản phát sinh từ giao dịch giữa bà Th và bà H1.

10-24

3.

Bản án số 13/2021/DS-ST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau tỉnh Cà Mau

Về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Năm 2017, vợ chồng ông Dương Minh T có tham gia chơi hụi do bà Tạ Hồng L làm chủ. Khi phát sinh tranh chấp với bà L, vợ chồng ông T khởi kiện bà L và được TAND thành phố Cà Mau thụ lý giải quyết bằng bản án sơ thẩm ngày 30/10/2019 và bản án phúc thẩm ngày 11/02/2020 buộc bà L thanh toán cho vợ chồng ông số tiền nợ hụi là 380.243.500đ. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, vợ chồng ông làm đơn yêu cầu thi hành án thì được biết bà Tạ Hồng L đã làm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T’ bằng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 07/01/2019. Vợ chồng ông T cho rằng việc bà L ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà L và ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T’ nhằm tẩu tán tài sản và trốn tránh nghĩa vụ thi hành án đối với phần nợ của ông bà. Vợ chồng ông T yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà L với ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T’ ngày 07/01/2019.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thiết lập ngày 07/01/2019 giữa bà L với ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T’, được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận chỉnh lý sang tên vào ngày 19/7/2019 có nội dung và hình thức được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 3 Điều 188 Luật đất đai quy định về hiệu lực của hợp đồng “…Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp QSD đất, góp vốn bằng QSD đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”. Hợp đồng giữa bà L, ông Q, bà T’ có hiệu lực từ ngày 19/7/2019, trong khi ông T, bà Th đã khởi kiện bà L và được Tòa án thụ lý vào ngày 12/6/2019, điều này cho thấy bản thân bà L biết được việc khởi kiện tại Tòa án về nợ tiền hụi. Các bên thỏa thuận chuyển nhượng phần đất nhưng không thỏa thuận về tài sản trên đất, bởi nhà ở phải kèm theo đất, căn nhà xây dựng kiên cố bà L không thể tháo dỡ di dời đi nơi khác khi đã chuyển nhượng đất cho người khác, do đó khi thỏa thuận chuyển nhượng phải có sự đề cặp căn nhà trong hợp đồng. Vì vậy hợp đồng chưa thỏa mãn về nội dung. Giá chuyển nhượng và giá thực tế các bên giao dịch có sự chênh lệch khá cao, trong khi bà L biết được bản thân mình còn nợ người khác, điều này chứng minh rằng xác lập giao dịch dân sự là giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSD đất lập ngày 07/01/2019 giữa bà L với ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T’ vô hiệu.  Buộc bà L hoàn trả cho ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T’ số tiền 200.000.000đ. Các đương sự liên hệ cơ quan chuyên môn về quản lý đất đai để làm thủ tục đăng ký QSD đất theo quy định.

25-31

4.

Bản án số 207/2020/DS-PT ngày 18/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau

Về việc: “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho tài sản vô hiệu”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Trong năm 2018 và 2019, vợ chồng bà Phạm Thị T2 và ông Trần Hán T1 có cho vợ chồng ông Nguyễn Hoàng A và bà Nguyễn Thị Thảo U vay số tiền 1.050.000.000 đồng; do vợ chồng ông A và bà U không thanh toán đúng theo thỏa thuận nên vợ chồng ông T1 và bà T2 đã khởi kiện và được TAND huyện Cái Nước thụ lý vào ngày 05/9/2019. Đến ngày 22/10/2019, TAND huyện Cái Nước ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 174/2019/QĐST-DS công nhận sự thỏa thuận của các đương sự với nội dung ông A và bà U đồng ý trả cho vợ chồng bà T2 số tiền 1.050.000.000 đồng. Ngày 24/10/2019, ông T1 và bà T2 làm đơn yêu cầu gửi Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước để yêu cầu thi hành quyết định trên. Ngày 06/11/2019 Chi cục Thi hành án dân sự có Thông báo số 60/TBTHADS: phần đất, nhà ở và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa số 504 do ông Nguyễn Hoàng A đứng tên QSD đã tặng cho bà Nguyễn Hồng C2 vào ngày 20/9/2019 thông qua hợp đồng tặng cho được công chứng cùng ngày; do đó, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết hợp đồng tặng cho tài sản giữa ông A và bà C2. Vì vậy, ông T1 và bà T2 khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng tặng cho QSD đất giữa ông A và bà C2. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T2 yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho QSD đất giữa ông A và bà C2 vô hiệu.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hán T1 và bà Phạm Thị T2 đối với ông Nguyễn Hoàng A và bà Nguyễn Thị Thảo U. Tuyên bố đồng tặng cho QSD đất do ông Nguyễn Hoàng A và bà Nguyễn Hồng C2 xác lập vào ngày 20/9/2019 vô hiệu.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Tại thời điểm ông A xác lập hợp đồng tặng cho QSD đất cho bà C2, ông A và bà U đang nợ của ông T1 và bà T2 số tiền vay vào năm 2018, năm 2019 là 1.050.000.000 đồng chưa thanh toán; ông T1 và bà T2 đã khởi kiện ông A và bà U tại TAND huyện Cái Nước để yêu cầu buộc ông A và bà U trả nợ, được Tòa án thụ lý vụ án ngày 05/9/2019. Ngày 19/9/2019 bà U đem tiền trả cho Ngân hàng số tiền vốn lãi vay và rút Giấy chứng nhận QSD đất đã thế chấp ra. Ngày 20/9/2019 ông A lập hợp đồng tặng cho QSD đất đối với thửa số 504 do ông A đứng tên cho bà C2. Hợp đồng tặng cho QSD đất giữa ông A và bà C2 được xác lập ngày 20/9/2019, nhưng phần đất tặng cho theo hợp đồng vẫn không chuyển giao cho bà C2, bà C2 cũng chưa lập thủ tục đăng ký để chuyển tên QSD đất và cũng chưa chỉnh lý giấy chứng nhận QSD đất sang tên bà C2, nên hợp đồng tặng cho chưa phát sinh hiệu lực. Ông A bà U chỉ có duy nhất là phần đất mà ông A lập hợp đồng tặng cho bà C2, ngoài phần đất này ông A và bà U không còn phần đất nào khác. Trong khi ông A và bà U đang nợ của ông T1 và bà T2 số tiền 1.050.000.000 đồng không có tiền trả, nhưng không chuyển nhượng phần đất này cho người khác để lấy tiền trả nợ cho ông T1 và bà T2 mà ông A tặng cho phần đất này cho bà C2 là chị ruột của ông A. Tài sản của ông A và bà U để đảm bảo cho việc thi hành án là QSD đất đối với phần đất mà ông A đã lập hợp đồng tặng cho bà C2 ngày 20/9/2019. Như vậy, có cơ sở xác định việc ông A lập hợp đồng tặng cho QSD đất cho bà C2 ngày 20/9/2019 là giả tạo, nhằm mục đích chuyển dịch tài sản để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông T1 và bà T2.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hán T1 và bà Phạm Thị T2 đối với ông Nguyễn Hoàng A và bà Nguyễn Thị Thảo U. Tuyên bố đồng tặng cho QSD đất do ông Nguyễn Hoàng A và bà Nguyễn Hồng C2 xác lập vào ngày 20/9/2019 vô hiệu.

32-37

5.

Bản án số 335/2020/DS-PT ngày 15/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Về việc: “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 29/3/2019, bà Kim A có cho ông C vay số tiền 536.500.000 đồng. Đến hạn, ông C không trả nợ nên ngày 16/5/2019 bà Trần Thị Kim A khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản” với ông C  đến TAND huyện Tân Thạnh, yêu cầu ông C trả 536.500.000 đồng. Sau khi bà Kim A nộp đơn khởi kiện và đã được Tòa án thụ lý giải quyết vào ngày 16/5/2019, để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, ngày 30/5/2019 ông C và vợ là bà Ch đã ký hợp đồng tặng cho toàn bộ tài sản là QSDĐ cho con gái (bà Nguyễn Thị Tố Q, sinh năm 2000) các thửa đất số 44, thửa đất số 880, thửa đất số 45, thửa đất số 1810, thửa đất số 1811,  thửa đất số 999. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai đã cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính các thửa đất nêu trên cho chị Nguyễn Thị Tố Q vào ngày 31/5/2019. Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng mua bán tài sản giữa bà Kim A và ông C đã được cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm tuyên:“ Buộc ông C phải hoàn trả cho bà A số tiền 536.500.000 đồng”. Đến nay, ông C vẫn không trả tiền cho bà Kim A như nội dung bản án đã tuyên và làm hợp đồng tặng cho tài sản là QSDĐ cho con gái là chị Tố Q nên bà Kim A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên bố hợp đồng tặng cho QSD đất giữa ông C, bà Ch cho con gái là chị Tố Q vô hiệu và hủy phần chỉnh lý biến động tặng cho QSDĐ cho chị Nguyễn Thị Tố Q. Yêu cầu Tòa án tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm để đảm bảo thi hành án cho bà Kim A.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Kim A:

– Tuyên bố vô hiệu hợp đồng tặng cho QSDĐ giữa bên tặng cho là ông Nguyễn Văn Huy C và bà Nguyễn Thị Ch với với bên được tặng cho là chị Nguyễn Thị Tố Q;

– Hủy phần chỉnh lý biến động tặng cho QSDĐ giữa bên tặng cho ông Nguyễn Văn Huy C và bà Nguyễn Thị Ch với với bên được tặng cho chị Nguyễn Thị Tố Q tại cácGCN QSDĐ;

– Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm và Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm để đảm bảo thi hành án.

Ông Nguyễn Văn Huy C, bà Nguyễn Thị Ch, chị Nguyễn Thị Tố Q kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Ngày 16/5/2019, TAND huyện Tân Thạnh thụ lý vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và mua bán tài sản” giữa bà Kim A với ông C thì ngày 30/5/2019, ông C và bà Ch (vợ ông C) ký Hợp đồng tặng cho QSDĐ cho con gái là chị Nguyễn Thị Tố Q, sinh năm 2000 toàn bộ diện tích đất 19.874m2 mà ông C và bà Ch đứng tên trên các GCN QSDĐ. Tại thời điểm nhận tặng cho QSDĐ, chị Tố Q mới 19 tuổi, đang là sinh viên, không trực tiếp canh tác đất nông nghiệp nên không đủ điều kiện nhận tặng cho QSDĐ nông nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Luật đất đai năm 2013. Vì vậy, giao dịch dân sự được xác lập giữa ông C, bà Ch và chị Q là giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu theo quy định tại Điều 124 Bộ luật dân sự.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn Huy C, bà Nguyễn Thị Ch, chị Nguyễn Thị Tố Q. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

38-47

[XEM THÊM MỤC LỤC TẠI FILE PDF]

XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TUYÊN GIAO DỊCH VÔ HIỆU DO TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ VỚI BÊN THỨ BA

—————

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan