FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án tranh chấp hợp đồng xây dựng đương sự có yêu cầu phản tố” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 20 bản án tranh chấp hợp đồng xây dựng đương sự có yêu cầu phản tố
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số 482/2019/KDTM-PT ngày 28 tháng 5 năm 2019 của Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” Tóm tắt nội dung vụ việc: Công ty TNHH Công nghệ Kỹ thuật Liên kết TH OW (Sau đây gọi tắt Công ty TH) và Liên danh nhà thầu ACCA – Đ do Công ty A (Sau đây gọi tắt Công ty A) đại diện, ký Hợp đồng xây dựng số 14/HĐXD/2010 ngày 27/12/2010, để thiết kế thi công xây dựng nhà xưởng công ty Owtek TH tại địa điểm Lô B5A, Khu B, khu công nghiệp Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng giá trị hợp đồng là 6.629.856.321 đồng đã bao gồm thuế giá trị gia tăng, chia làm hai phần gồm: giá trị phần công việc thi công xây dựng theo hồ sơ báo giá thi công xây dựng là 6.492.356.321 đồng và giá trị phần công việc thiết kế theo hồ sơ báo giá thiết kế xây dựng 137.500.000 đồng. Thời gian hoàn thành công trình là 183 ngày kể từ ngày khởi công là ngày 31/12/2010. Công ty TH đã tạm ứng, thanh toán cho Công ty A nhiều đợt tổng cộng là 1.975.128.758 (Một tỷ chín trăm bảy mươi lăm triệu một trăm hai mươi tám nghìn bảy trăm năm mươi tám) đồng. Công ty A đã thi công chất lượng công trình kém, không đảm bảo an toàn lao động, an ninh trật tự và tiến độ của công trình, nên Công ty TH ra Quyết định số 63/QĐ/OWTEK/11 ngày 02/6/2011 chấm dứt Hợp đồng thi công xây dựng số 14/HĐXD/2010 kể từ ngày 02/6/2011, có sự đồng ý của Công ty A. Tính đến thời điểm chấm dứt hợp đồng, tổng giá trị thi công đã hoàn thành được chấp nhận thanh toán là 1.429.880.906 đồng, đã bao gồm thuế giá trị gia tăng. Nguyên đơn đã tạm ứng thanh toán dư số tiền 545.247.851 đồng, nên yêu cầu bị đơn phải hoàn trả. Ngày 25/01/2018 nguyên đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Công ty A thanh toán bổ sung các khoản như sau: Phạt chậm tiến độ thực hiện công việc xây dựng theo theo Điều 3, Mục 3.2 và Mục 3.3 của Hợp đồng xây dựng số 14/HĐXD/2010 là: 8% x 6.629.856.321 = 530.388.505 đồng. Theo hợp đồng thời gian thi công là 183 ngày, từ ngày 31/12/2010 đến ngày 02/6/2011, nhưng thực tế đến ngày chấm dứt hợp đồng là ngày 03/6/2011, bị đơn chưa hoàn thành công trình; Chi phí khắc phục những hạng mục do Công ty A thi công không đạt chất lượng mà Công ty TH phải trả cho nhà thầu xây dựng mới, tổng cộng 223.461.208 đồng, gồm: Phân loại đinh rỉ thép: 31.500.000 đồng; đục phần dầm sàn bị lỗi: 8.700.000 đồng; xử lý dầm sàn bị rỗng và nứt: 30.271.000 đồng; hạng mục xử lý liên quan đến bể nước ngầm, bể tự hoại, hố ga, nhà bảo vệ và phần san lắp đường nội bộ: 152.990.208 đồng. Tổng cộng các khoản: 1.299.097.564 đồng, yêu cầu bị đơn trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc nguyên đơn chưa thanh toán đủ tiền thi công, phạt lãi chậm trả, thanh toán tiền thép xây dựng bị đơn bàn giao lại, ý kiến của nguyên đơn là: Đối với mục bảo lãnh thực hiện hợp đồng, nguyên đơn thanh toán đủ, không còn nợ tiền thanh toán đợt 1 nên không đồng ý trả tiền lãi chậm thanh toán là 267.442.558 đồng như bị đơn yêu cầu; Đối với những hạng mục xây dựng được hai bên ký biên bản hiện trường thì không đủ cơ sở để được thanh toán tiền thi công, vì biên bản hiện trường mục đích ghi nhận lại hiện trạng thực tế, xác nhận hiện trạng công trình xây dựng đến thời điểm ký biên bản hiện trường để tiến hành bàn giao, chưa được nghiệm thu để lập hồ sơ thanh toán; Bị đơn xây dựng công trình không đạt chất lượng thì bị đơn phải thực hiện khắc phục để đạt tiêu chuẩn chất lượng theo yêu cầu, hai bên có lập biên bản hiện trường ghi nhận hiện trạng công việc, bị đơn dựa vào các biên bản hiện trường này đưa ra giá trị yêu cầu nguyên đơn thanh toán, nguyên đơn không đồng ý. Bị đơn thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về việc ký kết và chấm dứt Hợp đồng xây dựng số 14/HĐXD/2010 ngày 27/12/2010 trước thời hạn. Bị đơn đồng ý với nguyên đơn về việc nguyên đơn không khởi kiện Công ty Đ và không yêu cầu gì đối với Ngân hàng TMCP L – PGD Sài Gòn, việc tranh chấp trong vụ kiện này không có liên quan đến Công ty Đ, mà do bị đơn sẽ có trách nhiệm giải quyết cùng với nguyên đơn. Bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đồng thời có yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn tổng số tiền 772.329.292 đồng. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Công nghệ Kỹ thuật Liên kết TH OW về việc buộc Công ty A hoàn trả số tiền tạm ứng 545.247.851 đồng, tiền phí sử dụng vỉa hè là 30.000.000 đồng; tiền nước là 452.183 đồng; tiền điện là 712.910 đồng. Tổng cộng: 576.412.944 (Năm trăm bảy mươi sáu triệu bốn trăm mười hai nghìn chín trăm bốn mươi bốn) đồng. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bị đơn. Buộc Công ty TNHH Công nghệ Kỹ thuật Liên kết TH OW phải thanh toán cho Công ty A giá trị phần công việc thi công được nghiệm thu 619.878.632 đồng, tiền thi công phần công việc được xác nhận khối lượng bằng biên bản hiện trường 298.685.181 đồng, tiền sắt thép bị đơn bàn giao lại là 6.833.945 đồng, trả lãi chậm thanh toán 268.132.493 đồng. Tổng cộng 1.193.530.251 đồng. Nhưng được cấn trừ vào tiền tạm ứng còn lại của nguyên đơn là 514.082.749 đồng, còn lại 679.447.502 đồng. Công ty TNHH Công nghệ Kỹ thuật Liên kết TH OW phải trả một lần số tiền 679.447.492 (Sáu trăm bảy mươi chín triệu bốn trăm bốn mươi bảy nghìn bốn trăm chín mươi hai) đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện phạt chậm tiến độ thực hiện công việc xây dựng là 530.388.505 đồng và trả tiền chi phí khắc phục những hạng mục thi công không đạt chất lượng 223.461.208 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bị đơn về việc yêu cầu nguyên đơn thanh toán giá trị phần công việc được được xử lý chất lượng: 38.395.760 đồng và tiền thép xây dựng bàn giao 55.175.974 đồng, tổng cộng 93.571.734 (Chín mươi ba triệu năm trăm bảy mươi mốt nghìn bảy trăm ba mươi bốn) đồng. Ngày 29/11/2018, nguyên đơn nộp đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 119/2018/KDTM-ST ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Từ những nhận định có căn cứ của bản án sơ thẩm , thì yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là không có cơ sở để chấp nhận nên giữ nguyên bản án sơ thẩm về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong việc thanh toán khi chấm dứt hợp đồng xây dựng trước thời hạn. Riêng về án phí, bản án sơ thẩm có sự nhầm lẫn về số liệu cấp phúc thẩm điều chỉnh cho chính xác đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH Công nghệ Kỹ thuật TH Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 119/2018/KDTM-ST ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. |
1 |
|
Bản án số 421/2022/KDTM-PT ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” Tóm tắt nội dung vụ việc: Ngày 10/01/2018, Công ty Cổ phần S (gọi tắt là Công ty S) và Công ty TNHH Kỹ thuật H (gọi tắt là Công ty H) có ký kết Hợp đồng số 002/HĐKT- 2018 về việc cung cấp vật tư, thi công chế tạo và lắp đặt các hạng mục nhà xưởng – Gói XD3 Dự án Nhà máy S– H và Phụ lục 01 về Bảng giá chi tiết đề ngày 10/01/2018. Theo đó, Công ty H là bên giao thầu, Công ty S là bên nhận thầu cho công trình trên. Tổng giá trị hợp đồng là 19.101.569.349 đồng (đã bao gồm thuế GTGT). Sau khi ký hợp đồng, Công ty H đã tạm ứng cho Công ty S tổng số tiền là 5.209.518.913 đồng, cụ thể ngày 05/02/2018 tạm ứng số tiền là 2.000.000.000 đồng, ngày 08/03/2018 tạm ứng số tiền là 3.209.518.913 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty H đã nhiều lần không thực hiện thanh toán và trong khi Công ty S đã đưa các nhà thầu khác vào thi công, từ ngày 20/4 /2018 Công ty S không thể thực hiện tiếp công việc, Hợp đồng giữa các bên kết thúc phần thực hiện thi công, chuyển sang giai đoạn quyết toán, thanh toán. Công ty S đã nhiều lần yêu cầu nghiệm thu và gửi hồ sơ quyết toán để ký xác nhận nhưng Công ty H đều không thực hiện. Công ty H vi phạm nghĩa vụ thanh toán làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của Công ty S nên Công ty S yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty H phải thanh toán cho Công ty S tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 31/3/2022 là 17.753.901.821 đồng, yêu cầu thanh toán 01 lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Công ty H xác nhận đã tạm ứng cho Công ty S tổng số tiền là 5.209.518.913 đồng, chưa thanh toán cho nguyên đơn số tiền còn lại theo hợp đồng là 11.375.282.584 đồng; số tiền nợ theo giá trị công việc phát sinh từ hợp đồng số: 002/HĐKT-2018 đã bao gồm VAT là 250.800.000 đồng theo đúng nội dung mà Công ty S trình bày. Tuy nhiên, Công ty S đang thực hiện dở dang và các hạng mục Công ty S chưa thực hiện. Điều này dẫn đến hệ quả là Công ty H phải trả mức giá thi công các hạng mục này cho các đơn vị khác cao hơn so với hợp đồng đã ký với Công ty S, tiến độ công trình bị kéo dài dẫn đến phát sinh nhiều chi phí khác như chi phí quản lý, vận hành để hoàn tất dự án. Do đó, Công ty H có đơn phản tố yêu cầu bồi thường thiệt hại; phạt vi phạm hợp đồng với tổng số tiền là 1.372.492.783 đồng. Số tiền này sẽ được cấn trừ vào phần nghĩa vụ mà công ty H phải thanh toán cho Công ty S. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần S: Buộc Công ty TNHH kỹ thuật H phải thanh toán cho Công ty cổ phần S nợ gốc và lãi chưa thanh toán theo hợp đồng số 002/HĐKT-2018 ngày 10/01/2018 và công việc phát sinh từ Hợp đồng số 002/HĐKT-2018 ngày 10/01/2018 là 16.381.409.038đồng, thanh toán 01 lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật; Đình chỉ đối với yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng với mức phạt là 8%/giá trị bị phạm tạm tính từ ngày 03/6/2018 đến hết ngày 29/10/2019 là 930.086.606 đồng của Công ty Cổ phần S. Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty cổ phần S thanh toán cho Công ty TNHH kỹ thuật H số tiền là 1.372.492.783 đồng, số tiền này đã được cấn trừ vào nghĩa vụ thanh toán Công ty TNHH kỹ thuật H phải thanh toán cho Công ty Cổ phần S nêu trên. Ngày 14/4/2022, bị đơn Công ty TNHH Kỹ Thuật H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Công ty H kháng cáo yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại số tiền này và không chấp nhận hoàn trả cho nguyên đơn số tiền trên với lý do hai bên chưa thực hiện nghiệm thu công trình là không có cơ sở xem xét. Tại phiên tòa phúc thẩm hai bên xác nhận trong quá trình tòa án giải quyết vụ án, thì khối lượng công trình mà Công ty S thi công đã được nghiệm thu và đã đưa vào sử dụng. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của bị đơn. Nhận thấy, Tòa cấp sơ thẩm đã xem xét buộc bị đơn thanh toán tiền lãi chậm trả cho nguyên đơn số tiền lãi phát sinh là 6.217.819.237 đồng là hoàn toàn phù hợp nên xét thấy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của bị đơn. Đối với yêu cầu phản tố đòi số tiền bồi thường thiệt hại của bị đơn là 1.372.492.783 đồng đã được nguyên đơn chấp nhận toàn bộ. Nhưng cấp sơ thẩm lại ghi là ghi nhận sự tự nguyện là không đúng, cần phải viết lại cho đúng là chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Kỹ Thuật H. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 27/2022/KDTM-ST ngày 05/4/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. |
19 |
|
Bản án số 154/2022/KDTM-PT ngày 5,7 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố
Về việc: “Tranh chấp Hợp đồng xây dựng” Tóm tắt nội dung vụ việc: Ngày 15/3/2017, Công ty B là bên giao thầu với Công ty E là bên nhận thầu ký Hợp đồng cung cấp, thi công kính mặt dựng số 1503/2017/HĐTC/BCONS-EUR thi công xây dựng gói thầu số “ĐP11: Thi công vách kính mặt dựng ngoài nhà” thuộc dự án “Tòa nhà đa năng Đức Phương” tại số 99 Trần Bình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Trong đó, Giá trị Hợp đồng tạm tính là: 6.935.182.000 đồng (đã bao gồm thuế VAT 10%). Thanh toán: Việc thanh toán thực hiện trên cơ sở khối lượng công việc thực tế hoàn thành, được nghiệm thu từng đợt nhân với đơn giá và chia thành 2 Đợt thanh toán: Đợt 1: Sau khi Bên B cung cấp lắp đặt đạt 50% khối lượng theo m2, Bên A thanh toán đến 80% giá trị khối lượng công việc. Đợt 2: Khi Bên B thi công lắp đặt 50% khối lượng công việc còn lại, Bên A thanh toán đến 80% giá trị khối lượng công việc hoàn thành. Quyết toán: Sau khi Bên B hoàn thành các công việc theo Hợp đồng, được xác nhận và nghiệm thu của Bên A, Bên A sẽ thanh toán 100% Giá trị quyết toán. Lãi chậm thanh toán: Căn cứ mục 9.7 Điều 9 của Hợp đồng thì nếu Bên A không thanh toán đủ và đúng hạn ghi trong Hợp đồng, Bên A sẽ phải trả lãi chậm thanh toán với lãi suất 0,5%/ngày trên tổng số tiền đến hạn thanh toán. Do công ty B trong quá trình thực hiện hợp đồng không thanh toán Do đó, Công ty E yêu cầu Công ty B phải thanh toán cho Công ty E tổng số tiền cả gốc và lãi là 5.630.323.405 đồng trong đó: Số tiền nợ gốc là: 3.247.951.200 đồng và Khoản tiền lãi chậm thanh toán tính trên nợ gốc tính từ ngày 14/01/2018 đến ngày 20/12/2021 là: 0,05% x 3.247.951.200đồng x 1457 ngày = 2.366.132.449 đồng. Công ty ty B có yêu cầu phản tố đề nghị Toà án xem xét buộc Công ty E thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng với số tiền là 304.500.000 đ và hoàn trả tiền tạm ứng chưa thu hồi là 175.048.600đ cho Công ty B. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty CP E đối với Công ty CP Xây dựng B về việc “Tranh chấp phát sinh từ HĐ cung cấp, thi công kính mặt dựng”. Công ty CP Xây dựng B còn nợ của Công ty CP E số tiền gốc: 3.247.951.200 đồng đồng (Theo HĐ cung cấp, thi công kính mặt dựng số 1503/2017/HĐTC/BCONS-EUR ngày 15/03/2017) và tiền lãi chậm thanh toán tính đến ngày 20/01/2022 là: 2.382.372.205 đồng. Tổng cộng: 5.630.323.405đ. Buộc Công ty CP Xây dựng B phải thanh toán trả Công ty CP E số tiền: 5.630.323.405đ. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty CP Xây dựng B. Buộc Công ty CP E phải thanh toán 304.500.000 đ tiền phạt vi phạm hợp đồng và hoàn trả tiền tạm ứng 175.048.600 đ cho Công ty CP Xây dựng B. Đối trừ 2 khoản tiền trên thì Công ty CP Xây dựng B còn phải thanh toán trả cho Công ty CP E tổng cộng: 5.150.774.805đ. Bác các yêu cầu khác của đương sự. – Sau khi xét xử sơ thẩm: Công ty B kháng cáo 1 phần bản án với nội dung sau: Công ty E chưa nộp hồ sơ quyết toán, công trình chưa được nghiệm thu, chưa kết thúc thời hạn bảo hành nhưng Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty E buộc Công ty B thanh toán 100% giá trị theo hợp đồng là không đúng. Đề nghị sửa Bản án sơ thẩm theo hướng: Công ty B sẽ thanh toán cho Công ty E nợ gốc : 1.556.414.800đồng, nợ lãi 1.141.630.255đồng , tổng 2.698.045.055đồng. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Căn cứ vào hợp đồng thì thời hạn hết bảo hành là ngày 31/12/2019, sau ngày 31/12/2019 Công ty B chưa thanh toán là vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty B phải trả cho Công ty E lãi suất chậm thanh toán là phù hợp điều 9.7 của Hợp đồng. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty B phải chịu lãi suất chậm thanh toán từ ngày 31/12/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm là không đúng, do vậy chấp nhận 1 phần kháng cáo của Công ty B theo đó buộc Công ty B phải chịu lãi suất chậm thanh toán từ ngày 1/1/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm. Tính đến ngày 1/1/2020, Công ty B còn nợ Công ty E số tiền : 6.059.939.000 đồng – 1.211.987.800 đồng ( hoàn tạm ứng) – 1.300.000.000 đồng = 3.547.951.200đ. Tính đến ngày 10/9/2020 Công ty B còn nợ Công ty E : 3.547.951.200 đồng – 300.000.000 đồng = 3.247.951.200 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty B trả Công ty E số tiền nợ gốc 3.247.951.200 đồng là có căn cứ, nên chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty B buộc Công ty E hoàn trả tiền tạm ứng chưa thu hồi là 175.048.600 đồng và tiền phạt vi phạm hợp đồng với số tiền là 304.500.000 đồng là phù hợp với bảng tính giá trị đề nghị thanh toán ký ngày 28/12/2017 giữa 2 công ty, Công ty B, Công ty E không kháng cáo nên phần này giữ nguyên. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của Công ty cổ phần xây dựng B. Sửa Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2022/ KDTM – ST, ngày 21 tháng 1 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm |
28 |
|
Bản án số 66/2023/KDTM-PT ngày 11 ngày 4 năm 2023 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
Về việc: “Tranh chấp Hợp đồng thi công xây dựng và hợp đồng bảo lãnh” Tóm tắt nội dung vụ việc: Ngày 25/05/2018, giữa Công ty cổ phần xây lắp Mac (sau đây gọi tắt là Công ty Mac hoặc nguyên đơn ) và Công ty cổ phần BTC (sau đây gọi tắt là Công ty BTC hoặc bị đơn) đã ký kết Hợp đồng số 50/18/TTHĐ/BTC JSC- MAC (gọi tắt là hợp đồng số 50) về việc thi công phần việc còn lại của gói thầu BP2.4.1 Dự án The MCP tại phường ĐK , quận HM và xã TL, huyện TT, Hà Nội. Thời hạn thực hiện hợp đồng là 180 ngày kể từ ngày ký hợp đồng. Thực hiện hợp đồng, Công ty BTC đã chuyển cho Công ty Mac số tiền tạm ứng là: 35.860.927.622 (ba mươi lăm tỷ tám trăm sáu mươi triệu chín trăm hai mươi bảy ngàn sáu trăm hai mươi hai) đồng. Trong thời hạn QD bảo lãnh cho công ty Mac , do chưa thực hiện xong công việc nên Công ty BTC đã yêu cầu QD gia hạn nhiều lần. Công ty Mac đã triển khai công việc theo đúng thỏa thuận trong Hợp đồng, tuy nhiên về tiến độ thời gian thực hiện công việc bị chậm trễ so với thỏa thuận tại hợp đồng. Do phát sinh các tình huống khiến công việc bị chậm trễ nên hai bên đã thống nhất thỏa thuận về việc gia hạn thời gian thực hiện Hợp đồng. Ngày 13/11/2019, Công ty BTC đã ra thông báo về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng thi công đã ký kết nêu trên, Thông báo được gửi qua Email với lý do chấm dứt hợp đồng là: do công ty Mac đã vi phạm hợp đồng. Sau đó, phía công ty Mac đã nhiều lần gửi hồ sơ và công văn đề nghị Công ty BTC xác nhận khối lượng dở dang và thanh lý Hợp đồng nhưng Công ty BTC không thực hiện, không phản hồi cho công ty Mac . Vì vậy, Công ty Mac khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân quận NTL buộc Công ty BTC phải bồi thường do tự ý chấm dứt hợp đồng dẫn đến việc Công ty Mac phải chịu các thiệt hại từ việc chấm dứt hợp đồng gây ra. Bởi vì: Lý do chấm dứt hợp đồng của Công ty BTC là không có căn cứ, không đúng với thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng, cụ thể: Ngày 25/05/2018 hai bên ký hợp đồng, ngay sau khi ký hợp đồng thì Công ty Mac đã tiến hành công việc. Về tiến độ hoàn thành công việc có số liệu và kết quả, được giám sát hiện trường ký nhận, đồng thời Công ty Mac cũng hoàn thiện hồ sơ nghiệm thu thanh toán gửi Ban quản lý dự án để xác nhận thanh toán. (có các hồ sơ kèm theo). Trên thực tế thì khối lượng công việc hoàn thành hàng ngày đều có các giám sát viên xác nhận (có khoảng 6 giám sát viên của Công ty BTC ) và cho đến ngày 13/11/2019 (là ngày Công ty BTC có thông báo chấm dứt hợp đồng), hai bên vẫn ký xác nhận nghiệm thu bình thường. Về khối lượng công việc đã hoàn thành và giá trị thanh toán thì trong quá trình giải quyết vụ án, hai bên đã xác nhận với nhau đúng như Công ty Mac trình bày. Ngoài ra, Công ty BTC có yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án buộc Công ty Mac thanh toán số tiền bị thiệt hại do chấm dứt hợp đồng. Tổng giá trị Công ty BTC yêu cầu Công ty Mac bồi thường do vi phạm Hợp đồng gây thiệt hại là: 67.491.431.192 đồng. Công ty Mac có lỗi dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng nên Công ty BTC đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của Công ty Mac . Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền là: 197.058.476 đồng. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại khoản tiền chi phí quản lý dự án là: 23.632.916.077 đồng. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đòi nguyên đơn bồi thường số tiền 67.491.431.192 đồng. Chấp nhận yêu cầu độc lập của Ngân hàng TMCP QD . Tuyên bố các thư bảo lãnh tạm ứng và bảo lãnh thực hiện hợp đồng đã hết hiệu lực. Không đồng ý với bản án sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo bản án. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Thấy rằng việc bị đơn ra thông báo chấm dứt hợp đồng với nguyên đơn là có căn cứ và việc chấm dứt hợp đồng là hoàn toàn do lỗi của nguyên đơn phù hợp với các quy định trong hợp đồng (điều 15.2 khoản c; điều 15.2 khoản b, điều 8 phần điều kiện chung của hợp đồng đã ký và các quy định tại điều 145 Luật xây dựng. Vì vậy, nguyên đơn phải chịu toàn bộ thiệt hại do việc chấm dứt hợp đồng này. Cấp sơ thẩm cho rằng bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng là không có căn cứ và không đúng với thỏa thuận giữa hai bên là chưa khách quan và chưa phản ánh đúng thực tế khách quan của vụ việc. Do vậy, cần chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa án sơ thẩm về vấn đề này. Dựa vào các tài liệu, chứng cứ nhận thấy cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố về việc đòi bồi thường của bị đơn với tổng số tiền là 41.433.249.064 đồng (44.309.121.604 đồng – 2.875.872.540 đồng (là tiền vật tư không được chấp nhận)). Tuy nhiên, thấy rằng quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn đã thanh toán chậm đối với từng đợt thanh toán cho nguyên đơn nên phải chịu lãi chậm trả của các đợt thanh toán theo thỏa thuận với mức lãi suất là 12% với tổng số tiền là 335.419.187 đồng (như nguyên đơn yêu cầu). Như vậy, đối trừ số tiền lãi phải trả này thì bị đơn còn được chấp nhận yêu cầu bồi thường là 41.433.249.064 đồng – 335.419.187 đồng = 41.097.829.877 đồng. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty Cổ phần xây lắp Mac . Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty Cổ phần BTC . Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 24/2022/KDTM-ST ngày 20/7/2022 của Tòa án nhân dân quận NTL , thành phố Hà Nội. |
38 |
|
Bản án số 01/2023/KDTM-PT ngày 03 tháng 01 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh B
Về việc: “ Tranh chấp về Hợp đồng xây dựng” Tóm tắt nội dung vụ việc: Ngày 19/12/2017, Công ty TNHH Xây dựng S(Viết tắt là Sam IL) và Công ty TNHH S1 (Viết tắt là Si Flex) đã ký kết Hợp đồng thi công xây dựng số 19122017-SI/SAMIL, về việc thi công xây dựng nH xưởng và các công trình phụ trợ tại địa điểm: Lô A, Khu công nghiệp Q, xã Q, huyện V, tỉnh B, Việt Nam. Tổng giá trị hợp đồng ký kết là 445.000.000.000VNĐ (Bốn trăm bốn mươi lăm tỷ đồng); Thuế GTGT 0%; thời hạn hoàn tHnh công trình là ngày 30/6/2018. Sau khi ký hợp đồng S đã tuân thủ đầy đủ các điều khoản của hợp đồng ký kết và đã hoàn thiện, bàn giao xong các hạng mục công việc theo thỏa thuận cho Si Flex với tổng giá trị khối lượng đã thực hiện theo hợp đồng là 445.000.000.000 đồng. Toàn bộ khối lượng công việc theo thoả thuận tại hợp đồng thi công xây dựng số 19122017-SI/SAMIL đã được thực hiện đầy đủ và được sự xác nhận của chủ đầu tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, Si Flex có trách nhiệm thanh toán trả đầy đủ cho S số tiền đã thi công theo thoả thuận hợp đồng là 445.000.000.000 đồng. Tuy nhiên, cho đến ngày S khởi kiện, Si Flex mới chỉ thanh toán trả cho S được 09 lần với tổng số tiền là 422.750.000.000VNĐ (Bốn trăm hai mươi hai tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng). Do đó, Công ty S khởi kiện yêu cầu bị đơn trả là 79.126.214.289 đồng. Ngoài ra, A hoàn toàn không chấp nhận các yêu cầu phản tố của Công ty TNHH S1 vì hoàn toàn thiếu căn cứ, không đúng với thực tế và các thoả thuận đã ký kết trong hợp đồng và quá trình đấu thầu. Bên cạnh đó, Công ty S Chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập mà M đưa ra về việc trả số tiền 7.281.430.000 đồng (Bảy tỷ, hai trăm tám mươi mốt triệu, bốn trăm ba mươi nghìn đồng) phát sinh từ Hợp thầu phụ số 170118-SI FLEX/MC ngày 17/01/2018 và Phụ lục hợp đồng số 01 kèm theo hợp đồng thầu phụ và 2.000.000.000 đồng tiền phạt chậm thanh toán. Tổng cộng S đồng ý trả M số tiền 9.281.430.000 đồng, đồng ý mỗi bên chịu ½ án phí. Si Flex chấp nhận trả Ssố tiền 22.250.000.000 đồng nhưng yêu cầu khấu trừ vào số tiền phạt chậm tiến độ bàn giao công trình, chi phí khắc phục sửa chữa những khiếm khuyết của công trình, chi phí bồi thường thiệt do chậm tiến độ. Như vậy, khi khấu trừ khoản phạt vi phạm mà SpH thanh toán vào tổng giá trị hợp đồng thì nên được hiểu là Si Flex đã thanh toán đầy đủ tổng giá trị hợp đồng cho Sam IL. Đối với các hạng mục phát sinh còn lại, Skhông cung cấp cho Si Flex các tài liệu, chứng từ chứng minh hợp lệ, đầy đủ. Vì vậy, Si Flex không đồng ý và không có nghĩa vụ thanh toán các hạng mục này cho Sam Il. Ngoài ra, bị đơn có yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn trả số tiền là 27.534.342 đồng vì hành vi vi phạm hợp đồng của S làm S1 gánh chịu những thiệt hại, tổn thất. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguY đơn đối với bị đơn. Buộc Công ty Si Flex pH thanh toán trả công ty Ssố tiền 47.351.212.953 đồng (bốn mươi bẩy tỷ ba trăm lăm mốt triệu hai trăm mười hai nghìn chín trăm lăm ba đồng) Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguY đơn. Buộc công ty Scó trách nhiệm thanh toán trả công ty Si Flex số tiền 10.841.737.000 đồng (mười tỷ tám trăm bốn mốt triệu bẩy trăm ba mươi bẩy nghìn đồng). Khấu trừ 02 khoản tiền mà các bên pH trả cho nhau. Cần buộc Công ty TNHH S1 pH thanh toán trả công ty TNHH xây dựng Ssố tiền 36.509.475.953 đồng (ba mươi sáu tỷ năm trăm linh chín triệu bốn trăm bẩy mươi lăm nghìn chín trăm lăm ba đồng). Công nhận sự thỏa thuận của công ty TNHH xây dựng Svà công ty cổ phần cơ khí xây lắp thương mại M: Công ty Scó trách nhiệm thanh toán trả cho công ty M số tiền 9.281.430.000 đồng (chín tỷ hai trăm tám mươi mốt triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng). Đình chỉ yêu cầu của Công ty cổ phần cơ khí xây lắp thương mại M về việc yêu cầu Công ty TNHH xây dựng SpH thanh toán số tiền 6.204.300.000 đ phát sinh từ Phụ lục hợp đồng số 01. Ngày 16/9/2022, đại diện nguY đơn là Công ty TNHH xây dựng S có đơn kháng cáo đối với một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Buộc công ty TNHH S1 pH thanh toán cho Công ty TNHH xây dựng Stoàn bộ số tiền thi công của khối lượng công việc phát sinh của hai hạng mục là chi phí san lấp và giảm trừ hố pít, sơn chống cháy kết cấu thép với tổng giá trị là 16.427.600.000 đồng; pH chịu tiền phạt và tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán số tiền này. Do lỗi của Công ty TNHH S1 trong việc triển khai và hoàn tHnh dự án nên Công ty TNHH Xây dựng Skhông pH chịu tiền phạt vi phạm hợp đồng do lỗi chậm tiến độ. Ngày 16/9/2022, đại diện bị đơn là Công ty TNHH S1 kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm thẩm sửa bản án theo hướng: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu bồi thường thiệt hại, chi phí sửa chữa liên quan đến rò rỉ hố pít, nứt trần khu văn phòng, dột mái panel nH xưởng; Công ty TNHH S1 không pH chịu tiền phạt và lãi chậm trả đối với số tiền 22.250.000.000 đồng vì Công ty TNHH Xây dựng Skhông thực hiện phát Hnh thư bảo lãnh và thực hiện nghĩa vụ bảo hành; Công ty TNHH S1 không pH thanh toán cho Công ty TNHH Xây dựng Ssố tiền 3.854.000.000 đồng chi phí phát sinh và không pH chịu tiền phạt và lãi chậm trả đối với số tiền trên; Buộc Công ty TNHH Xây dựng SpH chịu phạt 22.250.000.000 đồng do chậm tiến độ bàn giao công trình. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Phía S xác nhận hai bên không thực hiện các thủ tục trên, thực hiện các công việc phát sinh theo yêu cầu và mệnh lệnh thi công tại công trường nhưng phía Si Flex không thừa nhận và không đồng ý nội dung này. Ngoài lời khai, Skhông cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác. Do đó, Công ty Si Flex không chấp nhận thanh toán các chi phí phát sinh theo yêu cầu của Slà có căn cứ, phù hợp với thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng xây dựng đã ký kết và phù hợp với quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguY đơn về việc buộc bị đơn pH thanh toán khoản chi phí phát sinh 16.427.600.442 đồng là đúng pháp luật. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của Công ty Svề nội dung này. Quan điểm của Công ty Si Flex là phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng và quy định của pháp luật nên có cơ sở chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào ý kiến của Công ty Si Flex tại phiên hòa giải để buộc bị đơn pH thanh toán khoản tiền này là không đảm bảo. Do vậy, cần chấp nhận kháng cáo của Công ty Si Flex, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không buộc Công ty Si Flex pH thanh toán khoản chi phí phát sinh 3.850.000.000 đồng này cho phía Sam IL. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào thời điểm kết thúc thời hạn bảo Hnh mà không xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu chứng cứ khác, xác định Công ty Si Flex vi phạm nghĩa vụ hoàn trả Công ty Ssố tiền 22.250.000.000 đồng kể từ ngày hết thời hạn bảo Hnh (6/3/2021) đến ngày xét xử sơ thẩm là không đúng. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Đình chỉ xét xử một phần kháng cáo của Công ty TNHH xây dựng S về số tiền phạt do chậm tiến độ. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn. Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 05-9- 20221 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh B. |
62 |
|
Bản án số 23/2019/KDTM-PT ngàu 26 tháng 9 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng thi công” Tóm tắt nội dung vụ việc: Ngày 24/4/2017, Công ty TNHH T (sau đây viết tắt là Công ty T); địa chỉ trụ sở chính: thị xã TA, tỉnh Bình Dương có ký kết Hợp đồng kinh tế số: T- 2017.04.24-TH với Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – xây dựng D TH (sau đây viết tắt là Công ty TH) về việc cung cấp và lắp đặt hệ thống điện, trạm biến áp 560KVA22/0,4KV và đường dây trung thế cho dự án Nhà máy WS (không bao gồm máy biến áp); địa điểm xây dựng tại nhà máy Công ty TNHH WS (sau đây viết tắt là Công ty WS); địa chỉ: tỉnh Đồng Nai. Trong quá trình thực hiện hợp đồng nguyên đơn đã nhiều lần nhắc nhở nhưng bị đơn không thanh toán các chi phí theo hợp đồng. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH T thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng là 142.267.338 đồng; chi phí phát sinh 355.234.000 đồng; tiền lãi chậm thanh toán; tiền lãi từ ngày 09/02/2018 đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm là 22.626.000 đồng; tổng cộng là 520.127.338 đồng (năm trăm hai mươi triệu một trăm hai mươi bảy nghìn ba trăm ba mươi tám đồng). Sau đó, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng là 142.267.338 đồng; chi phí phát sinh 355.234.000 đồng; tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 09/3/2018 đến ngày Tòa án ra Quyết định xét xử là ngày 04/4/2019 là trên 13 tháng nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu tính tiền lãi tròn 13 tháng x 12%/năm = 64.600.000 đồng, tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán là 562.101.338 đồng. Bị đơn không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, với lý do như sau: Sau khi ký kết và thi công Hợp đồng kinh tế số: T-2017.04.24-TH ngày 24/4/2017 với Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại – xây dựng D TH về việc cung cấp và lắp đặt hệ thống điện, hàng tháng bị đơn đã thanh toán đầy đủ cho nguyên đơn theo khối lượng thực tế đã thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn như đã thỏa thuận trong Điều 4 của hợp đồng. Trước đây bị đơn có yêu cầu phản tố, phản tố bổ sung đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do nguyên đơn thực hiện không đúng thời gian, tiến độ thi công làm ảnh hưởng đến hoạt động của công trình số tiền là 142.267.338 đồng. Nay bị đơn xác định xin rút lại yêu cầu phản tố, phản tố bổ sung. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TH về việc yêu cầu bị đơn Công ty TNHH T phải thanh toán số tiền 142.267.338 đồng, chi phí phát sinh là 355.234.000 đồng và tiền lãi 64.600.000 đồng, tổng cộng 562.101.338 đồng. Đình chỉ yêu cầu phản tố, yêu cầu phản tố bổ sung của bị đơn Công ty TNHH T về yêu cầu nguyên đơn Công ty TH phải thanh toán số tiền là 142.267.338 đồng do thi công không đúng thời gian, tiến độ thi công làm ảnh hưởng đến hoạt động của công trình. Ngày 27/5/2019, nguyên đơn Công ty TH có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Từ những chứng cứ, tài liệu, và các phân tích nhận thấy có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty TH; sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền còn phải thanh toán theo Hợp đồng T- 2017.04.24-TH ngày 24/4/2017 là 142.267.338 đồng và 15.828.427 đồng tiền lãi của số tiền gốc 142.267.338 đồng tính từ ngày 09/3/2018 đến ngày 04/4/2019; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thanh toán chi phí phát sinh là 355.234.000 đồng (bao gồm nhân công và vật tư) và 48.771.573 đồng tiền lãi của số tiền gốc 355.234.000 đồng tính từ ngày 09/3/2018 đến ngày 04/4/2019. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty TH. Sửa Bản án sơ thẩm số 04/2019/KDTM-ST ngày 16/5/2019 của Tòa án nhân dân thị xã TA, tỉnh Bình Dương. |
87 |
|
Bản án số 03/2022/KDTM-ST ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân quận C, TP. Cần Thơ
Về việc: “ Tranh chấp hợp đồng thi công” Tóm tắt nội dung vụ việc: Công ty A(sau đây viết tắt Công ty SHP) và Công ty Bnay là Công ty Cổ Phần Đầu Tư Xây Lắp Đại Quang Minh (sau đây viết tắt Công ty Đại Quang Minh) có ký hợp đồng số 08/2020/HĐXD về việc thi công xây dựng công trình: Đường Rạch Vẹt – Xẻo Tràm, xã Trà Côn, huyện Trà Ôn (bao gồm chi phí xây dựng nhà tạm) thuộc công trình Đường Rạch Vẹt – Xẻo Tràm, xã Trà Côn, huyện Trà Ôn (gọi tắt là HĐ 08) ngày 04/06/2020. Công ty SHP tiến hành thanh toán cho Công ty Đại Quang Minh chi phí ban đầu (kèm theo Biên bản thanh toán ngày 25/06/2020 với số tiền: 571.743.400 đồng. Ngày 11/09/2020 Công ty Đại Quang Minh có tạm ứng cho Công ty SHP số tiền: 869.000.000 đồng (sau khi công ty Công ty Đại Quang Minh đệ trình khối lượng thanh toán đợt 01 với Chủ đầu tư). Ngày 20/10 công ty SHP gởi thông báo số 02 ngày 20/10/2020 và thông báo số 03 ngày 23/10/2020 yêu cầu thanh toán số tiền 502.945.000 đồng, Công ty Đại Quang Minh không có công văn trả lời hay bất cứ yêu cầu nào về khoản thanh toán đợt 1. Sau khi nhận lại công trình Công ty Đại Quang Minh đã được Chủ đầu tư thanh toán khối lượng đợt 03 ngày 31/12/2020 nhưng không thanh toán cho công ty SHP vi phạm nghiêm trọng (03 lần thanh toán không trả tiền theo hợp đồng và thỏa thuận) nên Công ty SHP khởi kiện bổ sung ngày 12/01/2021 lần 2 (vi phạm thỏa thuận thanh toán ngày 06/11/2020). Thanh toán đợt 03 này chính là thanh toán lần cuối cùng của công ty Đại Quang Minh vì không có năng lực thi công và nợ nhiều đối tác nên bị Chủ đầu tư cắt hợp đồng. Vì vậy, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc Công ty Btrả số tiền là 1.902.751.000 đồng. Không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn. Ngoài ra việc bị đơn thanh toán tiền bơm cát cho ông Lý Công Luận và ông Nguyễn Văn Sinh là quan hệ khác, không liên quan trong vụ án nên nguyên đơn không đồng ý với yêu cầu khấu trừ số nợ này của bị đơn. Công ty Đại Quang Minh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty SHP. Bị đơn phản tố yêu cầu nguyên đơn trả số tiền còn nợ bơm cát của ông Lý Công Luận là 242.553.600 đồng, tiền đào đất của ông Nguyễn Văn Sinh với số tiền là 30.000.000 đồng, tiền thuế xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty Đại Quang Minh trên số tiền 1.400.000.000 đồng (hóa đơn VAT) là 140.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Từ các chứng cứ tài liệu, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc yêu cầu thanh toán theo hợp đồng thi công và lãi chậm thanh toán là có cơ sở chấp nhận. Buộc bị đơn có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền là 2.046.998.069 đồng (Hai tỷ không trăm bốn mươi sáu triệu chín trăm chín mươi tám ngàn không trăm sáu mươi chín đồng). Trong đó tiền gốc là 1.794.751.700 đồng và tiền lãi tính tới ngày xét xử 29/4/2022 là 252.246.369 đồng. Bị đơn có yêu cầu phản tố nhưng không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ gì liên quan đến việc Công ty Đại Quang Minh trả nợ thay cho Công ty SHP theo hợp đồng thi công số 08/2020/HĐXD ngày 04/6/2020 kể từ sau ngày ký biên bản thanh toán chi phí (ngày 06/11/2020). Do đó, nhận thấy yêu cầu phản tố của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ xây dựng SHP đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn xây lắp Đại Quang Minh. Bác yêu cầu phản tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn xây lắp Đại Quang Minh đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ xây dựng SHP. …xem tiếp tại file pdf |
101 |
LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 20 bản án tranh chấp hợp đồng xây dựng đương sự có yêu cầu phản tố
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn