FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG GÓP VỐN, HỢP TÁC” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG GÓP VỐN, HỢP TÁC
STT |
BẢN ÁN |
TRANG |
1 | Bản án số: 05/2019/DS-PT Ngày 24-01-2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
V/v tranh chấp hợp đồng góp vốn Tóm tắt nội dung vụ án: Bà Đ và ông N là vợ chồng nhưng đã ly hôn vào ngày 23/9/2016. Sau khi ly hôn, bà Đ và ông N thỏa thuận góp vốn làm ăn chung mở cửa hàng và 2 xưởng sản xuất đồ gỗ. Việc thỏa thuận không lập thành văn bản chỉ thỏa thuận bằng lời nói, số vốn góp cũng không được ghi nhận bằng văn bản cụ thể mà mỗi người có bao nhiêu góp bấy nhiêu, bà Đ và ông N mỗi người góp gần 200.000.000 đồng rồi thuê đất trống cùng xây dựng xưởng, cửa hàng. Quá trình hợp tác làm ăn, do bất đồng quan đi nên hai bên không thể tiếp tục hợp tác. Ngày 23/6/2017, ông N viết giấy cam kết sẽ trả cho bà Đ 100.000.000 trong vòng 3 tháng. Sau khi không hợp tác làm ăn cùng ông N, bà Đ ra thuê đất phường T mở xưởng làm riêng; khi biết chuyện, ông N lại yêu cầu bà Đ được cùng làm và tạo điều kiện cho vợ chồng về đoàn tụ, chăm sóc con chung nên bà Đ đồng ý. Đến tháng 1/2018 thì bà Đ yêu cầu chấm dứt việc sống chung và làm ăn chung. Khi bà Đ đề nghị chấm dứt việc làm chung thì ông N yêu cầu bà phải chia đôi lợi nhuận thu được trong thời gian làm chung từ ngày 09/9/2017 đến ngày 31/01/2018, bà Đ đồng ý và có yêu cầu cấn trừ số tiền ông N còn nợ bà 100.000.000 đồng theo giấy cam kết ngày 23/6/2017 nhưng do bà Đ làm thất lạc giấy cam kết nên ông N không đồng ý; ông N yêu cầu bà Đ viết giấy cam kết chia cho ông N 50.000.000 đồng tiền lợi nhuận. Ngày 31/01/2018, bà Đ viết giấy cam kết thiếu lại ông N 50.000.000 đồng và hẹn đến ngày 30/8/2018 sẽ thanh toán hết cho ông N; đến ngày 15/4/2018, bà Đ thanh toán cho ông N 10.000.000 đồng. Sau đó bà Đ tìm thấy giấy cam kết ông N viết ngày 23/6/201. Bà Đ khởi kiện yêu cầu ông N phải trả cho bà Đ số tiền 100.000.000 đồng theo giấy cam kết ngày 23/6/2017. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Buộc ông Lê Hữu N phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị Định số tiền góp vốn 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). – Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Đ trả cho ông Lê Hữu Nho số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng). Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Giao dịch giữa hai bên đương sự xác lập sau ngày 01/01/2017 nên áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết, thỏa thuận “góp vốn hợp tác sản xuất kinh doanh”giữa bà Đ và ông N thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 504 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về “hợp đồng hợp tác”. Ông N và bà Đ cùng góp vốn đ “hợp tác” sản xuất kinh doanh và đã tự nguyện chấm dứt việc “hợp tác” bằng thỏa thuận tại “giấy cam kết ngày 23/6/2017”; Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “tranh chấp về hợp đồng góp vốn” là chưa chính xác. – Ông N thừa nhận nội dung như đã ghi trong giấy cam kết, thừa nhận trách nhiệm trả cho bà Đ số tiền 100.000.000 đồng với thời hạn cuối là ngày 23/9/2017; ông N xác định là đã trả cho bà Đ nhiều lần với số tiền 100.000.000 đồng nhưng không có gì chứng minh, bà Đ không thừa nhận. Do đó, bản án dân sự sơ thẩm xử buộc ông N trả cho bà Đ 100.000.000 đồng là có căn cứ; ông N kháng cáo nhưng không có chứng cứ gì đ chứng minh cho yêu cầu của mình n n không được chấp nhận. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Căn cứ khoản 1 Điều 148; khoản 2 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 504 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hóa XI quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. – Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông L Hữu N. – Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 72/2018/DS-ST ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương như sau: Xác định quan hệ pháp luật là “tranh chấp về hợp đồng hợp tác”. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ. Buộc ông Lê Hữu N phải trả cho bà Nguyễn Thị Đ số tiền là 100.000.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Đ trả cho ông Lê Hữu N số tiền 40.000.000 đồng. |
01 – 06 |
2 | Bản án số: 07/2019/DS-PT Ngày: 26- 04 -2019 Tòa án nhân dân dân tỉnh Hòa Bình
V/v: Tranh chấp hợp đồng góp vốn Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 5-7-2000 vợ chồng ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N và vợ chồng bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S ký biên bản góp vốn mua 03 thửa đất để làm trang trại, tổng diện tích 12.454m2 tại xóm G, xã C, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Hai bên thỏa thuận: Cùng nhau góp vốn (mỗi bên 50%) và cùng chịu trách nhiệm đóng góp mọi chi phí quản lý sử dụng và hưởng mọi quyền lợi trên ba thửa đất đã mua, lợi nhuận và rủi ro hai bên đều phải chịu. Trong các ngày 01-12-2001 và 16-12-2001, ông Phan Đăng T đã giao cho ông Trần Vinh S tổng số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu) đồng; trong đó: 60.000.000 đồng mua ½ trang trại , 10.000.000 đồng là tiền đầu tư cải tạo trang trại. Năm 2002 ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N đầu tư thêm khoảng 40.000.000 đồng đồng để đào mở rộng ao thả cá, xây dựng cổng sắt, tường phía trước, trồng cây ăn quả và thuê người trông coi trang trại. Cuối năm 2003 hai bên chưa thống nhất được việc thuê người quản lý trang trại nên bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S tạm dừng việc góp vốn. Các bên thỏa thuận mỗi bên ½ trang trại, diện tích đất của bên nào bên đó tự quản lý. Tháng 11-2010,ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N phát hiện bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S chuyển nhượng toàn bộ trang trại cho người khác với giá 2.400.000.000 đồng mà không thông báo hay bàn bạc với ông, bà. Sau đó ông T và bà Bích khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 131,133,146 Bộ luật dân sự năm 1995; khoản 1 Điều 3,Điều 32, 33, 34, 37 Nghị định 17/1999/ NĐ-CP ngày 29-3-1999 về thủ tục chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Căn cứ khoản 1 Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. – Biên bản góp vốn mua đất làm trang trại trồng trọt chăn nuôi gia súc ngày 05-7-2000 ký giữa bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S và ông Phan Đăng T bà Nguyễn Thị Bích N là vô hiệu. Buộc bà Nguyễn Thị Phương M và ông Trần Vinh S phải trả lại cho ông Phan Đăng T và bà Nguyễn Thị Bích N số tiền 70.000.000 đồng tiền góp vốn và 779.200.000 đồng thiệt hại do hợp đồng vô hiệu. Tổng cộng là 849.200.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N và bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S ký biên bản góp vốn vào thời điểm tháng 12 năm 2001, hai bên ký biên bản góp vốn hoàn toàn tự nguyện. Việc bà Nguyễn Thị Phương M cho rằng hai bên ký biên bản góp vốn vào tháng 7, 8 năm 2003 là không có cơ sở. Trường hợp bà Nguyễn Thị Phương M cho rằng ông Phan Đăng T đã lừa dối vợ chồng bà ký biên bản, thì bị đơn có quyền khởi kiện trong thời hạn một năm kể từ ngày biết quyền lợi của mình bị xâm hại theo Điều 141, Điều 142, Điều 145 Bộ luật dân sự năm 1995. Nhưng từ năm 2003- 2004 bà Nguyễn Thị Phương M , ông Trần Vinh S không thực hiện quyền khởi kiện của mình yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu theo luật định. – Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, ông Nguyễn Dũng S đại diện theo ủy quyền của bị đơn thừa nhận giá chuyển nhượng trang trại là 2.400.000.000 đồng như lời khai của người mua trang trại, tuy nhiên sau khi trừ chi phí môi giới thì bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S chỉ được nhận 1.800.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào kết quả định giá tài sản ngày 10-10-2018 xác định giá trị quyền sử dụng đất 12.454m2 và tài sản trên đất có giá trị 1.698.400.000 đồng làm căn cứ để giải quyết vụ án là đúng với quy định của pháp luật. – Lỗi làm cho biên bản góp vốn vô hiệu là do ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N và bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hai bên đều có lỗi ngang nhau là 14 đúng. Do biên bản góp vốn vô hiệu nên việc nguyên đơn yêu cầu được chia ½ trang trại, không đồng ý nhận bằng giá trị (tiền) là không có cơ sở pháp luật và không thể thực hiện được. – Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, Nghị định 17/1999/ NĐ-CP, tuyên xử: Biên bản góp vốn ngày 5-7-2000 giữa bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S và ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N vô hiệu; xác định lỗi của nguyên đơn, bị đơn và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Biên bản góp vốn mua đất làm trang trại trồng trọt chăn nuôi gia súc ngày 05-7-2000 đã ký giữa bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S và ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N là vô hiệu. – Buộc bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S phải hoàn trả cho ông Phan Đăng T và bà Nguyễn Thị Bích N số tiền 70.000.000 đồng tiền góp vốn ban đầu; 779.200.000đồng là thiệt hại do hợp đồng vô hiệu; tổng cộng 849.200.000 đồng. |
07 – 22 |
03 | Bản án số: 50/2019/DS-PT Ngày: 16-5- 2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.
V/v “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản; Hợp đồng hợp tác và Kiện đòi tài sản Tóm tắt nội dung vụ án: Tháng 12 năm 2016, anh Nguyễn Mạnh T đến nhà ông Võ Văn C nói có 3 lô cao su thanh lý anh T đã đặt cọc nhưng không có tiền mua và rủ ông C hùn hạp để cùng khai thác chia lợi nhuận thì ông C đồng ý. Ngày 30/12/2016, ông C làm giấy mua bán vườn cao su thanh lý với bà Trần Thị N3 và ông Nguyễn Văn T4 với số tiền là 500.000.000 đồng, số tiền này do ông C bỏ ra trả cho bà N3 và ông T4. Khai thác cây cao su thanh lý lô cao su này thu lợi nhuận được 72.300.000 đồng, chia mỗi người ½ được 36.150.000 đồng. Sau khi mua xong lô của bà N3 và ông T4 thì ông C và anh T tiếp tục mua lô cao su của bác sĩ T5 tại xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước. Lô này ông C bỏ ra 250.00.000 đồng, anh T bỏ ra 20.000.000 đồng. Sau khi bán thu lợi nhuận được 40.000.000 đồng, chia mỗi người ½ . ông C và anh T tiếp tục mua lô cao su thanh lý của bà Vương Thị B2 tại tổ 4, ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh Bình Phước với số tiền là 957.000.000 đồng, lô này ông C là người bỏ tiền ra và đã thanh toán đầy đủ cho bà B2. Tiếp đó, ông C và anh T thỏa thuận mua lô thanh lý cao su của bà Huỳnh Thị Phương N2 trúng thầu lô cao su thanh lý của Công ty cao su Phú Riềng tại lô 95 Long Hà, huyện B, tỉnh Bình Phước. Sau khi thỏa thuận thì ông C và anh T ký Hợp đồng kinh tế ngày 27/03/2017 hùn vốn với số tiền là 2.453.000.000 đồng, trong đó ông C góp 2.000.000.000 đồng, anh T góp 453.000.000 đồng. Trong lúc khai thác lô cao su 95 Long Hà thì anh T nói cần xe tải để chở củi nên ông C đồng ý mua xe. Khi mua bán, ông C có làm hợp đồng bằng giấy tay với ông T2 ngày 18/5/2017. Số tiền mua xe là tiền ông C lấy từ T đi bán gỗ cao su ngày 25/6/2017 và khi chốt công nợ ngày 27/6/2017. Nay ông C khởi kiện yêu cầu anh T trả lại cho ông C số tiền là 472.069.000 đồng, trong đó số tiền vay là 50.500.000 đồng, tiền bán cao su từ thanh lý là 421.569.000 đồng và ô tô tải biển số 60C – 026.83. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản, tranh chấp Hợp đồng hợp tác, tranh chấp Kiện đòi tài sản” của ông Võ Văn C, tuyên xử: Anh Nguyễn Mạnh T có nghĩa vụ trả cho ông Võ Văn C số tiền 472.069.0000 đồng. – Buộc anh Nguyễn Mạnh T trả lại cho ông Võ Văn C xe ô tô tải biển số 60C-026.83, số máy D8AY-P096337. Ông Võ Văn C có nghĩa vụ liên hệ cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục sang tên chủ sở hữu theo quy định pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Theo lời trình bày của chị N tại phiên tòa và quá trình giải quyết vụ án xác định ông C và anh T có quan hệ hùn hạp làm ăn, mục đích mua bán cao su thanh lý, chia lợi nhuận (BL212, 58). Cả ông C và anh T đều thừa nhận đã hùn hạp mua 04 lô cao su thanh lý của bà Trần Thị N3 và ông Nguyễn Văn T4, bác sĩ T5, bà Vương Thị B2 và bà Huỳnh Thị Phương N2. Hai bên có ký kết Hợp đồng kinh tế ngày 27/3/2017 để mua lô cao su thanh lý của bà Huỳnh Thị Phương N2 (BL14), còn 03 lô còn lại hai bên chỉ thỏa thuận bằng lời nói. Đây là tình tiết không phải chứng minh trong vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015. – anh T xác nhận còn nợ của ông C số tiền 472.069.000 đồng. Chị N và Luật sư cho rằng chữ ký, chữ viết trong các chứng cứ do ông C giao nộp không phải là của anh T, nhưng suốt quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, mặc dù đã được giải thích quyền, nghĩa vụ theo quy định và thông báo thực hiện quyền yêu cầu giám định, cũng như tại 7 phiên tòa phúc thẩm ngày 28/3/2019 , Hội đồng xét xử đã hỏi, nhưng phía bị đơn vẫn không yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết này theo quy định tại Điều 6, khoản 2 Điều 91, Điều 102 và Điều 103 BLTTDS năm 2015 (BL212, 214, 216, 217, BBPT ngày 28/3/2019). Hơn nữa, phía bị đơn và Luật sư cũng không cung cấp được chứng cứ, tài liệu nào khác để chứng minh. Do đó, có đủ căn cứ xác định anh T có vay và nợ ông C trong việc hùn vốn mua bán cao su thanh lý với tổng số tiền 472.069.000 đồng. – ời khai của ông T2 xác định ông C là người trực tiếp thỏa thuận mua bán chiếu xe nêu trên với ông T2, nhưng ông T2 lại nhận số tiền 125.000.000 đồng (nhận 02 lần) từ anh T và không biết nguồn gốc số tiền này. Tuy nhiên, đối chiếu với với chứng cứ, tài liệu do ông C cung cấp thể hiện, đều thể hiện số tiền 125.000.000 đồng mà ông C đã bỏ ra để mua xe, có anh T ký tên xác nhận. Vì vậy, có đủ căn cứ xác định ông C là người mua chiếc xe nêu trên của ông T2 với giá 125.000.000 đồng. Theo trình bày của phía bị đơn, chiếc xe nêu trên hiện nay anh T đang quản lý giấy tờ xe và chiếc xe, vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C, buộc anh T phải trả cho ông C số tiền 472.069.000 đồng và chiếc xe ô tô tải hiệu Hyundai biển số 60C-026.83 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Mạnh T về việc yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2018/DS-ST ngày 01 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước. – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản, Hợp đồng hợp tác và Kiện đòi tài sản” của nguyên đơn ông Võ Văn C. Buộc anh Nguyễn Mạnh T có nghĩa vụ trả cho ông Võ Văn C số tiền 472.069.000 đồng. |
23 – 31 |
04 | Bản án số: 119/2019/DS-PT Ngày: 31-10-2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.
V/v Tranh chấp hợp đồng góp vốn sản xuất và mua bán giống cao su Tóm tắt nội dung vụ án: Vào tháng 10 năm 2012, ông Lê Đình C, ông Nguyễn Công L, ông Trần Văn N cùng thỏa thuận thống nhất góp vốn để cùng đầu tư làm vườn trồng ươm giống cao su với số lượng lớn cung cấp bán giống cho Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển N có trụ sở tại 129 Bà Triệu, thành phố M, tỉnh Kon Tum do ông Lê Đức Th làm Giám đốc đại diện cho công ty này. Việc thỏa thuận không lập văn bản mà chỉ bàn bạc thỏa thuận miệng với nhau, sau này thì ông Lê Đình C, ông Nguyễn Công L, ông Trần Văn N mới tiến hành làm thỏa thuận góp vốn tại“Văn bản xác nhận thỏa thuận góp vốn – chia lãi 3/3” ký ngày 26/01/2016. ông C đưa cho ông N là 550.000.000đồng, ông L đưa 60.000.000đồng còn phần của ông N là 100.000.000đồng, tổng cộng là 710.000.000đồng. Trong việc góp vốn thì ông C, ông L và ông N đã thỏa thuận thống nhất đầu tư góp vốn tổng các chi phí đã bỏ ra, trong đó ngoài phần vốn góp ban đầu ông C, ông L 3 đã đưa cho ông N thì ông C cũng đã chi thêm là 81.600.000 đồng, ông L chi phí thêm 91.292.000 đồng. Trong 1 năm kinh doanh công ty N doanh thu được 2.693.011.000 đồng. Sau khi tính toán thì trừ các khoản chi phí mua sắm vật tư và những chi phí đầu tư do ông N đã chi ra thì ông N đang cất giữ 1.421.410.000đồng. ông C và ông L yêu cầu ông N phải trả lại cho họ, trong đó trả cho ông Lê Đình C số tiền 473.136.000 đồng, trả cho ông Nguyễn Công L số tiền 483.136.000 đồng tương ứng với lợi nhuận và tiền vốn góp ban đầu còn lại. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Đình C, ông Nguyễn Công L: Buộc ông Trần Văn N có trách nhiệm trả cho ông Lê Đình C số tiền 228.333.333đồng; Buộc ông Trần Văn N có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Công L số tiền 228.333.333đồng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – các bên trình bày có sự mâu thuẫn như đã nêu trên nhưng căn cứ nội dung“Văn bản xác nhận thỏa thuận góp vốn – chia lãi 3/3” lập ngày 26/01/2016. Mặc dù, ông N khẳng định chữ ký và chữ viết Trần Văn N phía dưới văn bản không phải là chữ của ông, nhưng theo Kết luận giám định số 09/2018/GĐ-PC4 ngày 06/02/2018 của Công an tỉnh Bình Phước kết luận chữ viết tên, ký tên “N, Trần Văn N” trong văn bản trên và các mẫu chữ ký tên của ông N là do một người ký ra. Bên cạnh đó, việc cung cấp cây giống cho Công ty N đã được thực hiện xong từ năm 2013 nhưng đến ngày 26/01/2016 các bên mới lập bản thỏa thuận trên, điều này phù hợp với trình bày của các nguyên đơn về việc các ông cho rằng do ông N không thực hiện đúng thỏa thuận thanh toán tiền gốc và phân chia lợi nhuận nên các ông yêu cầu viết bản cam kết để làm căn cứ. Bên cạnh đó, tại Biên bản hòa giải ở Ủy ban nhân dân xã I, ông N cũng thừa nhận có việc làm ăn chung. Vì vậy, có cơ sở khẳng định giữa ông N, ông C và ông L có thỏa thuận về việc góp vốn và phân chia lợi nhuận với nhau. – Các đương sự không thống nhất được với nhau số tiền từng bên góp, các nguyên đơn cũng không chứng minh được số tiền ông C đã góp 631.000.000đồng, ông L đã góp 151.000.000đồng như trình bày của mình. Căn cứ theo tài liệu chứng cứ thì xác định ông C có đóng góp cho ông N (thông qua bà D) tổng số tiền là 458.140.000đồng (không phải 451.140.000 đồng như cấp sơ thẩm đã nhầm lẫn). Đối với số tiền 60.000.000đồng mà ông L cho rằng ông đã góp cho ông N, mặc dù ông N không thừa nhận đây là tiền ông L góp và cho rằng đây là tiền ông chi trả cho ông L tiền công làm của hai cha con ông L nhưng lại trình bày mâu thuẫn về thời gian làm công và mức tiền chi trả cho cha con ông L (ông L và anh Hòa) đồng thời ông N cũng không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày về số tiền này là đúng nên có cơ sở xác định đây là số tiền ông L đã góp vốn làm ăn chung. – Do các bên không chứng minh được chi phí đầu tư cho việc ươm 300.000 cây cao su giống, để có cơ sở xác định chi phí này thông qua đó xác định được số vốn góp của từng bên, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện xác minh, lấy ý kiến tại ba đơn vị chức năng. Đồng thời, tại phiên tòa các nguyên đơn cho rằng vào ngày 08/01/2016, ông N đã tự tay liệt kê các khoản chi phí mà ông N đã chi trong quá trình ươm giống trên tờ giấy có kẻ ô ly với tổng số tiền là 1.542.584.000đồng; mặc dù ông N cho rằng bản liệt kê trên ông chưa ký xác nhận phía dưới do ông chưa kê xong nhưng ông đã thừa nhận toàn bộ những chi tiết kê với tổng số tiền kê 1.542.584.000đồng là do ông viết ra. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định tổng số tiền vốn góp mà các bên đã bỏ ra để đầu tư mua cây giống, trồng và chăm sóc là 2.060.724.00 đồng, trong đó ông C góp 458.140.000đồng, ông L góp 60.000.000đồng, ông N góp 1.542.584.000đồng. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn N. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2019/DS-ST ngày 29/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước. Áp dụng Điều 504; Điều 505 và Điều 507 của Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn ông Lê Đình C và ông Nguyễn Công L. – Buộc ông Trần Văn N phải có trách nhiệm trả cho ông Lê Đình C số tiền 24.689.002 đồng và trả cho ông Nguyễn Công L số tiền 15.256.752đồng. – Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của anh Nguyễn Công H do anh Hòa rút yêu cầu. XEM THÊM TẠI FILE PDF DƯỚI ĐÂY |
32 – 41 |
LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG GÓP VỐN, HỢP TÁC
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn