Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 02/2016/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 02/2016/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 02/2016/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 02/2016/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

STT

NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án phúc thẩm số: 394/2022/DS-PT ngày 16/06/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông P, bà T5 (ở nước ngoài) có gửi tiền về cho em vợ là ông Nguyễn Ngọc H1, cháu vợ là Nguyễn Thị T và cháu rể Trần Thanh T1 đứng ra nhận chuyển nhượng dùm vợ chồng ông P, bà T5 các thửa đất: gồm: Thửa 11; thửa 12; thửa 16; thửa 17; thửa 1078 cùng tọa lạc tại ấp T1, xã T2, huyện B, tỉnh Vĩnh Long; Thửa 133; thửa 134; thửa 135 cùng tọa lạc tại ấp T3, xã T2, huyện B, tỉnh Vĩnh Long; Thửa 398; thửa 373; thửa 374; thửa 375; Thửa 56; thửa 57 cùng tọa lạc tại ấp T4, xã T2, huyện B, tỉnh Vĩnh Long; Thửa 301 tọa lạc tại ấp T5, xã T2, huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Đến năm 2011 vợ chồng Thảo và Tùng ly hôn. Vợ chồng ông P, bà T5 dự định hồi hương về Việt Nam sinh sống đến cuối đời nên yêu cầu bà T giao trả lại toàn bộ các phần đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Nhưng bà T không trả lại mà có ý định chiếm lấy làm tài sản riêng. Nay Phía nguyên đơn yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị T trả lại các thửa đất.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1/Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T trả lại các thửa đất có tổng diện tích là 53.298,6 m2 , trị giá thành tiền là 6.537.498.000 đồng (sáu tỷ năm trăm ba mươi bảy triệu bốn trăm chín mươi tám ngàn đồng).

Buộc bà Nguyễn Thị T trả cho ông Đoàn Văn P và bà Nguyễn T5 giá trị quyền sử dụng đất số tiền 6.537.498.000 đồng (sáu tỷ năm trăm ba mươi bảy triệu bốn trăm chín mươi tám ngàn đồng).

2/Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với thửa đất số 394, diện tích 3.355 m2 do bà T thừa kế từ ông Sến (do nguyên đơn rút yêu cầu).

Sau khi xét xử sơ thẩm, Ngày 16/9/2020 bị đơn bà Nguyễn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Nội dung tranh chấp trong vụ kiện này tương tự nội dung đã giải quyết tại Án lệ số 02/2016/AL. Tuy vậy, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã không thu thập chứng cứ để chứng minh số tiền cụ thể mà nguyên đơn đã bỏ ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất đang kiện đòi.

Mặt khác, như nhận định ở phần trên thì nội dung tranh chấp trong vụ kiện này thuộc trường hợp áp dụng Án lệ số 02/2016/AL. Theo đó, nếu có cơ sở xác định số tiền nhận chuyển nhượng đất là do nguyên đơn bỏ ra, và bị đơn chỉ là người đứng tên dùm (do nguyên đơn ở nước ngoài), thì phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ. Do vậy, việc chứng minh số tiền mà nguyên đơn đã bỏ ra để nhận chuyển nhượng các quyền sử dụng đất còn có ý nghĩa để xác định phần giá trị tăng thêm, làm căn cứ tính công sức của người đứng tên hộ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị T.

Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm;

Chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.

1

2

Bản án phúc thẩm số: 393/2021/DS-PT ngày 03/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn (ông Lê Duy N) có yêu cầu khởi kiện là yêu cầu bị đơn (bà Nguyễn Thị Mỹ N) giao trả cho nguyên đơn số tiền 26.425.000.000 đồng là giá trị 04 lô đất thổ cư mà ông N là người trực tiếp đưa tiền cho bà Th nhiều lần tại Đức và tại Việt Nam không nhớ cụ thể, không chuyển tiền bằng dịch vụ cho bà Th mua đất và nhờ bà N đứng tên giùm; do bà N là em ruột của vợ

ông N nên tin tưởng và không làm giấy tờ thỏa thuận gì khác. Sau đó, có nhờ

ông Nam làm thủ tục xây nhà để đứng tên quyền sở hữu nhà ở trên đất tranh

chấp.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Duy N, về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Mỹ N giao trả lại cho ông Lê Duy N số tiền 26.425.000.000 đồng là giá trị 04 lô đất thổ cư diện tích mỗi lô là 100m2 tại Khu Dân cư Hùng Vương 1, phường Phú Thủy, thành phố Ph Th, tỉnh Bình Thuận.

Buộc bà Nguyễn Thị Mỹ N phải giao trả cho ông Lê Duy N số tiền 13.972.500.000 đồng.

Ngày 03/11/2020, nguyên đơn ông Lê Duy N có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xác định công sức của bà Nguyễn Thị Mỹ N trong việc đứng tên giùm cho nguyên đơn 04 lô đất là 2.840.000.000 đồng.

Ngày 02/11/2020, bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Duy N, hủy bỏ việc bà N phải giao 13.972.000.000 đồng cho ông Lê Duy N.

Ngày 27/11/2020, Tòa án cấp sơ thẩm nhận được đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Mỹ H

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Do không xác định được chính xác công sức của bà N nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định ông Nhẫn, bà N có công sức ngang nhau để chia, cụ thể như sau: 26.425.000.000 đồng – 1.520.000.000 đồng = 24.905.000.000 đồng: 2 = 12.452.500.000 đồng. Theo đó, bà N được nhận 12.452.500.000đồng tiền công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo tài sản, là phù hợp với nội dung Án lệ 02/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Duy N, buộc bà Nguyễn Thị Mỹ N phải giao trả cho ông Lê Duy N số tiền 13.972.500.000 đồng (mười ba tỷ chín trăm bảy mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng) và Nguyễn Thị Mỹ N được quyền tiếp tục sử dụng 04 lô đất thổ cư diện tích mỗi lô là 100m 2 tại Khu Dân cư Hùng Vương 1, phường Phú Thủy, thành phố Ph Th, tỉnh Bình Thuận, là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án, có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Duy N, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ N và không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Mỹ H ; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 24/2020/DS-ST ngày 21/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận

8

3

Bản án phúc thẩm số: 188/2021/DS-PT ngày 14/04/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hồ Chí Minh

Về việc: “Đòi quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Năm 2016, bà Trương Thị A nhận chuyển nhượng thửa đất số 67, diện tích 594,2 m2 của ông Phan Thanh P và thửa 89, diện tích 560,2 m2 của bà Phan Thị H đều là đất lúa nằm liền kề nhau ở Khu 1, thị trấn Mỹ Phước với giá hai thửa là 470.000.000 đồng. Vì bà là người nước ngoài nên bà nhờ cháu là Trương Thị D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dùm bà. Bà không gặp chủ đất mà đưa cho ông Trương Văn R (cha chị D) 27.000 USD để trả 470.000.000 đồng mua đất, sau đó bà gửi thêm 15.000 USD để bơm cát. Sau khi chị D đứng tên thì bà trực tiếp giữ hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chị D nói sau khi bà về Mỹ thì sẽ làm giấy ủy quyền hai thửa đất cho bà nhưng không làm. Đến năm 2018, bà phát hiện chị D khai báo gian dối là mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm chuyển nhượng cho người khác, chiếm đoạt tài sản của bà. Nay bà yêu cầu chị D hoàn trả cho bà thửa đất số 67 và thửa số 89, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chị D đứng tên. Bà đồng ý tiền bơm cát là 218.180.000 đồng, nếu tòa án buộc trả bằng giá trị thì tính luôn tiền bơm cát để trả cho bà. Đối với số tiền bà đưa cho ông R để mua đất và bơm cát còn thừa thì bà không yêu cầu ông R trả lại.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị A (A Trương Thi);

1. Buộc chị Trương Thị D hoàn trả cho bà Trương Thị A (A Trương Thi) giá trị quyền sử dụng đất diện tích 594,2 m2, thuộc thửa số 67, tờ bản đồ số 23 và diện tích 560,2 m2 thuộc thửa số 89, tờ bản đồ số 23, cùng tọa lạc tại khu 1, thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang số tiền 995.170.800 đồng.

2. Tiếp tục duy trì Quyết định số 02/2019/QĐ-BPKCTT ngày 01/4/2019 áp dụng biên pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp” đối với thửa đất số 67, tờ bản đồ số 23, diện tích 594,2 m2 và thửa đất số 89, tờ bản đồ số 23, diện tích 560,2 m2 , cả hai thửa đất tọa lạc tại khu 1, thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

3. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trương Thị A (A Trương Thi)

Ngày 09/9/2020, bị đơn chị Trương Thị D kháng cáo yêu cầu bác khởi kiện của bà A; Yêu cầu xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”; Bản án sơ thẩm đã định kiến và xét xử phiến diện.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại quyền sử dụng đất mà nguyên đơn xuất tiền ra nhận chuyển nhượng nhưng lại nhờ bị đơn đứng tên dùm. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Đòi lại quyền sử dụng đất” là có căn cứ, tương đồng với Án lệ số 02/AL, nên không chấp nhận kháng cáo của chị Trương Thị D yêu cầu xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” và cũng không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của chị D cho rằng Bản án sơ thẩm đã có định kiến, giải quyết phiến diện;

Các bên đương sự đều thừa nhận thửa đất số 67, diện tích 594,2 m2 và thửa đất số 89, diện tích 560,2 m2 được nhận chuyển nhượng từ nguồn tiền của bà Trương Thị A. Trong khi đó, những người làm chứng đều có lời khai bà A là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ chị 6 D đứng tên dùm; đồng thời, tuy chị D là người đứng tên nhưng bà A mới là người quản lý bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, có cơ sở để xác định bà A là người nhận chuyển nhượng các thửa đất trên, còn chị D chỉ là người đứng tên dùm.

Bà A không thuộc đối tượng được giao quyền sử dụng đất, Bản án sơ thẩm đã vận dụng Án lệ số 02/AL để buộc chị D hoàn trả cho bà A số tiền đầu tư vào đất và ½ chênh lệch giá trị đất là có căn cứ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của chị Trương Thị D; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2020/DS-ST ngày 31/8/2020 của Tòa án nhân dân Tiền Giang.

13

4

Bản án phúc thẩm số: 558/2020/DS-PT ngày 23/10/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hồ Chí Minh

Về việc: “Xác lập quyền sở hữu đối với lợi tức”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Vào ngày 30/9/2010 ông Tee có mua căn nhà 149/B31 Lý Thánh Tông, phường Tân Thới Hòa, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh của ông Nguyễn Văn T và bà Ôn Nghĩa H với giá là 2.800.000.000 đồng. Nhưng do ông S là người nước ngoài không thể đứng tên mua nhà được và lúc đó ông đang quen với bà T, có ý định kết hôn với bà T nên ông S nhờ bà T đứng tên mua nhà và đứng tên chủ quyền nhà. Sau khi hoàn tất thủ tục mua bán thì bà T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD 115973, số vào sổ là CH11038 do Ủy ban nhân dân quận T cấp ngày 02/12/2010. Ngày 15/3/2011, ông S và bà T có đến Văn phòng Luật sư lập một bản thỏa thuận, có nội dung: “Tôi, Tee đã dùng tiền của cá nhân mình để mua căn nhà 149/B31 Lý Thánh Tông, phường Tân Thới Hòa, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, và nhờ bà T đứng tên chủ quyền. Được quyền yêu cầu bà T chuyển nhượng lại quyền sở hữu”. Sau đó ông S và bà T không đăng ký kết hôn được nên từ năm 2013 bà T và ông S không còn liên lạc với nhau nhưng bà T tiếp tục ở tại căn nhà 149/B31 Lý Thánh Tông. Ông S có yêu cầu bà T trả lại nhà nhưng bà T không đồng ý. Nay ông S khởi kiện yêu cầu bà T trả giá trị căn nhà bằng tổng số tiền là 4.380.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tee.

Buộc bà Nguyễn Thị Xuân T phải có trách nhiệm trả cho ông Tee số tiền 2.897.000.000 đồng. (Hai tỷ tám trăm chín mươi bảy triệu đồng).

Ngày 03/9/2019, ông Tee có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Không đồng ý cho bà T được hưởng 80% giá trị chênh lệch của căn nhà cụ thể là 1.580.000.000 đồng x 80% = 1.264.000.000 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Xét thấy tính chất, các tình tiết và sự kiện pháp lý trong vụ án tranh chấp giữa nguyên đơn ông Tee với bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân T tương tự như các tình tiết và sự kiện pháp lý trong Án lệ số 02/2016/AL. Vì vậy, căn cứ Án lệ số 02/2016/AL có đủ cơ sở xác định ông S người nước ngoài không thể đứng tên mua nhà nên ông S nhờ bà T đứng tên mua nhà số 183/B16 đường Lý Thánh Tông, phường Tân Thời Hòa, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, việc ông S khởi kiện đòi bà T trả lại số tiền mua nhà ban đầu là có căn cứ chấp nhận.

Riêng đối với phần giá trị chênh lệch tăng thêm của căn nhà: Do ông S là người bỏ tiền ra để mua nhà và bà T là người đứng tên nhận chuyển nhượng nhà, bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị căn nhà nên xác định ông S và bà T đều có công sức ngang nhau, để chia cho ông S và bà T mỗi người được hưởng ½ giá trị chênh lệch tăng thêm của căn nhà là có căn cứ.

Do bà T đang quản lý và sử dụng nhà và ông S yêu cầu bà T trả lại tiền. Do đó chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án sơ thẩm, buộc bà T giao trả cho ông S số tiền 3.590.000.000 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Tee.

Sửa một phần bản án số 1011/2019/DSST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tee. Buộc bà Nguyễn Thị Xuân T phải có trách nhiệm trả cho ông Tee số tiền 3.590.000.000 đồng. (Ba tỷ năm trăm chín mươi triệu đồng).

2. Về chi phí định giá:  Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Ông Tee và bà Nguyễn Thị Xuân T mỗi người phải chịu 6.500.000 đồng chi phí định giá. Do nguyên đơn ông Tee đã nộp tạm ứng trước là 13.000.000 đồng, nên buộc bà Nguyễn Thị Xuân T phải nộp 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm ngàn đồng) để hoàn trả lại cho ông Tee .

20

5

Bản án phúc thẩm số: 223/2020/DS-PT ngày 10/07/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà ở)”

Tóm tắt nội dung vụ án:

ông S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

Công nhận quyền sở hữu hợp pháp đối với nhà ở và quyền sử dụng đất tọa lạc tại số 35E3 Khu biệt thự P, khu phố 6, phường P1, thành phố Th, tỉnh Bình Dương cho ông Nguyễn Văn S.

Buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải chấm dứt mọi hành vi xâm phạm và cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu của ông S đối với nhà ở và quyền sử dụng đất tại số 35E3 Khu biệt thự P, khu phố 6, phường P1, thành phố Th, tỉnh Bình Dương.

Buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải giao lại hợp đồng đã ký kết với chủ đầu tư và các giấy tờ khác có liên quan đến nhà ở và quyền sử dụng đất tọa lạc tại số 35E3 Khu biệt thự P, khu phố 6, phường P1, thành phố Th, tỉnh Bình Dương.

Buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải bồi thường thiệt hại cho ông S do hành vi trái pháp luật của ông C, bà V gây ra với số tiền 200.000.000 đồng.

Ngày 26/9/2019, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Đặng Bá K có đơn xin rút một phần nội dung khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Rút yêu cầu buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải bồi thường thiệt hại cho ông S do hành vi trái pháp luật của ông C, bà V gây ra với số tiền 200.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1/. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S về việc buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải bồi thường thiệt hại cho ông S do hành vi trái pháp luật của ông C, bà V gây ra với số tiền 200.000.000 đồng.

2/. Đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu phản tố của ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V

3/. Không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S đối với ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V

Ngày 12/11/2019, đại diện nguyên đơn ông Đặng Bá K có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Ông C, bà V là người đứng tên giùm trên hợp đồng mua bán nhà, nhận nhà thay cho ông S nên cần xem xét công sức của ông C, bà V theo Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016.

Căn cứ Án lệ số 02/2016/AL thì công sức đứng tên giùm của ông C, bà V được xác định bằng ½ giá trị chênh lệch tăng thêm của tài sản là 1.377.134.250 đồng. Như vậy, ông C, bà V được công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đối với căn nhà 35E3 khu biệt thự P và buộc phải thanh toán lại cho ông Nguyễn Văn S giá trị nhà đất 2.361.228.250 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Đặng Bá K – đại diện nguyên đơn.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2019/DS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Tuyên xử:

1/. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S về việc buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải bồi thường thiệt hại cho ông S do hành vi trái pháp luật của ông C, bà V gây ra với số tiền 200.000.000 đồng.

2/. Đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu phản tố của ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V

3/. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S. Buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải thanh toán cho ông Nguyễn Văn S số tiền 2.361.228.250 đồng.

29

LINK TẢI: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 02/2016/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan

Hỗ trợ online