Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ  HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

STT

BẢN ÁN

TRANG

01 Bản án số: 160/2017/DS-PT Ngày: 12 – 9 – 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh

V/v “Tranh chấp hợp đồng gia công”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 18/8/2015 ông C có ký hợp đồng thi công xây nhà cho bà Võ Thị H tại ấp T, xã Th, huyện TB, tỉnh N với giá 650.000 đồng/1m2 ; diện tích xây dựng là 5,4m x 20m; thành tiền là 70.200.000 đồng. Trong đó yêu cầu xây nhà gồm có 04 phòng: 01 phòng khách, 02 phòng ngủ và 01 phòng bếp; tường ốp tường lên 1,6m, lót gạch nền, lăn bê, la phông, đặt đường dẫn điện và ống nước âm tường, làm tường; thời gia xây dựng là 03 tháng. Vật tư do anh Giang và chị H chịu, ông đã ứng tiền trong thời gia thi công, tổng cộng là 61.000.000 đồng, còn lại 9.200.000 đồng chưa thanh toán. Ngoài ra, bà H yêu cầu dán gạch thêm ngoài hợp đồng với diện tích 50m2 , giá nhân công dán gạch là 60.000 đồng/1m2, thành tiền là 3.000.000 đồng. Tổng cộng hai khoản là 12.200.000 đồng, yêu cầu vợ chồng bà H, ông Giang hoàn trả, không yêu cầu tính lãi.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ngụy Khắc C. Buộc bà Võ Thị H, ông Võ Thanh Giang có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho ông Ngụy Khắc C số tiền 7.900.000 đồng.

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngụy Khắc C đối với số tiền 4.300.000 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Cấp sơ thẩm chấp nhận giá ông C khai 20.000.000 đồng/1m2 là có căn cứ. Đối với tiền thuê làm điện sáng 300.000 đồng theo ông C thì ông đã làm điện nước đầy đủ theo hợp đồng nhưng do bà H không mua dây điện kéo từ cột điện vào nhà nên chưa sáng được, không phải do lỗi của ông C, tiền bà H thuê sửa nhà bị dột 700.000 đồng ông C đồng ý, cấp sơ thẩm đã tính nên không xem xét. Ở cấp sơ thẩm bà H khai đã đưa 63.000.000 đồng tiền công cho 4 ông C nhưng không cung cấp được đủ biên nhận, giấy tờ gì, ông C thừa nhận chỉ ứng của bà H 61.000.000 đồng tiền công nên cấp sơ thẩm chấp nhận số tiền bà H đã đưa cho ông C 61.000.000 đồng là có căn cứ. Bà H kháng cáo cho rằng đã ứng cho ông C 63.000.000 đồng nhưng không cung cấp được căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà H, giữ y án sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Võ Thị H. Giữ y án sơ thẩm bản án dân sự số 31/2017/DS-ST ngày 17/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Căn cứ vào các Điều 651 và 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ngụy Khắc C. Buộc bà Võ Thị H, ông Võ Thanh Giang có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho ông Ngụy Khắc C số tiền 7.900.000 đồng.

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngụy Khắc C đối với số tiền 4.300.000 đồng.

01- 04
02 Bản án số: 328/2018/DS-PT Ngày: 29/03/2018 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Vv “Tranh chấp hợp đồng gia công ”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 01/12/2015, ông H có thỏa thuận bằng miệng với ông Đ  nội dung thỏa thuận là Đ may cho H 2 quần tây và 1 quần kaki, vải mới, giá vải và tiền công may tổng cộng là 1.150.000 đồng, H có đưa trước cho bị đơn 300.000 đồng. Đến ngày 30/01/2016 ông Đ mới điện thoại nói đã may xong, Đ gọi điện thoại và hai bên thỏa thuận hẹn giao quần tại Bến xe miền Tây. Khi nhận quần, trong 3 quần Đ giao có 1 cái quần không đúng vải H đặt nhưng vì Đ thuyết phục chất lượng vải là như nhau nên nguyên đơn vẫn nhận. Sau đó về nhà thừa bà không vừa. Ngày 01/02/2016  H trực tiếp mang 03 quần đến Đ kiểm tra lại. Đ nói phải sau Tết nguyên đán mới kiểm tra được. Tuy nhiên, sau đó bị đơn không thực hiện. Khoảng tháng 4/2016 Đ có nhắn tin nói sẽ trả tiền lại cho H nhưng không thực hiện. Nay H khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại 1.150.000 đồng đã nhận và tiền lãi theo lãi vay theo quy định của nhà nước từ ngày 01/12/2015 đến nay. Đồng thời yêu cầu Đ đền bù số tiền 1.150.000 đồng do vi phạm hợp đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Anh Nguyễn Thanh H.

1.1 Trường hợp Anh Nguyễn Thanh H đồng ý nhận hai quần tây và một quần kaki theo Biên bản giao nhận chứng cứ ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp thì Ông Trần Ngọc D có nghĩa vụ thanh toán cho Anh Nguyễn Thanh H 345.000 đồng tiền giảm giá.

1.2 Trường hợp Anh Nguyễn Thanh H không đồng ý nhận hai quần tây và một quần kaki theo Biên bản giao nhận chứng cứ ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp thì Ông Trần Ngọc D có nghĩa vụ thanh toán cho Anh Nguyễn Thanh H số tiền 908.500  đồng. Ông Trần Ngọc D được quyền nhận hai quần tây và một quần kaki theo Biên bản giao nhận chứng cứ ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp ngay sau khi thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho Anh Nguyễn Thanh H.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Xét thấy trong quá trình thực hiện hợp đồng bên nguyên đơn trình bày phía bị đơn cung cấp sản phẩm không đúng yêu cầu kể cả về kích cỡ và chủng loại, sau đó hai bên thỏa thuận lại phía bị đơn sẽ sửa chữa lại nhưng bị đơn không thực hiện cam kết này. Sau đó bị đơn và nguyên đơn thỏa thuận chấm dứt hợp đồng, bị đơn sẽ hoàn lại cho nguyên đơn số tiền đã nhận nhưng bị đơn không thực hiện. Các chứng cứ trên thể hiện lỗi hoàn toàn thuộc về phía bị đơn trong việc thực hiện hợp đồng gia công (Ba cái quần tây), cấp sơ thẩm xác định nguyên đơn có một phần lỗi là thiếu cơ sở, các bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng này và bị đơn phải hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền 1.150.000 đồng đã nhận. Do 6 bị đơn không trả lại tiền theo thỏa thuận nên yêu cầu của bị đơn buộc bị đơn phải hoàn trả lại số tiền đã nhận là có cơ sở.

– Đối với kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải chịu phạt một khoản tiền bằng số tiền đã nhận và phải chịu lãi, xét thấy hai bên không thỏa thuận về vấn đề phạt và lãi do đó kháng cáo của nguyên đơn về vấn đề này là không có cơ sở chấp nhận.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 819/2017/DS-ST ngày 28/12/2017 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn- ông Nguyễn Thanh H. Ông Trần Ngọc Dũng có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông Nguyễn Thanh H số tiền 1.150.000 đ. Bác yêu cầu của nguyên đơn- ông Nguyễn Thanh H về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng 1.150.000 đồng và yêu cầu tính lãi đối với khoản tiền phải thanh toán

05 – 11
03 Bản án số: 42/2021/DS-PT Ngày: 05/4/2021 Tòa án nhân dân tỉnh An Giang

V/v “Tranh chấp hợp đồng gia công, bồi thường thiệt hại”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 13/11/2019, Công ty D đã ký hợp đồng thi công lắp đặt 05 phòng karaoke với bà N, theo đó phía Công ty sẽ lắp đặt 05 phòng karaoke với tổng giá trị là 535.000.000 đồng, khi ký hợp đồng Công ty D đã tạm ứng 100.000.000 đồng, số tiền còn lại là 435.000.000 đồng thì chia làm 02 đợt thanh toán: + Đợt 1: thanh toán số tiền 385.000.000 đồng vào ngày 30/11/2019 khi hoàn thiện thi công; + Đợt 2: thanh toán số tiền 50.000.000 đồng vào ngày 30/01/2020 khi hoàn thành nghĩa vụ bảo hành 02 tháng. Tính đến ngày 09/3/2020, bà N chỉ mới thanh toán được số tiền 350.000.000 đồng, còn nợ lại 185.000.000 đồng, phía Công ty D đã hoàn tất nghĩa vụ, bàn giao công trình và hết thời gian bảo hành. Ngày 20/6/2020, bà N điện thoại báo có 01 phòng karaoke bị lỗi do đã hết thời gian bảo hành nên Công ty D sẽ cử thợ sửa chữa nhưng bà N phải chịu chi phí, bà N đồng ý nên ngày 23/6/2020 phía Công ty D cử thợ đến tiến hành sửa chữa, tổng chi phí là 2.150.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty D. Buộc bà Nguyễn Thị N có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền 198.850.000 đồng.

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị N. Buộc Công ty D có nghĩa vụ trả cho bà N số tiền 144.000.000 đồng.

– Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị N về số tiền 42.800.000 đồng phạt vi phạm hợp đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Phía Công ty cho rằng việc bàn giao công trình trễ hạn so với thỏa thuận trong hợp đồng là do phía bà N yêu cầu là có cơ sở chấp nhận. Như vậy, phía Công ty hoàn toàn không có lỗi trong việc bàn giao công trình chậm. Cấp sơ thẩm nhận định Công ty không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc thỏa thuận lại thời gian bàn giao, cũng như bà N không thừa nhận, để từ đó chấp nhận yêu cầu phản tố của bà N, buộc Công ty phải trả cho bà N 144.000.000đ là chưa xem xét toàn diện chứng cứ của vụ án. Do đó, kháng cáo của Công ty là có căn cứ nên được chấp nhận. Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà N, không buộc Công ty phải trả cho bà N 144.000.000đ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty D. Buộc bà Nguyễn Thị N có nghĩa vụ trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ D số tiền 198.850.000 đồng.

– Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị N về việc yêu cầu Công ty D phải trả số tiền 144.000.000 đồng và việc yêu cầu Công ty D phải trả số tiền 42.800.000 đồng phạt vi phạm hợp đồng.

12 – 18
04 Bản án số: 148/2021/DS-PT Ngày 27-10-2021 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương

V/v tranh chấp hợp đồng gia công

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 07/3/2019, bà L và bà T ký kết hợp đồng gia công hàng hóa, bà T nhận 30kg đá màu và đặt c c 24.000.000 đồng, thời gian giao hàng thành phẩm từ 10 ngày đến 14 ngày, tiền công 4.500.000 đồng. Bà T giao hàng thành phẩm cho bà L vào ngày 09/3/2019. Bà L trực tiếp nhận hàng, kiểm tra hàng và bà L đ trả cho bà T số tiền đặt c c 4.500.000 đồng. Ngày 11/3/2019, bà T đặt cọc tiếp số tiền 44.000.000 đồng và nhận 55kg đá màu về gia công, ngày 13/3/2019 bà T đ giao hàng thành phẩm cho bà L nhưng bà L chưa thanh toán tiền công 9.900.000 đồng và tiền cọc cho bà T. Ngày 19/3/2019, bà T đặt c c tiếp số tiền 56.000.000 đồng và nhận 70kg đá màu về gia công. Ngày 21/3/2019, bà T đ giao hàng thành phẩm lại cho bà L, tiền công là 12.600.000 đồng nhưng bà L chưa thanh toán tiền cọc và tiền công lại cho bà T mà hẹn ngày khác sẽ thanh toán. Ngày 23/3/2019, bà L trả thêm cho bà T số tiền đặt cọc 11.000.000 đồng. Tổng cộng bà L đã nhận tiền cọc  của bà T là 124.000.000 đồng, bà L trả lại được số tiền 15.500.000 đồng. Nay bà L chưa thanh toán tiền đặt cọc 108.500.000 đồng. Do đó bà T khởi kiện yêu cầu bà L phải trả số tiền đặt cọc 108.500.000 đồng, bà T không yêu cầu bà L trả số tiền công.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ngu ên đơn bà Phan Thị T đối với bị đơn bà Nguyễn Khánh L về việc “Tranh chấp hợp đồng gia công”. Buộc bà Nguyễn Khánh L có trách nhiệm trả lại cho bà Phan Thị T số tiền nhận cọc 108.500.000 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Theo nội dung hợp đồng ngày 07/3/2019, ngày 11/3/2019, ngày 19/3/2019 và sự thừa nhận của các đương sự thì bà T nhận gia công hàng h a và đ hoàn thành sản phẩm giao cho bà L nhưng bà L chưa thanh toán tiền công và chưa trả lại tiền đặt c c cho bà T là bà L đ vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng. Tuy nhiên bà T không yêu cầu bà L trả tiền gia công mà chỉ yêu cầu trả lại tiền đặt c c. Xét thấy, sự tự nguyện của bà T nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết thanh toán tiền công là phù hợp.

– Lời khai của bà L thừa nhận còn giữ số tiền c c 108.500.000 đồng của bà T thì phải có trách nhiệm trả cho bà T, việc bà L cho rằng bà B chưa trả cho bà L thì bà L có quyền yều cầu bà B trả lại. Bởi vì hợp đồng gia công ký kết giữa bà T và bà L chứ không có ký kết giữa ba bên. Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm xử buộc bà L phải trả cho bà T số tiền đặt c c 108.500.000 đồng là c căn cứ.

– Bà L và chủ xưởng gia công Hoàng L1 không có ký kết với nhau hợp đồng gia công mà chỉ có bà B lập hợp đồng gia công với xưởng gia công Hoàng L1. Bà B xác định không giao dịch với bà T. Ngoài ra, chứng cứ các đương sự cung cấp không liên quan đến xưởng gia công Hoàng L1. Do đ , Tòa án cấp sơ thẩm không đưa người đại diện hợp pháp của xưởng gia công Hoàng L1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ 6 án là phù hợp. Trường hợp phát sinh tranh chấp giữa bà L, bà B và xưởng gia công Hoàng L1 sẽ được xem xét giải quyết trong vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Nguyễn Khánh L

– Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2021/DS-ST ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương như sau: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ngu ên đơn bà Phan Thị T đối với bị đơn bà Nguyễn Khánh L về việc “Tranh chấp hợp đồng gia công”. Buộc bà Nguyễn Khánh L có trách nhiệm trả lại cho bà Phan Thị T số tiền nhận cọc là 108.500.000 đồng.

19 – 25
05 Bản án số: 18/2021/KDTM-PT Ngày: 03-11-2021 Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh

V/v tranh chấp hợp đồng gia công

Tóm tắt nội dung vụ án:

Từ tháng 4/2013 đến ngày 24/6/2014 Doanh nghiệp D có gia công hạt điều cho Công ty TNHH L do Chị Trần Thị Đoan T1 làm giám đốc. Hai bên thỏa thuận miệng về việc gia công hạt điều cụ thể như sau:

Hình thức giao nhận hàng: Phía Công ty TNHH L có trách nhiệm chở hạt điều, giao hàng và nhận hàng cho DNTN D tại địa điểm gia công là Trại Giam C – Phân trại 3.

Phương thức thanh toán tiền: Hàng loại C thì Công ty TNHH L trả 9.000đồng/kg hàng gia công hoàn tất, hàng loại B là 7.000đồng/kg, Công ty phải thanh toán cho Doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày chốt sổ. Phía Doanh nhiệp và Công ty có thỏa thuận miệng, Doanh Nghiệp có trách nhiệm xuất hóa đơn dưới 20.000.000 đồng/hóa đơn cho Công ty bắt đầu từ tháng 02/2014 cho đến khi kết thúc hợp đồng.

Quá trình hợp tác Công ty đã thanh toán tiền gia công cho Doanh nghiệp đến tháng 4/2014. Đối với tiền gia công tháng 5 và tháng 6/2014 thì Công ty chưa thanh toán.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng gia công của Chị Nguyễn Thị T đối với Công ty TNHH L.

– Buộc Công ty TNHH L có nghĩa vụ trả cho Chị Nguyễn Thị T và Chị Phạm Thị D tổng số tiền 419.230.500 đồng, bao gồm: 295.032.000 đồng tiền gốc và 124.198.500 đồng tiền lãi. Khấu trừ số tiền gốc đã nhận 126.175.000 đồng, Công ty TNHH L có nghĩa vụ trả cho Chị Nguyễn Thị T và Chị Phạm Thị D số tiền còn lại là 293.055.500  đồng.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH L yêu cầu Chị Nguyễn Thị T và Chị Phạm Thị D.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Phía bị đơn không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì cho rằng đã thanh toán xong tiền gia công tháng 5/2014 cho nguyên đơn thông qua 02 phiếu chi ngày 13/5 và ngày 28/5/2014 và số tiền 8 53.134.000 đồng trả vào ngày 09/6/2014. Đối với tiền gia công của tháng 6/2014 thì bị đơn đã thanh toán được số tiền 122.700.000 đồng thể hiện qua phiếu chi ngày 04/6/2014 với số tiền 45.000.000 đồng và số tiền 77.700.000 đồng trả vào ngày 21/9/2014, chỉ còn nợ lại 50.033.200 đồng, nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc 295.032.000 đồng.

– Phía bị đơn trình bày đối với tiền gia công của tháng 5/2014 Công ty còn nợ lại Doanh nghiệp 53.134.000 đồng đến ngày 09/6/2014 mới thanh toán xong. Nhưng trước đó (ngày 04/6/2014) Công ty lại tạm ứng cho Doanh nghiệp tiền gia công của tháng 6/2014 với số tiền 45.000.000 đồng, trong khi chưa trả hết tiền gia công của tháng 5 là không phù hợp. Do đó lời trình bày của phía bị đơn cho rằng 02 phiếu chi ngày 13/5 và 28/5/2014 là tiền tạm ứng của tháng 5/2014 và số tiền 45.000.000 đồng theo phiếu chi ngày 04/6/2014 là tiền tạm ứng gia công tháng 6/2014 cho Doanh nghiệp là không có căn cứ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng gia công của Chị Nguyễn Thị T đối với Công ty TNHH L. Buộc Công ty TNHH L có nghĩa vụ trả cho Chị Nguyễn Thị T và Chị Phạm Thị D tổng số tiền 419.230.500 đồng, bao gồm: 295.032.000 đồng tiền gốc và 124.198.500 đồng tiền lãi. Khấu trừ số tiền gốc đã nhận 126.175.000 đồng, Công ty TNHH L có nghĩa vụ trả cho Chị Nguyễn Thị T và Chị Phạm Thị 11 D số tiền còn lại là 293.055.500 đồng.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty TNHH L yêu cầu Chị Nguyễn Thị T và Chị Phạm Thị D thanh toán các khoản gồm: số hàng bị mất trị giá 206.940.000 đồng và tiền lãi 135.519.000 đồng, tổng cộng 342.459.000 đồng; số tiền thuế tăng thu nhập là 27.939.802 đồng

… Xem bản đầy đủ tại file PDF

26 – 37

LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan