Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

STT NỘI DUNG TRANG
Bản án số 01/2020/DS-PT ngày 06 tháng 01 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An

Về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp và tài sản trên đất; yêu cầu huỷ quyết định cá biệt

Nội dung vụ việc:

Ngày 02/9/1993 UBND xã Q giao rừng thông và đất trống tại tiểu khu 344C đồi Đ thôn 13, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An cho các hộ dân như sau:

– Văn bản 1:Giao 3,05 ha đất trống cho các ông Lê Đức T, Hồ Sỹ H và Lê Văn C.  Sau  này  đo  thực  tế  được  5,8  ha  (ranh  giới  không  thay  đổi)  và  các  ông  đã  chia nhau,  ông  T  0,8  ha,  ông  C  (vợ  là  bà  V)  2,4  ha,  ông  H  2,6  ha.  Phần  đất  này  ngày 21/02/2006,  UBND  huyện  đã  được  cấp  giấy  CNQSDĐ  cho  3  gia  đình  nêu  trên quản lý sử dụng đến nay không có tranh chấp.

– Văn bản 2: Khi  giao  đất  không  rõ  diện  tích  bao  nhiêu,  sau  này  đo  thực  tế được  23,1  ha  (gồm  7,5  ha thông nhựa và 15,6  ha  đất  trống) tại  tiểu  khu  344C  đồi động cao thôn 13, xã Q ( đất giao ở văn bản 2 giáp ranh với đất giao ở văn bản 1) cho 9 hộ dân , xác lập 7 phần bằng nhau do ông Lê Đức T làm tổ trưởng gồm: Lê Đức T, Lê Văn C, Đậu Đức Q, Hồ Sỹ H, Nguyễn Huy Đ mỗi người một phần; ông Hồ  Sỹ  L  và  ông  Lê  Đức  H  một  phần,  ông  Hồ  Trọng  B  và  ông  Hồ  Trọng  T  một phần. Sau 3 tháng giao đất các ông L, H, B, T từ bỏ không tham gia. Từ đó đến nay các  ông  không  liên  quan  gì  đến  đất  rừng  nữa.  Năm  1995  ông  Hồ  Sỹ  P  và  ông  Lê Đức A xin tham gia vào tổ trồng cây, hưởng cây trồng trên phần đất của các ông B, T, H, L đã rút khỏi tổ, còn đất thì chưa ai tặng cho, chuyển nhượng cho ông A và ông P.

Theo đó, năm 2001, ông Lê Đức T có bán phần đất rừng của ông theo văn bản 2 cho ông Lê Đức A. Mọi người trong văn bản 2 thống nhất cho ông Lê Đức A đại diện dứng tên trong giấy CNQSD đất nói trên.

Năm 2011, ông A lấn đất của ông H, bà V (đất  văn  bản  1)  tại  đỉnh phân thủy, khi giải quyết ông A ký văn bản vai trò tổ trưởng. Tháng 3/2013 ông Lê Đức A tự động khai thác bán cây bạch đàn, tràm trồng năm  2002,  cây  tái  sinh  năm  2006,  số  lượng  hơn  7000  cây,  trị  giá  hơn  370  triệu đồng. ông A cũng tự động khai thác bán 3386 cây thông  nhà nước giao tổ quản lý chăm sóc, khai thác 735 cây thông tự mọc do tổ quản lý thu lợi hơn 300 triệu đồng.

Ngày  30/8/2013,  tổ  làm  đơn  đến  UBND  xã  Q  đề  nghị  giải  quyết.  Ngày 10/9/2013 tại hòa giải lần thứ 1, ông A cho rằng đất và tài sản trên đất là của ông A.  Ngày  9/10/2013  tại  hòa  giải  lần  thứ  2,  ông  A  thừa  nhận  tài  sản  trên  đất  là  của chung còn đất là của ông A.

Do đó, đồng nguyên đơn ông Hồ Sỹ H, ông Nguyễn Huy Đ, anh Đậu Đức N, bà Nguyễn Thị V khởi kiện yêu cầu:

–  Yêu cầu hủy một phần quyết định hành chính số 162/QĐ.UB ngày 21/2/2006 của UBND huyện Q và hủy giấy CNQSD đất số AD 829729 số thửa 171430110 tờ bản đồ số 1 diện tích 8,0 ha và giấy CNQSD đất số AD 829728 số thửa 171430124 tờ bản đồ số 1 diện tích 15,1 ha tại đồi Đ Thôn 13, xã Q mang tên Lê Đức A và Hồ Thị C vì không đúng đối tượng sử dụng đất.

– Buộc ông Lê Đức A và bà Hồ Thị C phải trả lại diện tích đất rừng, đo đạc thực tế hiện nay là 21,7 ha, đã cấp giấy CNQSD đất nêu trên cho cả tổ sử dụng.

– Buộc  ông  Lê  Đức  A  hoàn  trả  tiền  khai  thác  cây  bán  cho  tổ.

– Đối  với  tiền  nộp  phạt  50.000.000đ  do  khai  thác  thông  trái  phép  do  ông  A  tự làm ông phải tự  chịu. Đề nghị Tòa khởi tố ông A tội khai thác trái phép cây rừng,  xâm phạm sở hữu.

Bị đơn không đồng ý việc các nguyên đơn đòi lại đất rừng, không đồng ý việc nguyên đơn đòi chia giá trị cây trên đất, chỉ đồng ý trả số tiền thực tế bán cây với giá trị là 87.000.000 đồng.

Toà án cấp sơ tuyên

Hủy  hồ  sơ  giao  đất  lâm  nghiệp  số  1263,  quyết  định  số  280/QĐ.UB  ngày 07/7/1995 của UBND huyện Q mang tên Lê Đức T.

Hủy một phần quyết định hành chính số 162/QĐ-UBND ngày 21/2/2006 của UBND huyện Q về phần cấp giấy CNQSD đất số AD 829728 và giấy giấy CNQSD đất số AD 829729 tại địa chỉ thửa đất: Động cao, xã Q, huyện Q đều mang tên Lê Đức A và Hồ Thị C.

Hủy  giấy  CNQSD  đất  số  AD  829728  tại  thửa  đất  số:  17143.01.24  thuộc  tờ bản đồ số 1, diện tích 150.443 m2, và hủy giấy CNQSD đất số AD 829729 tại thửa đất  số:  17143.01.10  thuộc  tờ  bản  đồ  số  1  diện  tích  79.929  m2.  Địa  chỉ  thửa  đất: Động cao, xã Q, huyện Q đều mang tên Lê Đức A và Hồ Thị C.

Buộc ông  Lê  Đức A  và  bà  Hồ  Thị  C phải  trả  lại diện tích 20,6 ha đất  rừng (Trên diện tích đất rừng có 1,3 ha cây Bạch Đàn chưa khai thác và 6,5 ha cây thông nhựa) cho tổ sử dụng gồm: Ông Hồ Sỹ H, ông Đậu Đức Q, ông Nguyễn Huy Đ, bà Nguyễn Thị V, anh Lê Đức Đ và ông Lê Đức A.

Buộc ông Lê Đức A phải thực hiện nghĩa vụ trả cho các thành viên trong tổ số tiền cây Bạch Đàn do ông A tự khai thác đã bán theo kỹ phần.

Bác một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về phần yêu cầu buộc ông Lê Đức A trả lại tiền cây thông đã bán.

Bác  yêu  cầu  của  ông  Hồ  Sỹ  H  yêu  cầu  Hội  đồng  xét  xử  để  lại  số  tiền 46.000.000 đồng để ông H khởi kiện ông Lê Đức A bằng một vụ kiện khác.

Bác  yêu  cầu  đề  nghị  được  chia  đất  rừng  và  hưởng  công  chăm  sóc  bảo  vệ rừng Thông của các ông Lê Đức H, Hồ Sỹ L, Hồ Trọng B và Hồ Thị T1.

Sau xét xử sơ thẩm có kháng cáo của các nguyên đơn và bị đơn. Viện kiểm sát nhân  dân  tỉnh  N  kháng  nghị.  Bản  án  số  21/2016/  DS-PT    ngày  28/4/2016  TAND tỉnh N, hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.

Với nội dung trên, Bản án số 05/2019/DSST ngày 03/7/2019 Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N đã quyết định:

1. Hủy Quyết định giao đất Lâm nghiệp số 280/QĐ-UB ngày 07/7/1995 của Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh N mang tên ông Lê Đức T.

–  Hủy  một  phần  Quyết  định  hành  chính  số  162/QĐ-UBND  ngày  21/02/2006  của  UBND  huyện  Q  về  phần  cấp  giấy  chứng  nhận  quyền  sử  dụng  đất  số  AD 829728 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 829729 tại địa chỉ  thửa đất: Động cao, xã Q, huyện Q ,tỉnh N mang tên Lê Đức A và Hồ Thị C.

–  Hủy  giấy  chứng  nhận  quyền  sử  dụng  đất  số  AD  829728,  tại  thửa  đất  số 17143.01.24  thuộc  tờ  bản  đồ  số  1,  diện  tích    150.443  m2  và  hủy  giấy  chứng  nhận quyền sử dụng đất số AD 829729 tại thửa đất số: 17143.01.10 thuộc tờ bản đồ số 1diện tích 79.929 m2.  Địa chỉ thửa đất: Động cao, xã Q, huyện Q, tỉnh N  mang tên Lê Đức A và Hồ Thị C.

2.  Buộc ông Lê Đức A và bà Hồ Thị C phải trả lại diện tích 21,7 ha đất rừng (trên  đất  có  6,5  ha  cây  thông  nhựa,  có  cây  tràm,  bạch  đàn)  cho  tổ  sử  dụng.

3. Buộc ông Lê Đức A phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền còn thiếu cho các thành viên trong tổ số tiền bán cây bạch đàn, cây tràm, cây thông theo kỷ phần.

–  Ngày  10  tháng  7 năm  2019  Ông  Lê  Đức  A  là  bị đơn  trong vụ  án và bà  Hồ Thị  C  là  người  có  quyền  lợi  nghĩa  vụ  liên  quan  đến  vụ  án,  với  nội  dung:  Không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn, những người có quyền lợi nghĩa vụ  liên  quan  đến  vụ  án  về  phía  nguyên  đơn  và  cho  rằng  bản  án  sơ  thẩm  vi  phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung vụ án làm thiệt hại trầm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bị đơn.

Ngày  16/7/2019  ông  Lê  Đức  A  kháng  cáo  bổ  sung  với  nội  dung:  Bản  án  sơ thẩm xét xử không có căn cứ, sai phạm pháp luật, sai sự thật. Đề nghị xem lại hồ sơ, đơn khởi kiện ngày 15/10/2013 đã vi phạm các điều 204 luật đất đai; điều 165, điểm b khoản 1 điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị xem xét lại vụ án.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định

Đối  với  yêu  cầu  của  đồng  nguyên  đơn  buộc  ông  A  và  bà  C  trả  lại  diện tích  đất  tranh  chấp:  Quá  trình  giải  quyết  vụ  án  nguyên  đơn  và  Tòa  án  sơ  thẩm không thu thập được các tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ pháp luật nhưng bản án sơ thẩm nhận định thửa đất tranh là của tổ trồng rừng được giao theo Văn bản 2. Thực tế các đồng nguyên đơn không cung cấp được Văn bản 2, tại phiên tòa các nguyên đơn khai nhận chưa ai được đọc văn  bản  2  chỉ  nghe  nói  có  văn  bản  2. Xét thấy, giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T và ông A chưa bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố vô hiệu nên  đến  nay  vẫn  còn  hiệu  lực  pháp  lý.  Văn  bản  giao  dịch  thể  hiện  ông  T  chuyển nhượng 7,5 ha rừng thông và đất trống cho ông A, không thể hiện chuyển nhượng phần  đất  của  ông  T  trong  diện  tích  chung.  Tòa  án  cấp  sơ  thẩm  xác  định  diện  tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của tổ rừng và buộc bị đơn Lê Đức A phải trả lại  đất  cho  tổ  rừng  nhưng  không  làm  rõ  hiệu  lực  pháp  lý  của  giao  dịch  chuyển nhượng đất giữa ông T và ông A là không có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ các  lời  khai  của  người  làm  chứng,  các  nguyên  đơn  để xác định  tài  sản đang tranh chấp là của tổ trồng rừng là chưa đủ căn cứ pháp luật.

Đối với số tiền bán cây bạch đàn, cây tràm, cây thông đã trả tiền còn thiếu cho các thành viên trong tổ theo từng phần: Việc tranh chấp tài sản trên đất rừng nêu trên là tranh chấp số tiền đã bán cây của tổ trồng rừng. Đây là tài sản  mà các bên đương sự đã thừa  nhận,  trước  đây  tổ  trồng  rừng  đã  cùng  nhau  trồng  rừng  và  hưởng  quyền  lợi chia đều theo phần, suất và công sức đóng góp và không có tranh chấp gì xẩy ra từ khi trồng rừng đến năm 2013 mới xẩy ra tranh chấp.Do tranh chấp tài sản chưa có đủ tài liệu, chứng cứ về việc bị đơn tự ý bán cây và  bán  cây  với  số  tiền  nhiều  hơn  và  cụ  thể  là  đã  bán  bao  nhiêu  tiền  nên  chưa  thể xác  định  được  quyền  và  lợi  ích  hợp  pháp  của  các  nguyên  đơn  có  bị  xâm  phạm không  nên  cần  bác  nội  dung  khởi  kiện  về  tranh  chấp  tài  sản  trên  đất  này  của  các đồng nguyên đơn để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên

Chấp nhận nội dung kháng cáo của ông Lê Đức A là bị đơn và bà Hồ Thị C là  người  có  quyền  lợi  nghĩa  vụ  liên  quan  đến  vụ  án.  Sửa  bản  án  sơ  thẩm  số 05/2019/DS-ST ngày 03/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N.

Bản án số 03/2017/DS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2017 của Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên

Về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất rừng, yêu cầu bồi thường thiệt hại vè tài sản và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền bảo vệ rừng và sử dụng đất rừng.

Nội dung vụ việc:

Nguồn gốc đất do gia đình bà Vương Thị T nhận chuyển nhượngtuwf gia đình ông C1, bao gôm ffaars ở và 1 hần dịch tích đất sau đồi vào năm 1983. Từ năm 1983-1996, gia đình bà T đã san ủi đất làm nhà, vườn, ao, khai phá đồi hoang phía sau nhà với diện tích khoảng 2000m2. Việc gia đình bà  T  khai hoang,  ông  N,  bà  T1  ông L tổ trưởng tổ dân phố đều biết. Đầu năm 1984 thì bà T1 (vợ ông N) chết, gia đình ông N đã chôn cất bà T1 tại nghĩa trang Bản K. Đến khoảng năm 1990 -1991 thì gia đình ông N bốc mộ cho bà T1. Trước khi bốc mộ thì ông N và ông L có sang hỏi gia đình bà T được đặt nhờ phần mộ của bà T1 trên đất đồi của gia đình bà T để tiện cho việc hương khói  Được sự đồng ý của gia đình bà T, mộ bà T1 đã được đưa về chôn tại phần đất đồi phía sau nhà ông  N,  đặt  ngang  hàng  với  phần  mộ  của  bố  mẹ  bà  T  và  thuộc  phần  đất  do  gia đình bà T khai hoang.

Đến  tháng  7/1996,  tổ  công  tác  gồm  đại  diện  phường  H,  tổ  trưởng  tổ  dân phố, cán bộ địa chính và cán bộ kiểm lâm đến kiểm tra thực địa đất đồi rừng tại khu phố, trong đó có gia đình ông bà C-T. Đến ngày 30/9/1996, UBND thị xã Đ (nay  là  thành  phố  Đ)  ban  hành  Quyết  định  số  232-QĐ  và  Giấy  chứng  nhận quyền bảo vệ rừng và sử dụng đất rừng số 78 ngày 30/9/1996 giao cho gia đình ông  bà  C-T  diện  tích  vườn  rừng  là  0,2  ha.  Sau  khi  nhận  quyết  định  giao  vườn rừng và giấy chứng nhận, gia đình ông bà C-T không có khiếu nại, thắc mắc gì. Khi  nhà  nước  xóa  bỏ  bao  cấp,  gia  đình  bà  T  đã  chuyển  sang  trồng  các  cây  lâu năm như: keo lá tràm, keo tai tượng, cây bạch đàn, cây trẩu và tre…đến nay vẫn còn 02 cây keo và 01 cây bạch đàn. Từ năm 2000 đến năm 2005, gia đình bà T trồng thêm khoảng 120 cây keo tai tượng. Từ năm 1983- 2010 giữa gia đình bà T và gia đình ông N sử dụng đất không xảy ra tranh chấp gì.

Năm 2010 -2012, Phạm Văn C con trai của ông N và bà T1 tiến hành chặt cây keo tại tường của gia đình bà T. Bà đã báo ho ông K là Bí thư chi bộ và là người chuyển nhượng đất cho gia đình ông N, nhưng không  có ai lên kiểm tra và cũng không lập biên bản kiểm đếm số cây bị chặt phá.

Đến đầu  năm 2012,  bà  T  đã làm đơn đề  nghị phố, phường  giải  quyết. Đại diện tổ hòa giải tổ dân phố và phường H đã tiến hành hòa giải và công bố tài liệu của hai gia đình, khi đó bà T mới biết gia đình ông Phạm Văn N cũng được cấp Giấy chứng nhận quyền bảo vệ rừng và sử dụng đất rừng với diện tích là 0,29ha; Kết quả hòa giải đã được thể hiện tại biên bản hòa giải ngày 25/02/2012. Không  đồng  ý  với  kết  quả  hòa  giải,  năm  2015  bà  Thoa  đã  viết  đơn  lên UBND thành phố đề nghị giải quyết tranh chấp giữa gia đình bà và gia đình anh Phạm  Văn  C;  bà  T  làm  đơn  khởi  kiện  ra  Tòa  án  nhân  dân để yêu cầu giải quyết:

– Yêu cầu anh Phạm Văn C trả lại diện tích khoảng 1300m2 đất đồi rừng.

– Buộc anh Phạm Văn C phải bồi thường giá trị của 120 cây keo tai tượng với giá trị khoảng 25.000.000 đồng.

– êu  cầu  hủy  Giấy  chứng  nhận  quyền  bảo  vệ  rừng  và  sử  dụng  đất  rừng ngày  30/9/1996  và  Quyết  định  số  232-QĐ  ngày  30/9/1996  do  UBND  thị  xã  Đ cấp cho gia đình ông Phạm Văn N vì sai diện tích đất.

Bị đơn annh Phạm Văn C không nhất trí vì diện tích đất ông bà C, T tranh chấp thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình ông N từ năm 1981 cho đến nay. Đối  với  yêu  cầu  bồi  thường  thiệt  hại  chặt  phá  cây  với  số  tiền  là  25  triệu đồng, anh Phạm Văn C không nhất trí vì anh C không chặt phá cây của gia đình ông bà C- T; Đối  với  yêu  cầu  hủy  Giấy  chứng  nhận  quyền  bảo  vệ  rừng  và  sử  dụng  đất rừng và Quyết định số 232-QĐ của UBND thị xã Điện Biên Phủ cấp đất cho ông N; anh Phạm Văn C cũng không đồng ý vì Giấy tờ cấp đất thực hiện đúng trình tự đúng quy định, không phải Giấy tờ giả.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định

Tại phiên tòa, bà T rút yêu cầu khởi kiện đòi 1300m2 đất rừng và rút yêu cầu Hủy giấy chứng nhận số 77 cấp ngày 30/9/1996  và Quyết định số 232- QĐ ngày 30/9/1996 do UBND thị xã Đ cấp cho gia đình ông Phạm Văn N. Xét thấy việc rút yêu cầu khởi kiện của bà T là tự nguyện, được bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp nhận.

Việc bà T bổ sung yêu cầu khởi kiện buộc anh C phải thanh toán tiền san  lấp  hố  bom,  công  đánh  đá  và  cải  tạo  đất  rừng  với  số  tiền  là  5.000.000đ  là vượt  quá  phạm  vi  yêu  cầu  khởi  kiện, do đó bà T có quyền khởi kiện anh C đối với yêu cầu này trong vụ án độc lập khác.

Trong  quá  trình  giải  quyết  vụ  án  và  tại  phiên  tòa,  bà  T  khai  từ  năm 1993-2005,  bà  T  đã  trồng  khoảng  120  cây  keo  tai  tượng  trên  diện  tích  đất  đồi phía sau nhà ông Phạm Văn N (là phần đất đồi do gia đình bà T khai hoang). Bà T khai đã thực hiện việc trồng cây trên phần đất đồi ở phía sau nhà ông N nhưng không đưa ra được chứng cứ về việc trồng cây, không đưa ra được tài liệu gì chứng minh việc anh Phạm Văn C chặt cây, gây thiệt hại cho nhà bà. Phía anh  C  khẳng  định  bà  T  không  thực  hiện  việc  trồng  cây  trên  diện  tích  đất  rừng của gia đình anh, anh C không được  chặt cây do bà T trồng. Do đó yêu cầu khởi kiện ông C Bà T không được Toà án chấp nhận.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Vũ Duy C và bà Vương Thị T buộc  anh  Phạm  Văn  C  trả  lại  diện  tích  khoảng  1300m2  đất  đồi  rừng  và  yêu cầu  hủy  Giấy  chứng  nhận  quyền  bảo  vệ  rừng  và  sử  dụng  đất  rừng   ngày 30/9/1996  và  Quyết  định  số  232-QĐ  ngày  30/9/1996  do  UBND  thị  xã  Đ  cấp cho  gia  đình  ông  Phạm  Văn  N;  nếu  có  tranh  chấp  thì  có  quyền  khởi  kiện  lại theo quy định của pháp luật.

Không  chấp  nhận  yêu  cầu  khởi  kiện  của  bà  Vương  Thị  T  và  ông  Võ Duy C (tên gọi khác là Vũ Duy C) đối với anh Phạm Văn C về việc buộc anh Phạm Văn C bồi thường số tiền 25.000.000đ.

Bản án số 03/2019/DS-ST ngày 07 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn

Về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản trên đất

Nội dung vụ việc:

Nguồn gốc đất tranh chấp tại K, thuộc thôn B, xã T, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Năm 1997 ông Chu Văn U là bố của Chu Văn L được Ủy ban nhân dân huyện Đ giao quyền quản lý, sử dụng 97 ha, trong đó có 78 ha đất đồi trọc, 19 ha là đất rừng, tại K. Đối với 78 ha đất đồi trọc, năm 2006 một số hộ trong thôn  B  đã  trồng  thông  và  gia  đình  ông  L  cũng  đã  tiến  hành  trồng  thông  trên  diện tích đất đồi trọc, khoảng 1,5 ha.  Toàn bộ diện  tích đất đồi  78 ha  gia đình ông  Chu Văn L không có tranh chấp. Riêng với 19 ha là đất rừng sản xuất, trước đây là rừng tự  nhiên,  một  số  hộ  dân  thôn  B  đã  phát  làm  nương  từ  những  năm  1975  đến  1995 sau đó bỏ hoang. Đến năm 1997 ông Chu Văn U (bố ông Chu Văn L) được UBND huyện Đ giao cho quản lý, sử dụng. Gia đình ông Chu Văn  U đã quản lý, sử dụng thường xuyên, liên tục từ đó cho đến khi xảy ra tranh chấp.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định

Về yêu cầu của ông Chu Văn L: Theo các tài liệu chứng cứ thì ông Chu Văn L được  bố  là  Chu  Văn U để  lại cho tại K, thôn B, xã T, huyện Đ, có diện tích 19 ha thuộc các thửa số 63; 72 tờ bản đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm  nghiệp  xã T,  huyện  Đ, tỉnh  Lạng Sơn,  các  tình tiết  này  phù  hợp  với  nội  dung  Báo  cáo  số  79/BC-TNMT  ngày  18/10/2018  của Phòng  Tài  nguyên  và  môi  trường  huyện  Đ, qua  đối  chiếu  với Biên  bản  xem  xét thẩm định tại chỗ, bản đồ và các tài liệu có trong hồ sơ, việc ông Chu Văn L khẳng định như trên là đúng. Do đó, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông Chu Văn L được  quản  lý,  sử  dụng toàn  bộ  diện  tích đất có  tranh  chấp  là  39.720  m2  thuộc thửa số  63,  thửa  số  72, tờ  bản  đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm  nghiệp  xã T, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn.

Đối với yêu cầu di dời cây keo di các bị đơn trồng, khi  đang xảy  ra  tranh  chấp các  bị  đơn vẫn  cố  tình  trồng cây,  việc  trồng  cây  trên  đất  đã  được  nhà  nước  giao  quyền  quản  lý,  sử  dụng  cho người khác là trái pháp luật cần buộc phải di dời. Yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ,  đúng  quy  định  của  pháp  luật  nên  được  chấp  nhận. Công  nhận  sự  tự nguyện  của  ông Chu  Văn L thanh  toán  cho các  bị  đơn  giá  trị  tài  sản  trên  đất  là 10.100  cây  keo,  với  đơn  giá  từ  5.000  đồng/cây  đến  6.000  đồng/cây,  hỗ  trợ  công phát dọn với đơn giá là 1.000 đồng/m2.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên

Chấp  nhận  yêu  cầu  khởi  kiện  của ông Chu  Văn L đòi trả  lại  toàn  bộ  diện tích đất tranh chấp.Buộc các bị đơn: Chu Thị  D di dời tài sản trên đất gồm 3.000 cây keo. Chu Thị  L di  dời  tài  sản  trên  đất  gồm  2.500  cây  keo. Chu  Thị  Đ,  Bế  Thị  C,  Trần  Thị H di dời tài sản trên đất gồm 2.800 cây keo. Bế Văn  Đ di dời tài sản trên đất gồm 1.800 cây keo.

Không chấp nhận yêu cầu được quản lý, sử dụng diện tích 7.836 m2 đất và 3.000  cây  keo  trên  đất  tại thửa số  72, tờ  bản  đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm nghiệp xã T, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn của bà Chu Thị D.

Không  chấp  nhận  yêu  cầu  được  quản  lý,  sử  dụng  diện  tích  6.708  m2 đất  và 2.500  cây  keo  trên  đất  tại thửa số  72, tờ  bản  đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm nghiệp xã T, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn của bà Chu Thị L.

Không  chấp  nhận  yêu  cầu  được  quản  lý,  sử  dụng  diện  tích  7.928  m2 đất  và 2.800  cây  keo  trên  đất  tại thửa số  63, tờ  bản  đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm nghiệp xã T, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn của các bà Chu Thị Đ, Bế Thị C, Trần Thị H.

Không  chấp  nhận  yêu  cầu  được  quản  lý,  sử  dụng  diện  tích  6.164  m2 đất  và 1.800  cây  keo  trên  đất  tại thửa số  72, tờ  bản  đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm nghiệp xã T, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn của ông Bế Văn Đ.

Không  chấp  nhận  yêu  cầu  được  quản  lý,  sử  dụng  diện  tích  2.248  m2 đất tại thửa số 63, tờ bản đồ số 04 bản đồ địa chính đất Lâm nghiệp xã T, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn của ông Nguyễn Văn B.

Không  chấp  nhận  yêu  cầu  được  quản  L,  sử  dụng  diện  tích  5.839  m2 đất  tại thửa  số  72, tờ  bản  đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm  nghiệp  xã T,  huyện  Đ, tỉnh Lạng Sơn của bà Triệu Thanh L và ông Nông Văn N.

Không  chấp  nhận  yêu  cầu  được  quản  lý,  sử  dụng  diện  tích  3.006  m2 đất  tại thửa  số  72, tờ  bản  đồ  số 04  bản đồ địa  chính  đất  Lâm  nghiệp  xã T,  huyện  Đ, tỉnh Lạng Sơn của bà Chu Thị T.

Bản án số 04/2019/DS-ST ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang

Về việc:Tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp

Nội dung vụ việc:

Về nguồn gốc đất của gia đình ông  Lục Văn N, bà  Lê Thị T: Lô đất của gia đình ông N, bà T đã quản lý, trồng màu và bảo vệ rừng từ năm 1982, đến năm 1993 gia đình ông N, bà T được chính quyền địa phương và Hạt kiểm lâm huyện Sơn Động giao cho quản lý, chăm sóc và bảo vệ rừng 01 lô đất lâm nghiệp, diện tích là 50.000m2. Ngày 30/8/1995 được UBND huyện Sơn Động cấp  chứng  nhận  về  quản  lý  và  bảo  vệ  rừng  (sổ  bìa  xanh).  Ngày  09/11/1999 được UBND huyện Sơn Động cấp chuyển đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (từ sổ bìa xanh chuyển sang sổ bìa đỏ), diện tích là 5ha, thuộc lô 2, khoảnh  26, thôn Nà Tèng, xã Vân Sơn ghi hộ ông  Lục Văn N.

Về nguồn gốc đất của gia đình ông  âm Đình C, bà Vi Thị H:  Năm 1993 gia đình ông  C, bà H được chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn  huyện  Sơn  Động  giao  cho  quản  lý,  chăm  sóc  và  bảo  vệ  rừng  01  lô  đất lâm nghiệp, diện tích là 79.000m2.  Năm 1995 được UBND huyện Sơn Động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ bìa xanh. Ngày 15/12/1999  được UBND  huyện  Sơn Động  cấp  chuyển đổi giấy  chứng  nhận quyền sử  dụng  đất (chuyển  đổi  từ  sổ  bìa  xanh  sang  sổ  bìa  đỏ)  ),  diện  tích  là  7,9ha,  thuộc  lô  26 khoảnh 24, thôn Phe, xã Vân Sơn ghi hộ ông Lâm Văn C (Lâm Đình C).

Về nguồn gốc đất của gia đình ông Vũ Quang Đ, bà Hoàng Thị N:  Năm  2009  bà  N  được  bố  mẹ  tặng  cho  diện  tích  đất  lâm  nghiệp  01ha;  ngày 27/7/2009  đã  được  UBND  huyện  Sơn  Động  tách  sổ  cấp  giấy  chứng  nhận quyền sử dụng đất số AP 765938 diện tích 01ha, loại đất rừng tái sinh thuộc lô L5, khoảnh 8, thôn Biểng, xã An Lạc. (việc tách sổ từ sổ của gia đình cụ Đ1, cụ Đ cho bà N được tách lô khoảnh theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình, nhưng lô đất của bà N không được chia tách thể hiện trên bản đồ giao đất 02 của UBND xã).

Do lô đất  của  gia  đình ông  N với gia  đình  ông  C  và  gia  đình  ông  Đ  có  giáp  ranh  liền  kề  nhau,  khi  giao  đất  tại thực  địa  cho  các  hộ gia  đình quản  lý thì không  có  cắm  mốc  giới  mà  chỉ  giao theo  các  điểm  tọa  độ  theo  bản  đồ  giao  đất  và  thời  điểm  giao  đất  vẫn  là  rừng nguyên sinh dậm rạp. Sau khi được giao các hộ gia đình đã quản lý trông coi và  bảo  vệ  rừng  chứ  chưa  trồng  cây  phát  triển  kinh  tế,  từ  đó  các  hộ  gia  đình không  thường xuyên  kiểm  tra  đất  nên không  xác  định  được  rõ mốc  giới  theo giấy chứng nhận quyền sử dụng  đất và bản  đồ quản lý đất đai; thời điểm sau do rừng nghèo kiệt nên các hộ gia đình trồng cây phát triển kinh tế thì gia đình ông  N  mới  kiểm  tra  đất  của  gia  đình  mình  được  giao  theo  giấy  chứng  nhận quyền sử dụng  đất thì xảy ra tranh chấp. Trước thời điểm năm 2008 gia đình ông Đ đã trồng cây Thông, gia đình ông C đã trồng cây keo trên 1 phần diện tích đất của gia đình ông N; tháng 7 năm 2017 gia đình ông Đ, gia đình ông C tiếp tục phát quan trồng cây keo lên toàn bộ diện tích đất của gia đình ông N (gia đình C 12.421m2, gia đình ông Đ 18.811m2). Gia đình ông N đã nhiều lần yêu cầu gia đình ông Đ, gia đình ông Ch trả lại diện tích đất lấn chiếm nhưng gia đình ông Ch, ông Đ không nhất trí trả mà vẫn tiếp tục trồng cây. UBND xã đã tiến hành hòa giải nhưng không thành và có kết luận: Một phần diện tích đất tranh chấp gia đình ông  âm Đình C đang quản lý và toàn bộ diện tích đất tranh chấp gia đình ông Vũ Quang Đ đang quản lý nằm trong lô  02, khoảnh 26  đất  của  gia  đình  ông  N.  Quá trình hòa giải  thì  gia đình ông Nvà  gia  ông  C  có tự  thỏa  thuận được với  nhau  về  việc  chia  đôi diện tích  đất tranh  chấp,  nhưng  sau  gia  đình  ông  C  lại  thay  đổi  ý  kiến  không  đồng  ý  nữa. UBND  xã  đã  yêu  cầu  gia  đình  ông  Đ  và  gia  đình  ông  C  trả  lại  diện  tích  đất tranh chấp cho gia đình ông N quản lý, sử dụng nhưng gia đình ông Đ và gia đình ông C không đồng ý trả. Do gia đình các bị đơn không trả đất nên ngày 16/01/2019 ông N, bà T khởi kiện gia đình ông Đ, bà N và gia đình ông C, bà H ra Tòa án nhân dân huyện Sơn Động. uá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông  Lục Văn N, bà  Lê Thị T rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với gia đình ông  Lâm Đình C từ 17.918m2 xuống  còn  12.421m2,  nay  yêu  cầu  gia  đình  ông  Lâm  Đình  C  trả  lại  diện  tích đất 12.421m2 cho gia đình quản lý, sử dụng; ông N, bà T nhất trí thanh toán trả tiền tài sản trên đất cho gia đình ông C; Ông C không nhất trí với yêu cầu của ông N, bà T đưa ra. Đối với yêu cầu khởi kiện gia đình ông Vũ Quang Đ: Hai bên gia đình ông  N,  bà  Tvới  gia  đình  ông  Đ,  bà  N  đã  tự  thỏa  thuận  giải  quyết  vụ  án  với nhau theo giấy thỏa thuận ngày 18/9/2019 đã giao nộp và đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định

Nguyên  đơn  ông  N,  bà  T  đưa  ra  căn  cứ  chứng  minh  cho  yêu  cầu  khởi kiện của mình như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, biên bản hòa giải của UBND xã về việc gia đình ông C nhất trí trả lại ½ diện tích đất tranh chấp là có căn cứ.

Bị đơn gia đình ông C đưa ra những căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho  mình  là  giấy  chứng  nhận  quyền  sử  dụng  đất  và  các  giấy  tờ  liên  quan  là không có căn cứ.

Do vậy, chấp nhận toàn  bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lục Văn N, bà  Lê Thị T đối với bị đơn gia đình ông  âm Đình C, bà Vi Thị H.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lục Văn N, bà Lê Thị T đối với bị đơn ông Lâm Đình C, bà Vi Thị H. Buộc bị  đơn ông  Lâm  Đình  C, bà  Vi  Thị  H  và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lâm  Đức T1, anh Lâm Văn T2, anh Lâm Văn T3 và anh Lâm Thế T4 phải trả cho gia đình ông Lục Văn N, bà Lê Thị T quản lý, sử  dụng  toàn  bộ  diện  tích  đất  lâm  nghiệp  tranh  chấp  12.421m2  thuộc  lô  02, khoảnh  26,  thôn  Nà  Tèng,  xã  Vân  Sơn.

Công  nhận  sự  thỏa  thuận  của  các  đương  sự,  giữa  nguyên  đơn  ông  Lục Văn N, bà  Lê Thị T với bị đơn ông Vũ Quang Đ bà Hoàng Thị N, sự thỏa thuận cụ thể như sau:  Ông Vũ Quang Đ, bà Hoàng Thị N trả cho gia đình ông Lục  Văn  N,  bà  Lê  Thị  T  quản  lý,  sử  dụng  toàn  bộ  diện  tích  đất  lâm  nghiệp tranh  chấp  18.811m2  thuộc  lô  02,  khoảnh  26,  thôn  Nà  Tèng,  xã  Vân  Sơn

Bản án số 05/2021/DS-PT ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên

Về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung vụ việc:

Nguồn gốc diện tích 8.480m2 đất rừng các đương sự tranh cấp là của gia đình ông P mua của ông Đỗ Huy K và mua cảu ông Hoàng Sinh H4  vào năm 1994, có  giấy  tờ  chuyển  nhượng,  không  có  xác  nhận của chính quyền địa phương, không ghi diện tích cụ thể nhưng có sơ đồ chỉ ranh giới. Năm 2009 Anh Bàn Văn Đ là con trai ông P có bán 01 phần đất khoảng 3 sào (diện tích 1.080m2) đất rừng cho anh P1, chị T, có giấy viết tay và ký nhận giữa Anh Đ, Chị H2 (vợ Anh Đ) và anh P1, chị T, có Ông T3 là trưởng xóm xác nhận. Năm 2013 gia đình ông P kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng việc đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông P không đúng với diện tích đất thực tế gia đình ông P sử dụng dẫn đến việc cấp thiếu  diện  tích  đất  trong  giấy  chứng  nhận  quyền  sử  dụng  đất  (gia  đình  không được dẫn đạc). Gia đình anh Nguyễn Văn P1 và chị Nguyễn Thị T đã nhận một phần diện tích đất rừng của gia đình ông P vào đất của gia đình anh P1, chị T và được cấp giấy  chứng  nhận quyền sử dụng  đất là  thửa 121  TBĐ  số  01  diện tích 23.458m2 đất rừng đã đo bao vào diện tích đất nhà ông P tại thửa 113 TBĐ số 01 (lúc đó gia đình ông P không biết việc cấp đất không đúng với diện tích đất thực tế  sử  dụng).  Đến  tháng  4/2017  khi  gia  đình  anh  P1  vào  san  gạt  đất  thì  hai  gia đình xảy ra tranh chấp. Trên phần đất tranh chấp này gia đình Anh H3 (con trai ông P) đã trồng cây và thu hoạch 2 – 3 vụ, hiện tại trên đất tranh chấp có cây keo của gia đình ông P và Anh H3 trồng được 6 năm. Còn bị đơn anh P1, chị T cho rằng: Năm 2013 anh chị được Ủy ban nhân dân huyện Đại Từ cấp quyền sử dụng đất với diện tích là 23.458m2 tại thửa 121 tờ bản đồ số 01 loại đất rừng sản xuất. Về nguồn gốc của thửa đất được cấp là năm 2002 anh chị mua một phần đất của Ông Phan Văn T2, khi mua chỉ áng chừng không có diện tích cụ thể nhưng có xác định ranh giới là hàng bạch đàn giáp đất nhà ông P, đến năm 2009 anh chị tiếp tục mua khoảng 03 sào đất rừngcủa Anh Bàn Văn Đ (con ông P) khi mua bán có giấy tờ,  có  xác  nhận  của  trưởng  xóm.  Anh  chị  xác  định  diện  tích  8.480m2  đất  rừng đang tranh chấp chính là phần đất mua của Anh Đ. Sau khi mua đất của Anh Đ, anh chị đã cho Anh Bàn Văn H3 (con ông P) mượn đất để trồng cây từ khi mua cho đến nay. Hiện trên đất đang tranh chấp có cây keo khoảng 05 năm tuổi do gia đình ông P trồng và khai thác.

Toà án cấp sơ tuyên

Chấp yêu cầu khởi kiện của ông Bàn Văn P đối với anh Nguyễn Văn P1 và chị Nguyễn Thị T. Buộc anh Nguyễn Văn P1 và chị Nguyễn Thị T trả lại cho ông Bàn Văn P (người  kế  thừa  quyền  và  nghĩa  vụ  là  anh  Bàn  Văn  H)  diện  tích  là  8480m2  đất rừng nằm vị trí C’DEFG ở thửa 121, tờ bản đồ số 1, tại xóm  ĐX, xã YL, huyện ĐT (có sơ đồ trích lục kèm theo).

Ngày  22/9/2020  bị  đơn  anh  Nguyễn  Văn  P1  và  chị  Nguyễn  Thị  T  kháng cáo  không  nhất  trí  với  quyết  định  của  bản  án  sơ  thẩm.  Cho  rằng  diện  tích 8.480m2 đất rừng mà gia đình ông P tranh chấp là đất của gia đình anh chị mua của Anh Bàn Văn Đ và Chị Bùi Thị H2, không có việc chồng  lấn diện tích đất của hai gia đình, khi mua bán có giấy viết tay ghi khoảng 3 sào, không đo đạc, có chỉ ranh giới cụ thể là hàng bạch đàn mà gia đình Anh Đ trồng, không có hào rãnh đất cụ thể; bản án buộc gia đình  anh P1 phải chịu chi phí thẩm định, định giá  anh  chị  không  nhất  trí.  Đề  nghị  Tòa  án  giải  quyết  theo  bìa  đỏ  của  gia  đình được nhà nước cấp.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định

Dựa vào các tài liệu chứng cứ, xét thấy: Diện tích 8.480 m2 đất từng mà hai bên đang tranh chấp là của ông Bàn Văn P (người thừa kế quyền và nghĩa vụ là ông Bàn Văn H). Do đó, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện cảu ông P là phù hợp, và có căn cứ.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên

Không chấp nhận kháng cáo của  anh Nguyễn Văn P1 và chị Nguyễn Thị T. Giữ nguyên bản án dân sư ̣ sơ thẩm

Bản án số 06/2019/DS-PT ngày 21 tháng 01 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn

Về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, bồi thường thiệt hại về tài sản và huỷ một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Nội dung vụ việc:

Đất  tranh chấp  có  nguồn  gốc  do  gia  đình  nguyên  đơn  khai  phá,  cải  tạo  sử  dụng  từ  năm 1990  không  có  tranh  chấp  với  ai. Trong quá trình quản lý sử dụng đất phần đất tranh chấp tại thửa đất số 730 nguyên đơn đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất.  iện toàn bộ thửa đất số 730, tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 01 xã  L,  huyện  L,  tỉnh  Lạng  Sơn  có  tổng  diện  tích  8.300m2  đã  được  Ủy  ban  nhân dân  huyện  L,  tỉnh  Lạng  Sơn  cấp  Giấy  chứng  nhận  quyền  sử  dụng  đất  quyền  sở hữu  nhà  ở  và  tài  sản  khác  gắn  liền  với  đất  số  BD  629506,  số  vào  sổ  cấp  giấy chứng nhận: C 00019 cấp ngày 20/6/2011 cho hộ ông Dương Văn B và bà Lâm Thị L.  Đối  với  phần  đất  tranh  chấp  thuộc  một  phần  thửa  đất  số  917,  tờ  bản  đồ địa  chính  đất  lâm  nghiệp  số  01  xã  L,  huyện  L,  tỉnh  Lạng  Sơn  do  bị  đơn  tranh chấp nên nguyên đơn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trên phần đất này đã tồn tại các cây sở do nguyên đơn trồng từ năm 1990-1991. Nay nguyên  đơn  yêu  cầu   Tòa  án  giải  quyết  để  nguyên  đơn  được  quyền  quản  lý  sử dụng 1.273,2m2  đất  và  sở  h u  cây  trên  đất;  bị đơn  phải  bồi  thường  thiệt  hại  12 cây  sở  cho  nguyên  đơn  theo  giá  tr   được  thể  hiện  tại  biên  bản  đ nh  giá  tài  sản ngày  23/4/2018  là  2.310.000  đồng.  Nguyên  đơn  yêu  cầu   òa  án  giải  quyết  chi phí  xem  xét,  thẩm  đ nh  tại  chỗ,  đ nh  giá  tài  sản,  giám  đ nh  với  tổng  số  tiền  là 21.726.000 đồng mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng đồng thời miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm cho nguyên đơn theo quy đ nh của pháp luật.

b  đơn bác bỏ toàn bộ các yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã đưa ra, b  đơn đề  ngh   được  quản  lý,  sử  dụng  toàn  bộ  diện  tích  đất  tranh  chấp  và  sở  h u  cây trên  đất,  đồng  thời  yêu  cầu  hủy  một  phần  Giấy  chứng  nhận  quyền  sử  dụng  đất quyền  sở  h u  nhà  ở  và  tài  sản  khác  gắn  liền  với  đất  số  BD  629506  mà  Ủy  ban nhân  dân  huyện  L,  tỉnh  Lạng  Sơn  cấp  ngày  20/6/2011  cho  nguyên  đơn  đối  với diện tích 810,5m2 đất thuộc một phần thửa đất số 730.Tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn  và  gia  đình bị đơn  đã  thừa  nhận  810,5m2  đất  thuộc  một  phần  thửa  đất  số 730,  tờ  bản  đồ  địa  chính  đất  lâm  nghiệp  số  01  xã  L,  huyện  L,  tỉnh  Lạng  Sơn thuộc quyền quản lý, sử dụng của nguyên đơn. B  đơn và gia đình của mình không yêu cầu  òa án hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở h u nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất trên.

Toà án cấp sơ tuyên

Ông  Dương  Văn  B  và  bà  Lâm   h   L  được  quyền  quản  lý  và  sử  dụng 1.273,2m2  đất  rừng  sản  xuất  tại  khu  đồi  C1  (tên  gọi  khác  là  C2)  thôn  K,  xã  L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

Diện  tích  810,5m2  đất  thuộc  một  phần  thửa  đất  số  730,  tờ  bản  đồ  địa chính đất lâm nghiệp số 01 xã L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở h u nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD 629506 số vào sổ cấp giấy chứng nhận: C 00019 của Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 20 tháng 6 năm 2011 cho hộ ông Dương Văn B và bà Lâm  Thị  L.

Diện  tích  462,7m2  đất  thuộc  một  phần  thửa  đất  số  917,  tờ  bản  đồ  địa chính đất lâm nghiệp số 01 xã L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

Ông Dương Văn B và bà Lâm Thị  L được quyền sở hữu cây trồng hiện có trên đất gồm:  Toàn bộ các cây vầu, 28 cây sở trong đó có 14 cây sở có đường kính  từ  05  đến  10cm,  14  cây  sở  có  đường  kính  từ  11  đến  20cm  trên  diện  tích 1.273,2m2  đất  rừng  sản  xuất  tại  khu  đồi  C1  (tên  gọi  khác  là  C2)  thôn  K,  xã  L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn bao gồm: 810,5m2 đất thuộc một phần thửa đất số 730, tờ  bản  đồ  địa  chính  đất  lâm  nghiệp  số  01  xã  L,  huyện  L,  tỉnh  Lạng  Sơn  và 462,7m2 đất thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 01 xã L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

Ông  Dương  Văn  B  và  bà Lâm  Thị  L có nghĩa vụ kê khai, đăng ký đất đai (quyền sử dụng đât) đối với diện tích  462,7m2  đất  thuộc  một  phần  thửa  đất  số  917,  tờ  bản  đồ  địa  chính  đất  lâm nghiệp số 01 xã L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn theo quy định của Luật Đất đai.

Ông Lộc Văn   phải thanh toán giá trị  cây trồng (12 cây sở) cho ông Dương Văn B và bà Lâm  Thị  L với tổng số tiền là 2.310.000 đồng (hai triệu ba trăm mười nghìn đồng).

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở h u nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD 629506 số vào sổ cấp giấy chứng nhận: C 00019 của Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 20 tháng 6 năm 2011 cho hộ ông Dương Văn B và bà Lâm Thị  L đối với diện tích 810,5m2 đất thuộc một phần thửa đất số 730, tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 01 xã L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

Ngày  10/10/2018,  Ông  Lộc  Văn  T   kháng  cáo  yêu  cầu  Tòa  án  cấp  phúc thẩm giải quyết: Buộc ông Dương Văn B và bà Lâm Thị  L chấm dứt tranh chấp đối với diện tích là 462,7m2 thuộc một phần thửa đất số 917, tờ bản đồ số 01 bản đồ  địa  chính đất  lâm  nghiệp xã  L,  huyện L,  tỉnh  Lạng  Sơn.  Công  nhận  cho  gia đình ông Lộc Văn T  được quyền quản lý và sử dụng toàn bộ diện tích và tài sản trên diện tích đất nêu trên; xác nhận diện tích 810,5m2 thuộc một phần thửa đất số  730,  tờ  bản  đồ  số  01  bản  đồ  đ a  chính  đất  lâm  nghiệp  xã  L,  huyện  L,  tỉnh Lạng Sơn theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 629506, gia đình ông Lộc Văn T   không có tranh chấp với gia đình ông Dương Văn B và bà Lâm Thị  L; Không chấp nhận yêu cầu bồi thường của ông Dương Văn B, bà Lâm  Thị  L với  số  tiền  là  2.310.000  đồng,  không  chấp  nhận  chịu  toàn  bộ  các  chi  phí  xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và giám định là 21.726.000 đồng.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định

Xét thấy, theo pháp theo vụ việc ông   oàng   uân  N  có   hông  báo  kết  luận  giám  đ nh  tuổi  cây  đề  ngày 07/5/2018, cụ thể: Cây sở yêu cầu giám đ nh có tuổi là: 26 ± 1 năm. Như vậy, có đủ căn cứ pháp lý xác đ nh nguyên đơn là người trồng  28 cây sở trên diện tích 1.273,2m2  đất  tranh  chấp,  trong  đó  có  28  cây  sở  hiện  có  trên  đất  và  12  cây  sở Ông Lộc Văn T  đã chặt vào năm 2017.

Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, giám định: Do yêu  cầu  khởi  kiện  của nguyên đơn được chấp nhận và các bên cũng không thỏa thuận được về nghĩa vụ  chịu  số  tiền  trên.  B   đơn  phải  có  trách nhiệm  trả  lại  cho  nguyên  đơn  số  tiền  tạm  ứng  nguyên  đơn  đã  bỏ  ra  là 21.726.000 đồng.

Từ những phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của Ông Lộc Văn T , cần giữ  nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên

Không chấp nhận kháng cáo của ông Lộc Văn T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan