FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TOÀ ÁN TUYÊN VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ HUỶ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN |
TRANG |
|
Bản án số 01/2017/HNGĐ-ST ngày 29/08/2017 về việc huỷ kết hôn trái pháp luật của Toà án nhân dân huyện Lương Sơn – Hoà Bình
Nội dung: Anh T sinh năm 1964 (chết năm 2017), HKTT: Xã A, huyện M, tỉnh Hà Tây (nay thuộc TP Hà Nội) và T, trú tại: Xã M, huyện B, tỉnh Bình Phước, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh Hà Tây tháng 9/1985. Ngày 21/4/2008 anh T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Hà Tây giải quyết cho anh ly hôn với chị T. Tại bản án số: 03/2008/HNGĐ – ST, ngày 21/5/2008 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Hà Tây xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh T và chị T, bản án có hiệu lực pháp luật anh T và chị T chính thức chấm dứt quan hệ hôn nhân. Trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp giữa anh T và chị T, ngày 10/7/1996 anh Nguyễn Đức T, đã làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị H tại Ủy ban nhân xã K. Anh Nguyễn Đức H yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật giữa cha đẻ anh là Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thu H, sinh năm 1971; HKTT: Thôn Đ, xã K, huyện K (nay thuộc huyện L) tỉnh Hòa Bình. Toà án sơ thẩm nhận định: Anh T và chị T là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Tại bản án số: 03/2008/HNGĐ – ST, ngày 21/5/2008 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Hà Tây xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh T và chị T, bản án có hiệu lực pháp luật anh T và chị T chính thức chấm dứt quan hệ hôn nhân. Như vậy, thời kỳ hôn nhân giữa anh T và T từ tháng 9/1985 đến khi bản án ly hôn năm 2008 có hiệu lực pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Việc anh T kết hôn với chị H trong khi đang tồn tại hôn nhân hợp pháp giữa anh T và chị T là kết hôn trái pháp luật, vi phạm điểm a, Điều 7 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Quá trình xác minh giải quyết việc dân sự, UBND xã K và ông Nguyễn Văn T, năm 1996 là Phó chủ tịch UBND xã K là người ký giấy đăng ký kết hôn cho anh T và chị H trình bày: Khi chị H và anh T đến UBND xã làm thủ tục đăng ký kết hôn, do quen biết nên xã đã không xác minh tình trạng hôn nhân của anh T dẫn đến đăng ký hôn nhân trái pháp luật. Đề nghị Tòa án xem xét hủy hôn nhân trái pháp luật của anh T và chị H. Trong quá trình giải quyết vụ việc và tại phiên họp hôm nay, chị H cũng thừa nhận việc kết hôn giữa chị với anh T năm 1996 là trái pháp luật nhưng chị đề nghị Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC – VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để công nhận hôn nhân giữa chị và anh T từ năm 2008 (thời điểm anh T và chị T ly hôn). Tòa án xét thấy, hiện nay anh T đã chết, chỉ có mình chị H có yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị và anh T, như vậy không thỏa mãn yếu tố “hai bên kết hôn cùng yêu cầu” theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC – VKSNDTC-BTP. Do vậy, không có cơ sở để chấp đề nghị công nhận hôn nhân giữa chị H và anh T. Trong trường hợp có một bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân còn bên kia không có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật theo điểm b khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC – VKSNDTC-BTP. Toà án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của anh H: Hủy kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị H. |
01-03 |
|
Bản án số 21/2017/HNGĐ-ST ngày 21/9/2017 về việc Huỷ kết hôn trái pháp luật của Toà án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Nội dung: Anh T (sinh năm 1985) và chị T (sinh ngày 20/6/1995) kết hôn ngày 02/5/2012 có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện T, tỉnh Sơn La. Kết hôn trên cơ sở tự nguyện tự nguyện, không ai ép buộc. Vợ chồng chung sống hoà thuận được 5 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Anh, chị đã sống ly thân từ ngày 24-4-2017, cho đến nay không ai còn quan tâm đến cuộc sống của ai. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La giải quyết cho anh được ly hôn với chị T. Về con chung: Trong thời chung sống anh, chị có một con chung: Cháu A, sinh ngày 01-02-2015. Nay ly hôn nguyện vọng của anh T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu T đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh T không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Toà án sơ thẩm nhận định: [1]. Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã tiến hành các thủ tục giao, gửi, niêm yết: Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự cho bị đơn theo đúng quy định của pháp luật thông qua chính quyền địa phương nơi bị đơn cư trú nhiều lần, theo quy định tại 177, 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên phía bị đơn chị T vẫn cố tình không chấp hành và Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập đương sự theo đúng quy định của pháp luật theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật TTDS. [2]. Về hôn nhân: Anh T và chị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện T, tỉnh Sơn La vào Quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị T là quan hệ không hợp pháp do vậy không được pháp luật bảo vệ. Anh T có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật cần được chấp nhận căn cứ vào Điều 10; Điều 11, Điều 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. [3]. Về con chung: Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên, xem xét tình hình thực tế của anh T có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con hàng ngày. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, HĐXX xét thấy cần giao cháu A cho anh T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng cháu là hợp tình, hợp lý và cũng để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu về ăn mặc, học hành cùng những điều kiện khác cho sự phát triển thể chất và tinh thần. Anh T không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung là có căn cứ cần được chấp nhận. Chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở căn cứ Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình. Toà án sơ thẩm tuyên: Hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa anh T và chị T, hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ vợ chồng. Giao cháu A cho anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng. |
04-08 |
|
Bản án số 37/2017/HNGĐ-ST ngày 20/12/2017 v/v Tranh chấp hôn nhân và gia đình của Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
Nội dung: Anh K kết hôn với chị H vào năm 1992 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức cưới hỏi và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2010 thì Về con chung: Vợ chồng anh chị có 3 cháu, cháu Kh và cháu H hiện đã trưởng thành. Vợ chồng ly hôn, anh K có nguyện vọng nuôi cháu H và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Ngày 06/11/2017 anh K có Đơn đề nghị Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa anh K và chị H vì chị H sinh năm 1977, tại thời điểm anh K kết hôn với chị H vào năm 1992 thì chị H chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Toà án sơ thẩm nhận định: Do quan hệ hôn nhân và gia đình của anh K và chị H được xác lập vào năm 1992, trước ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực nên căn cứ vào Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, HĐXX áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 để giải quyết vụ án này. Tại Sổ hộ khẩu tập số 19, số tờ 05 lưu giữ tại Công an xã H cho thấy chị Đỗ Thị H sinh năm 1977. Tại khoản 3 Điều 9 Thông tư 15/2015/TT – BTP, ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định: Trường hợp người yêu cầu đăng ký khai sinh lại không có giấy tờ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hợp lệ sau đây để xác định nội dung đăng ký khai sinh lại: b) Sổ hộ khẩu. Do vậy các tài liệu thu thập được có đủ cơ sở xác đinh năm sinh của chị Đỗ Thị H là năm 1977. Do chị H kết hôn với anh K vào ngày 20 tháng 10 năm 1992, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, tại thời điểm kết hôn, chị H chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Việc kết hôn của chị H và anh K là trái quy định của pháp luật, vi phạm Điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, cần hủy kết hôn trái pháp luật giữa anh K và chị H. Về con chung: Thống nhất theo thoả thuận của các bên. Toà án sơ thẩm tuyên: Hủy kết hôn trái pháp luật giữa anh K và chị H. Giao con chung là cháu H, sinh ngày 05 tháng 10 năm 2007 cho anh Nguyễn Sỹ K nuôi dưỡng, chăm sóc. |
09-13 |
|
Bản án số 04/2018/HNGĐ-ST ngày 02/02/2018 v/v Huỷ kết hôn trái pháp luật, tranh chấp nuôi con của Toà án nhân dân huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
Nội dung: Chị D và anh Th kết hôn ngày 05/02/2004 tại UBND xã H trên cơ sở tự nguyện. Tháng 12/2017, chị D và anh Th ly thân. Ngày 09/01/2018, chị D có văn bản đề nghị Toà án huỷ kết hôn trái pháp luật giữa chị và anh Th. Với lý do để đủ tuổi đăng ký kết hôn, chị đã khai tăng tuổi của chị. Đồng thời, chị D cũng xuất trình các chứng cứ liên quan cho yêu cầu của chị như: Giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân để chứng minh chị sinh ngày 19/6/1987. Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên các cháu là Anh Th cũng đồng ý. Toà án sơ thẩm nhận định: Xét thấy, chị D, anh Th kết hôn ngày 05/02/2004 tại UBND xã H trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên tại thời điểm kết hôn chị D mới đủ 16 tuổi 07 tháng 14 ngày, chưa đủ điều kiện kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT – TANDTC- VKSNDTC – BTP ngày 06/01/2016 của Toà án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tư pháp về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX huỷ kết hôn trái pháp luật giữa chị D và anh Th. Xét yêu cầu của chị D xin được nuôi các cháu Ch, sinh ngày 15/11/2004; H, sinh ngày 22/4/2008; B, sinh ngày 03/10/2012. HĐXX xét thấy: Các cháu đều do chị Dung trực tiếp nuôi dưỡng từ nhỏ đến nay. Anh Th không có công việc, không có thu nhập và anh Th cũng đồng ý để chị D nuôi các cháu Ch, H, B. Do vậy, để đảm bảo cho các cháu Ch, H, B được phát triển về mọi mặt cần giao các cháu Ch, H, B cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015. Xét yêu cầu của chị Dung không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi các cháu Ch, H, B là tự nguyện theo Điều 5 Bộ luật TTDS. HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị D. Toà án sơ thẩm tuyên: Huỷ kết hôn trái pháp luật giữa chị D và anh Th. Giao các cháu Ch, sinh ngày 15/11/2004; H, sinh ngày 22/4/2008; B, sinh ngày 03/10/2012 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi các cháu Ch, H, B cho anh Th đến khi có quyết định khác. Anh Th được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. |
14-19 |
|
Bản án số 82/2018/HNGĐ-ST ngày 21/11/2018 về việc xin ly hôn của Toà án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình
Nội dung: Chị và anh Phạm Văn Đ tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn với nhau và có được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới nhưng tại Toà án sơ thẩm nhận định: Bị đơn là anh Đ có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn R, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình, hiện nay anh Đ không có mặt tại địa phương, nhưng thường xuyên về thăm gia đình nhưng không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Đ nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do, chị M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.Vì vậy, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh Đức, chị M là phù hợp với quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật TTDS. Về quan hệ hôn nhân: Chị M, sinh ngày 16/10/1987 và anh Đ, sinh năm 1977 tự nguyện kết hôn với nhau nhưng tại thời điểm kết hôn (14/01/2004) chị M chưa đủ tuổi kết hôn (16 tuổi 02 tháng 28 ngày) nên chị M đã khai tăng lên một tuổi để UBND xã Nam Trung đăng ký kết hôn cho chị và anh Đ do đó đã vi phạm quy định về điều kiện kết hôn quy định tại khoản 1 Điều 9 luật Hôn nhân gia đình năm 2000 nay là điểm a khoản 1 Điều 8 luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Đến thời điểm xét xử thì chị M đã đủ điều kiện kết hôn nhưng chị M yêu cầu Tòa án cho chị được ly hôn anh Đ còn anh Đ không có yêu cầu gì. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm b khoản 2 Điều 4 thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị M và anh Đ. Về con chung: Chị M và anh Đ có 03 con chung là A, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2005, N sinh ngày 22 tháng 3 năm 2010 và con H, sinh ngày 04/10/2011 hiện đang ở cùng chị M. Nay chị M có nguyện vọng được nuôi cả 03 con, không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Xét thấy, hiện tại anh Đ không thường xuyên có mặt tại địa phương, bản thân cả 03 con đều có nguyện vọng ở cùng chị M, phía gia đình anh Đ cũng đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị M nên HĐXX cần chấp nhận nguyện vọng của chị M là có căn cứ và phù hợp phù hợp với quy định tại Điều 81 luật Hôn nhân gia đình. Toà án sơ thẩm tuyên: Hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị M |
20-24 |
| …Xem tiếp tại file PDF |
XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TOÀ ÁN TUYÊN VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ HUỶ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn