FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2022/DSST ngày 01/7/2022 của Tòa án nhân dân quận C R thành phố C T.
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyên đơn trình bày: – Vào ngày 23/7/2009, nguyên đơn có ký hợp đồng mua bán nhà số 504/HĐTĐC với Công ty CP XD CT GT 586 chi nhánh C T căn nhà tọa lạc tại địa chỉ B6-53, đường 22B, khu dân cư 586, khu vực Thạnh Thới, phường P T, quận C R, thành phố C T. Theo hợp đồng hai bên thỏa thuận việc thanh toán chia thành 06 đợt thanh toán, phía nguyên đơn đã thực hiện việc thanh toán đầy đủ và đúng tiến độ 05 đợt với số tiền tổng cộng là 460.000.000 đồng, đợt cuối cùng là 25.000.000 đồng thì nguyên đơn sẽ thanh toán khi Công ty 586 bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. – Đã hơn 11 năm trôi qua Công ty 586 vẫn chưa bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho nguyên đơn mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu Công ty 586 giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Công ty cứ hứa hẹn, nhiều năm liền và cố tình không bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho nguyên đơn. – Nguyên đơn thấy quyền lợi của nguyên đơn bị xâm phạm, nên nguyên đơn làm đơn khởi kiện yêu cầu Công ty 586 phải thực hiện việc bàn giao và làm các thủ tục cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn, đồng thời nguyên đơn sẽ sẵn sàng đóng số tiền 25.000.000 đồng trước khi cấp GCNQSDĐ. – Vào ngày 29/4/2021, nguyên đơn có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Công ty 586 phải tiếp tục thực hiện “hợp đồng mua bán nhà” và buộc bàn giao các thủ tục cấp GCNQSDĐ và nhà ở cho nguyên đơn, đồng thời nguyên đơn sẽ sẵn sàng đóng số tiền 25.000.000 đồng trước khi cấp GCNQSDĐ và nhà ở. Bị đơn trình bày: – Bị đơn đồng ý với lời trình bày của nguyên đơn về việc có giao kết hợp đồng mua bán nhà ở. Tổng giá trị hợp đồng mua bán nhà là 485.000.000 đồng, nguyên đơn đã thanh toán cho công ty số tiền 460.000.000 đồng, số tiền còn lại là 25.000.000 đồng, bà T sẽ nộp khi Công ty bàn giao GCNQSDĐ quyền sở hữu nhà cho bà Thảo, ngày 30/6/2020 công ty đã có Biên bản làm việc với các hộ dân và đã thống nhất đồng ý cho công ty gia hạn thời gian bàn giao GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở vào ngày 11/01/2021. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì giữa nguyên đơn và bị đơn có ký kết, thiết lập hợp đồng mua bán nhà ngày 23/7/2009 có chữ ký của các bên để thực hiện việc mua bán căn nhà một trệt, một lầu xây dựng hoàn thiện. Tổng giá trị căn nhà 485.000.000 đồng chia thành 6 đợt thanh toán. Nguyên đơn đã thanh toán được 460.000.000 đồng. Còn 25.000.000 đồng các bên thỏa thuận nguyên đơn sẽ thanh toán khi bị đơn hoàn thành việc bà giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho nguyên đơn. Vào ngày 19/5/2010 bị đơn đã bàn giao nhà cho nguyên đơn theo biên bản bàn giao nhà thô để cho nguyên đơn sử dụng. Sau khi nhận nhà thì phía nguyên đơn đã xây dựng hoàn chỉnh và ở trên phần đất này từ năm 2009 cho đến nay. Phía bị đơn không thực hiện theo thỏa thuận của nội dung hợp đồng là làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của căn nhà nói trên cho nguyên đơn là vi phạm theo nội dung thỏa thuận tại Điều 3.2 của hợp đồng mua bán nhà số 504/HĐTĐC ngày 23/7/2009. Nhận thấy, mục đích và nội dung của giao dịch mua bán của hai bên được xác lập dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và được lập bằng văn bản, có chữ ký của hai bên không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp tiền cho bị đơn bằng hình thức nộp trực tiếp 05 đợt tổng cộng 460.000.000 đồng như nội dung hợp đồng đã thỏa thuận, phía bị đơn cũng thừa nhận việc này. Vào thời điểm năm 2012 thì bị đơn đã được cấp GCNQSDĐ nhưng lại không làm thủ tục sang tên, phía nguyên đơn cũng đã khiếu nại nhiều lần và lần sau cùng bị đơn cam kết sẽ bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 21/01/2021. Hiện tại, cho đến giai đoạn hiện nay các bên có đủ điều kiện để thực hiện việc chuyển nhượng QSDĐ, thủ tục sang tên theo quy định như bên chuyển nhượng đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không bị hạn chế quyền sử dụng đất và bên nhận chuyển nhượng không thuộc trường hợp không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai cũng như Luật kinh doanh bất động sản và Luật nhà ở. Đối với phần trình bày của đại diện ủy quyền cho bị đơn nêu nguyên đơn đã đồng ý các bên có thỏa thuận đến ngày 11/01/2021 thì sẽ giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho nguyên đơn là chưa phù hợp. Bởi lẽ, phía bị đơn đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 13/03/2012 đáng lẽ ra phải làm thủ tục sang tên cho nguyên đơn nhưng phía bị đơn không thực hiện và bị đơn cam kết đến ngày 11/01/2021 sẽ giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đến nay bị đơn vẫn không thực hiện. Do bị đơn không thực hiện đúng như cam kết nên đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận hợp đồng mua bán nhà số 504/HĐTĐC ngày 23/07/2009 giữa nguyên đơn và Võ T T T và bị đơn Công ty CP XD CT GT 586, Công ty CP XD CT GT 586 chi nhánh C T. Buộc bị đơn Công ty CP XD CT GT 686, Công ty CP XD CT GT 586 chi nhánh CT có nghĩa vụ hỗ trợ làm các thủ tục pháp lý để cấp chủ quyền căn nhà và phần đất tranh chấp nêu trên. Khi nguyên đơn bà Võ T T T được đứng tên trên phần nhà và đất nói trên thì có nghĩa vụ trả cho bị đơn số tiền 25.000.000 đồng theo như nội dung thỏa thuận của hợp đồng mua bán. Trong trường hợp Công ty không hỗ trợ làm các thủ tục pháp lý để cấp chủ quyền căn nhà và đất nói trên cho nguyên đơn thì sau khi nguyên đơn thanh toán xong số tiền 25.000.000 đồng cho bị đơn thì có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục kê khai, đăng ký theo quy định pháp luật đối với nhà và đất nói trên. 2. Về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo. |
1-10 |
2 |
Bản án dân sự sơ thẩm số 264/2022/DS-ST ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.
Về việc: “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà” Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyên đơn trình bày: – Ngày 19/12/2018, bà Nguyễn Thị Diễm H và bà Lê Thị Thu T có lập Văn bản thỏa thuận về việc bà T chuyển nhượng nhà đất tọa lạc tại địa chỉ có số nhà chung là 45/36/15 đường A, phường 4, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Giá chuyển nhượng 1.200.000.000 đồng và bà H đã thanh toán đủ số tiền trên cho bà T. Việc nhận số tiền, thực hiện giao dịch này đã được bà H, bà T tiến hành lập Vi bằng tại Văn phòng Thừa phát lại Quận 8. – Sau khi ký Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng nhà đất ngày 19/12/2018, bà T cam kết một tuần sau sẽ bàn giao nhà cho bà H. Tuy nhiên, sau một tuần trôi qua, bà H liên lạc cho bà T để yêu cầu thực hiện đúng những gì đã thỏa thuận là bàn giao căn nhà trên cho bà H, nhưng bà T cố tình trốn tránh không thực hiện đúng những gì đã cam kết và thỏa thuận với bà H. – Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bà H đã khởi kiện bà T để yêu cầu: Buộc bà T tiếp tục thực hiện đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng bàn giao nhà đất tọa lạc tại địa chỉ nêu trên. – Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bà H nhận thấy nhà, đất tọa lạc tại địa chỉ trên chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Do đó nhà, đất này không đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định của pháp luật và đối tượng của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà giữa bà H và bà T không thể thực hiện. – Bà H nộp đơn khởi kiện bổ sung: + Yêu cầu Tòa án tuyên hủy Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giữa bà và bà T do đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được; + Yêu cầu Tòa án buộc bà T phải hoàn trả lại cho bà H toàn bộ số tiền 1.200.000.000 đồng mà bà H đã thanh toán cho bà T. Trong quá trình giải quyết vụ án không triệu tập được bị đơn nên không có lời khai, lời trình bày của bị đơn đối với nội dung vụ án. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Về việc tồn tại Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giữa bà T và bà H là có thật. Giá trị chuyển nhượng căn nhà trên là 1.200.000.000 đồng và bà H đã thanh toán đủ số tiền trên cho bà T. Việc nhận số tiền, thực hiện giao dịch này đã được bà H, bà T tiến hành lập Vi bằng tại Văn phòng Thừa phát lại Quận 8. Hội đồng xét xử xét thấy, giữa bà H với bà T có xác lập Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ngày 19/12/2018, bà H đã thanh toán cho bà T số tiền 1.200.000.000 đồng nhưng bà T vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận. Trong quá trình giải quyết vụ án, để làm rõ giao dịch trên giữa bà H và bà T, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bà T nhưng bà T không đến Tòa án để tự khai, hòa giải và tham gia phiên tòa. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp theo quy định tại các Điều 423, 427 Bộ luật dân sự 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. 1.1. Tuyên bố: Hủy Văn bản thỏa thuận xác lập ngày 19/12/2018 giữa bà H và bà T về việc bà T chuyển nhượng cho bà H nhà đất tọa lạc tại địa chỉ có số nhà chung là 45/36/15 đường A, phường 4, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. 1.2. Buộc bà Lê Thị Thu T hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Diễm H số tiền là 1.200.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. 2. Về án phí dân sự sơ thẩm. 3. Về quyền kháng cáo. |
11-18 |
3 |
Bản án dân sự sơ thẩm số: 17/2022/DS-ST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Về việc: “Tranh chấp về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyên đơn trình bày: – Vào khoảng tháng 7/2020 vợ chồng nguyên đơn có cho bà Trần Thị Bảo C (em cô L) thuê nhà và đất có địa chỉ T, tổ 35B, phường X, quận T, thành phố Đ, theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 340203170 cấp ngày 25/4/2002. – Đến ngày 20/1/2021, bà Trần Thị Bảo V (chị bà C) là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Vật tư xây dựng N từ thành phố H về tìm đến vợ chồng nguyên đơn để hỏi mua nhà đất nêu trên với giá trị 1.600.000.000 đồng. Bà Q và ông B đã đồng ý bán và tín nhiệm giao hết tất cả giấy tờ nhà đất liên quan để bà V xử lý, với thỏa thuận số tiền trên sẽ được thanh toán một lần khi hai bên ký kết hợp đồng tại Phòng Công chứng; đồng thời ngày 20/01/2021 nguyên đơn cũng đã làm biên bản bàn giao tài sản cho bà V-người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Vật tư Xây dựng N ngay sau khi các bên thống nhất. – Đến ngày 28/01/2021 giữa vợ chồng bà Q, ông B và đại diện Công ty TNHH Vật tư Xây dựng N do bà V làm giám đốc đã thực hiện xong việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng tại phòng công chứng số 02 thành phố Đ, thì bà V hẹn để Công ty đăng ký làm thủ tục sang tên trước bạ và nộp các khoản thuế xong thì sẽ thanh toán cho bà Q và ông B. Được biết bị đơn hoàn thành thủ tục sang tên vào ngày 19/3/2021 nhưng vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà lần lượt hẹn nguyên đơn với rất nhiều lý do khác nhau. Do đó, nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc: Công ty TNHH Vật liệu Xây dựng N thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho nguyên đơn theo Hợp đồng chuyển nhượng ngày 28/1/2021, số tiền 1.600.000.000 đồng. Trả lãi trên số tiền chậm trả từ ngày 28/1/2021 đến ngày 23/5/2022 và lãi phát sinh cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả tiền với mức lãi suất 10%/năm theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của BLDS. Tổng cộng cả gốc và lãi yêu cầu bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 1.810.849.315 đồng. Bị đơn Công ty TNHH Vật tư Xây dựng N không có văn bản trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bên chuyển nhượng là ông B cùng vợ là bà Q, bên nhận chuyển nhượng là Công ty TNHH Vật tư Xây dựng N. Theo nguyên đơn trình bày thì trước thời điểm ra công chứng thì ngày 28/1/2021 giữa hai bên có bàn bạc, thỏa thuận là khi ra công chứng thì bên nhận chuyển nhượng sẽ giao đủ số tiền 1.600.000.000 đồng nên bà Q đã viết “giấy bàn giao” ghi ngày 20/1/2021 và giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân của ông B, bà Q, hợp đồng điện nước cho bà V để làm thủ tục. Tuy nhiên, sau khi ký xong hợp đồng chuyển nhượng tại phòng công chứng thì bị đơn lại không thực hiện việc thanh toán tiền như đã thỏa thuận cho bà Q và ông B nên ông bà đã yêu cầu Công ty N phải trả số tiền chưa thanh toán theo Hợp đồng chuyển nhượng là 1.600.000.000 đồng và lãi phát sinh kể từ ngày 28/01/2021 đến ngày 23/5/2022 là: 210.849.315 đồng. Bị đơn là Công ty N không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất giữa bà B, bà Q với Công ty TNHH N được lập tại Phòng Công chứng số 02 thành phố Đ là sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên, không vi phạm điều cấm, không trái với đạo đức xã hội nên được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Theo nội dung hợp đồng thì việc giao nhận tiền do các bên tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật pháp luật. Tại Giấy bàn giao ghi ngày 20/01/2021 thể hiện bà Q giao toàn bộ giấy tờ cho bà Trần Thị Bảo V và thỏa thuận sau khi ra công chứng sẽ giao đủ tiền. Tuy nhiên, sau khi các bên ký kết công chứng thì bị đơn không thanh toán tiền nhận chuyển nhượng cho bà Q, ông B. Ngày 19/3/2021, Công ty N đã được Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ chỉnh lý biến động đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Do đó, có căn cứ để xác định bị đơn chưa thanh toán tiền nhận chuyển nhượng cho nguyên đơn; bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán như cam kết giữa các bên nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh toán số tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là 1.600.000.000 đồng là phù hợp với các Điều 274, 275 và Điều 440 của Bộ luật dân sự. Đối với yêu cầu tính lãi: Tại biên bản Giao lập ngày 20/1/2021 thể hiện “…Hai bên ra công chứng để ra nhận lại đầy đủ hồ sơ và thanh toán giá trị căn nhà trên là 1.600.000.000 đồng” có chữ lý của bà Trần Thị Bảo V. Như vậy có thể khẳng định các bên thỏa thuận khi ra công chứng sẽ thanh toán tiền thỏa thuận theo hợp đồng chuyển nhượng. Do đó yêu cầu tính lãi của nguyên đơn đối với số tiền lãi là 210.849.315 đồng là có căn cứ, phù hợp với khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 nên cần buộc Công ty N phải có nghĩa vụ trả số tiền như nguyên đơn yêu cầu là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật. Bị đơn là Công ty N mặc dù được tòa án triệu tập để tham gia tố tụng nhưng đại diện bị đơn vắng mặt và không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: 1. Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Tống Chí Q và ông Huỳnh Tuấn B về việc: “Tranh chấp về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” đối với bị đơn là Công ty TNHH Vật tư Xây dựng N. Buộc Công ty TNHH Vật tư xây dựng N phải trả cho nguyên đơn số tiền 1.810.849.315 đồng. 2. Án phí dân sự sơ thẩm, quyền kháng cáo của đương sự. |
19-27 |
4 |
Bản án dân sự sơ thẩm số: 19/2020/DS-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng hùn vốn mua nhà, đất và hợp đồng vay tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyên đơn trình bày: Vào ngày 25/10/2013 chị L có thỏa thuận miệng với chị Tăng Thị L1 (em ruột của chị L) hùn vốn mua 01 căn nhà cấp 4 và phần đất gắn liền với căn nhà thuộc thửa 81, tờ bản đồ số 12, diện tích khoảng 700m2 đất tọa lạc ấp P, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp, với giá 400.000.000 đồng, mục đích hùn vốn mua nhà và đất là để ở. Phần tiền chị L hùn vào để mua nhà, đất là 300.000.000 đồng (trong đó tiền của chị L dành dụm được là 100.000.000 đồng, nhờ bà Lê Thị Mỹ N và ông Lê Văn C vay dùm 200.000.000 đồng). Phần của Tăng Thị L1 hùn vào là 100.000.000 đồng. Khi mua nhà và đất thì chị L giao cho em ruột là Tăng Thị L1 và em rể là Nguyễn Văn H đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do chị em ruột với nhau nên việc hùn vốn nhà, đất và để cho vợ chồng L1, H đứng tên chỉ thỏa thuận miệng, không có lập văn bản. Sau khi mua đất chị có ở trên phần đất đã mua 01 năm để mở tiệm uốn tóc, đến năm 2014 chị lập gia đình và theo chồng về ấp T, xã T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long sinh sống cho đến nay. Hiện nay nhà và đất vợ chồng chị L1 và anh H đã bán với giá 1.100.000.000 đồng, chị đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng chị L1 trả lại cho chị số tiền hùn mua nhà, đất nhưng vợ chồng L1, H hứa hẹn mà không trả. Nay chị L yêu cầu chị Tăng Thị L1 và anh Nguyễn Văn H liên đới trả cho chị L 300.000.000 đồng tiền hùn vốn mua nhà, đất và 300.000.000 đồng tiền chênh lệch giá từ việc bán nhà, đất. Tổng cộng chung là 600.000.000 đồng. Bị đơn trình bày: Vào năm 2013 chị L1 và anh H có nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Đ thửa đất số 81, tờ bản đồ số 12, diện tích 693 m2 tọa lạc ấp P, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp và căn nhà xây dựng trên đất, giá chuyển nhượng là 400.000.000 đồng. Số tiền mua nhà, đất chị L1 và anh H tích góp là 100.000.000 đồng, còn lại 300.000.000 đồng là tiền của chị L cho mượn, khi cho mượn tiền chị L có nói khi nào có tiền thì trả lại cho chị L. Nay chị L yêu cầu anh chị trả cho chị L 300.000.000 đồng tiền hùn vốn mua nhà, đất và yêu cầu chia cho chị L 300.000.000 đồng tiền lời từ việc bán, nhà đất thì chị chỉ đồng ý trả cho chị L số tiền đã mượn là 300.000.000 đồng và tự nguyện trả cho chị L 100.000.000 đồng tiền lãi, không đồng ý trả 300.000.000 đồng tiền lời từ việc bán đất vì chị L không có hùn vốn mua tài sản. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Tăng Thị L, Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo chị L trình bày thì vào ngày 25/10/2013 chị L và chị L1 có hùn vốn mua 01 căn nhà cấp 4 và phần đất gắn liền với căn nhà thuộc thửa 81, tờ bản đồ số 12, diện tích 693 m2 tọa lạc ấp P, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp với giá 400.000.000 đồng, tiền chị L hùn vào là 300.000.000 đồng, việc hùn vốn mua nhà và đất chỉ thỏa thuận miệng, không có lập thành văn bản. Nay vợ chồng chị L1 đã bán tài sản đã mua nhưng không trả tiền cho chị L nên chị L yêu cầu chị L1 và anh H liên đới trả cho chị L 300.000.000 đồng tiền hùn vốn mua nhà, đất và 300.000.000 đồng tiền chênh lệch giá từ việc bán tài sản. Phía chị L1 và anh H không thừa nhận việc hùn vốn mua tài sản như chị L trình bày mà chỉ thừa nhận có mượn của chị L số tiền 300.000.000 đồng để mua nhà và đất nên chỉ đồng ý trả cho chị L số tiền đã mượn là 300.000.000 đồng và tự nguyện trả cho chị L 100.000.000 đồng tiền lãi. Chứng cứ chị L cung cấp là đoạn ghi âm ghi lại việc thỏa thuận hùn vốn mua nhà, đất giữa chị L với chị L1 và chứng cứ từ người làm chứng là bà Lê Thị Mỹ N và ông Lê Văn C. Qua xem xét đánh giá chứng cứ thì nội dung chị L ghi âm thì không thể hiện được việc hùn vốn mua tài sản giữa chị L với chị L1, cũng như qua thu thập chứng cứ từ lời khai của người làm chứng bà Lê Thị Mỹ N và ông Lê Văn C trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa thì bà N và ông C cũng không trực tiếp chứng kiến việc thỏa thuận hùn vốn mua tài sản giữa chị L và chị L1. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì không có cơ sở xác định chị L có giao dịch hùn vốn mua nhà và đất với vợ chồng chị L1 mà chị L chỉ có cho vợ chồng chị L1 mượn số tiền 300.000.000 đồng. Tại phiên tòa chị L1 và anh H đồng ý trả cho chị L số tiền 300.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L. Đối với yêu cầu của chị L yêu cầu chị L1 và anh H trả cho chị L 300.000.000 đồng tiền lời từ việc bán tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy, do không có căn cứ xác định việc hùn vốn mua tài sản nên không chấp nhận yêu cầu này của chị L, tuy nhiên tại phiên tòa chị L1 và anh H tự nguyện trả cho chị L 100.000.000 đồng tiền lãi. Xét thấy, trong số 300.000.000 đồng chị L cho vợ chồng chị L1 mượn thì có 200.000.000 đồng chị L nhờ ông C, bà N vay dùm từ ngân hàng và chị L đã trả lãi hơn 1 năm. Tại phiên tòa, chị L1 và anh H tự nguyện trả cho chị L 100.000.000 đồng tiền lãi, Hội đồng xét xử xét thấy việc tự nguyện của chị L1 và anh H là phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Tăng Thị L yêu cầu chị Tăng Thị L1 và anh Nguyễn Văn H liên đới trả cho chị L 300.000.000 tiền hùn vốn mua tài sản và 300.000.000 đồng tiền chênh lệch giá từ việc bán tài sản. 2. Buộc chị Tăng Thị L1 và anh Nguyễn Văn H có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Tăng Thị L 300.000.000 đồng. 3. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Tăng Thị L1 và anh Nguyễn Văn H trả cho chị Tăng Thị L 100.000.000 đồng tiền lãi. 4. Tòa án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo. |
28-33 |
5 |
Bản án dân sự sơ thẩm số: 29/2021/DS-ST ngày 11/6/2021 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương.
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyên đơn trình bày: – Ngày 12/7/2010, Công ty P và ông Lý C ký Hợp đông mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010. Theo Hợp đồng, ông C mua của Công ty P căn hộ số D4-1, Tầng 4, Lô D tại chung cư M, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương. – Đến ngày 08/4/2011, giữa Công ty P với ông Lý C ký phụ lục hợp đồng số 77PM/PLHĐ/2011 về việc thay đổi tiến độ thanh toán thành 02 đợt, trong đó: + Đợt 1 là 30% giá trị hợp đồng; + Đợt 2 là 70% giá trị hợp đồng; Trả góp trong 10 năm với mức lãi suất là 17.5%/năm. Nếu quá 45 ngày kể từ ngày đến hạn thanh toán, ông C chưa thanh toán tiền thì Công ty P có quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng: Ông C đã thanh toán cho Công ty P với số tiền là 78.795.293 đồng, tương đương 39% giá trị hợp đồng, số tiền còn lại của hợp đồng ông C không thanh toán. Công ty P đã nhiều lần gửi thông báo yêu cầu ông C đóng góp tiền nhưng ông C vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Về phía Công ty P, mặc dù ông C không thanh toán tiền đợt 02 theo thỏa thuận, nhưng Công ty P vẫn hoàn tất thủ tục sang tên Giấy chứng nhận cho ông Chung, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Đối với căn hộ D4-1, tầng 4, Lô D, Công ty P chưa tiến hành thủ tục bàn giao cho ông C, do ông C chưa thanh toán tiền. Đồng thời, cho đến nay, Công ty P cũng chưa tiến hành thủ tục hóa giá hoặc bán căn hộ D4-1, tầng 4, Lô D như theo thỏa thuận tại các điểm a, mục 2.1 Điều 2 của Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011. Do ông C vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền, nên Công ty P khởi kiện yêu cầu: – Tuyên chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ số 136/PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010 được ký kết giữa Công ty P với ông Lý C; – Buộc ông Lý C hoàn trả cho Công ty P căn hộ D4-1, tầng 4, Lô D chung cư M, phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương. – Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp cho ông Lý C ngày 15/10/2014. – Vi phạm hợp đồng: 203.962.500 đồng x 25% = 50.990.625 đồng. – Bồi thường chi phí hoạt động hành chính: 203.962.500 đồng x 5% = 10.198.125 đồng. Tổng cộng là 61.188.750 đồng. Như vậy, số tiền Công ty P đồng ý hoàn trả cho ông C là 78.795.293-61.188.750 đồng = 17.606.543 đồng. Bị đơn không đến Tòa án làm việc theo thông báo và giấy triệu của Tòa án nên Tòa án không thu thập được lời khai của ông C. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Ngày 12/7/2010, Công ty P và ông Lý C ký Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010. Theo đó, Công ty P chuyển nhượng cho ông C căn hộ với giá 203.962.500 đồng. Theo quy định tại Điều 4 của Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010, các bên thỏa thuận nghĩa vụ thanh toán. Đến ngày 08/4/2011, giữa Công ty P với ông C thỏa thuận ký kết Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011; theo đó, tại Điều 1 của Phụ lục Hợp đồng thì hình thức thanh toán được sửa đổi so với Hợp đồng số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010 như sau: Đợt 1, ông C thanh toán cho Công ty 30% tổng giá trị hợp đồng tương đương số tiền 61.200.000 đồng; đợt 2, thanh toán cho Công ty 70% tổng giá trị hợp đồng tương đương số tiền 142.762.500 đồng bằng hình thức trả góp trong vòng 10 năm với lãi suất trả góp là 17,5%/năm và được tính trên số dư nợ giảm dần theo bảng hỗ trợ cách tính trả góp có lãi suất kèm theo phụ lục hợp đồng. Sau khi thỏa thuận lại phương thức thanh toán, ông C vẫn không thanh toán thêm khoản tiền nào cho Công ty P, là vi phạm điều khoản thỏa thuận về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng. Về phía Công ty P, mặc dù ông Lý C vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nhưng để hoàn thành nghĩa vụ của bên chuyển nhượng, Công ty P đã tiến hành hoàn thành thủ tục sang tên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông C. Ngày 15/10/2014, ông C đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Tuy nhiên, căn hộ D4-8, Tầng 4, Lô D Công ty P chưa tiến hành bàn giao cho ông Lý C là do ông C chưa thanh toán đủ 95% theo thỏa thuận tại mục 5.1 Điều 5 của Hợp đồng. Từ các căn cứ trên, có cơ sở xác định ông C đã vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Căn cứ vào Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2005, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty P, cần tuyên hủy Hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010, Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011 ký kết giữa Công ty P với ông Lý C. Buộc Công ty P có nghĩa vụ hoàn trả cho ông C số tiền gốc ông C đã thành thanh toán là 78.795.293 đồng; Công ty P được quyền sở hữu, sử dụng căn hộ D4-1. Xét về lỗi: Do lỗi của ông Lý Mạnh C do vi phạm nghĩa vụ thanh toán, công ty cũng có một phần lỗi trong việc kéo dài quá trình thực hiện hợp đồng và làm cho hợp đồng không thể thực hiện theo thỏa thuận. Về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận Hội đồng xét xử xét thấy việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 367778, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH21778 cấp ngày 15/10/2014 cho ông Lý Mảnh C đứng tên giấy chứng nhận là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có cơ sở chấp nhận; Hội đồng xét xử xét thấy chỉ cần kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương thu hồi giấy chứng nhận. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty P với bị đơn ông Lý C; – Tuyên hủy hợp đồng mua bán căn hộ số 136PM/HĐMB/2010 ngày 12/7/2010 và Phụ lục hợp đồng số 77/PM/PLHĐ/2011 ngày 08/4/2011 đã ký kết giữa Công ty P với ông Lý C. – Buộc Công ty P có nghĩa vụ trả lại cho ông Lý C số tiền: 78.795.293 đồng; – Công ty P được quyền sở hữu, sử dụng căn hộ D4-1, tầng 4, chung cư M, thuộc thửa số 909, tờ bản đồ số 16, tọa lạc phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương. 2. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty P về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. 3. Kiến nghị Ủy ban nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. 4. Tòa án còn xem xét chi phí thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, phí trích lục hồ sơ, án phí dân sự sơ thẩm, quyền kháng cáo. … Xem thêm tại file PDF |
34-41 |
XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn