FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI MÀ QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÓ YÊU CẦU PHẢN TỐ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI MÀ QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÓ YÊU CẦU PHẢN TỐ
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số: 08/2022/DS-PT ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc “Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai”
Nội dung: Bố, mẹ ông T là cụ Đỗ Thế L3 và cụ Lưu Thị T3. Cụ L3 chết năm 1993 và cụ T3 chết năm 2008. Cụ L3, cụ T3 sinh được 6 người con là bà Đỗ Thị N, bà Đỗ Thị T1, ông Đỗ Văn H1, ông Đỗ Văn T, bà Đỗ Thị Ng, bà Đỗ Thị Y1. Khi chết cụ L3 và cụ T3 để lại tài sản là 240 m2 đất ở, tại thửa 311, tờ bản đồ 4a lập năm 1997, địa chỉ thửa đất tại xóm H, thôn Đ, xã K (sau đây viết tắt là thửa đất 311). Thửa đất 311 của cụ L3 và cụ T3 đã được Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện Y cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) ngày 15/5/1997 mang tên Đỗ Thị L3 (do có sự nhầm lẫn khi làm hồ sơ nên cấp nhầm tên chủ sử dụng là Đỗ Thế L3 thành Đỗ Thị L3). Trong GCNQSDĐ không thể hiện kích thước của thửa đất 311. Trước đây, ranh giới giữa thửa đất 311 của gia đình ông T và thửa đất 310 của gia đình ông T2 (bố ông X) là đường thẳng và được xác định theo nhà bếp và tường bao hai gia đình đã xây dựng và không có tranh chấp gì. Tuy nhiên, trong quá trình ông T xây tường bao, gia đình ông X đã phản ứng liên tục chửi bới gia đình ông T. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông X bà L trả cho gia đình ông T 0,38 m 2 đất, tại vị trí ông T đã xây bức tường có kích thước các chiều: Phía Đông Nam giáp đốc nhà tắm ông T rộng 0,12 mét, phía Tây Nam giáp đất ông T dài 2 mét, phía Tây Bắc giáp nhà ông X rộng 0,27 mét, phía Đông Bắc giáp đất còn lại của gia đình ông X dài 2 mét. Ngày 27/5/2021, ông X, bà L có đơn yêu cầu phản tố buộc ông T và bà Luân phải tháo dỡ toàn bộ bức tường và móng tường để trả lại đất cho ông X, bà L, bức tường có chiều dài 2m. Vợ chồng ông T, bà L1 không đồng ý nội dung phản tố của bị đơn và đề nghị Tòa án bác yêu cầu của ông X, bà L vì vợ chồng ông T và bà Luân đã xây tường và móng tường trên móng cũ mà bố mẹ ông T để lại. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Văn T, bà Đỗ Thị Ninh, bà Đỗ Thị T, ông Đỗ Văn H1, bà Đỗ Thị Ng và bà Đỗ Thị Y1 về việc buộc vợ chồng ông Phạm Văn X và bà Nguyễn Thị L phải trả cho các đồng nguyên đơn diện tích là 0,38 m2 đất, tại thửa 310, tờ bản đồ số 4a 2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Phạm Văn X bà Nguyễn Thị L, đối với ông T, bà L1 về tháo dỡ bức tường rào và phần móng tường. Buộc ông Đỗ Văn T và bà Tống Thị L1 là người xây bức tường phải dỡ toàn bộ bức tường rào có chiều dài là 02 mét, đã xây trên đất của ông X bà L để trả lại 0,38 m2 đất cho gia đình ông X bà L. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: [2.1] Trong vụ án này, nguyên nhân xảy ra tranh chấp là do gia đình ông Đỗ Văn T và gia đình ông Phạm Văn X không xác định được rõ ràng ranh giới, mốc giới giữa hai thửa đất của hai gia đình tại vị trí đất tranh chấp từ khi gia đình ông Đỗ Văn T xây dựng lại tường bao năm 2013. [2.2] Theo hồ sơ địa chính năm 1997 thể hiện, đất gia đình ông T đang sử dụng có nguồn gốc là thửa 311, tờ bản đồ 4a, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Thửa đất có diện tích là 240 m2, người sử dụng đất là cụ L3, cụ T3. Thửa đất này đã được cấp GCNQSDD mang tên Đỗ Thị L3 vào ngày 15/5/1997. Thửa đất có ranh giới phía Đông Nam giáp đường, phía Tây Nam giáp thửa 312, phía Tây Bắc giáp thửa 214, phía Đông Bắc giáp đất ông T2 (thửa 310). Hiện nay là thửa đất số 59 tờ bản đồ số 17, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. [2.3] Tại bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 02/5/2012 của Trung tâm kỹ thuật Đo đạc – Bản đồ, sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình thửa đất số 59 tờ bản đồ số 17, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình lập năm 2012 người sử dụng đất là ông Đỗ Văn T cùng với các hộ liền kề ký xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất số 59 tờ bản đồ số 17 với các chiều cạnh: Phía Đông Nam giáp đường dài 14,09 mét, phía Tây Nam dài 17,97 mét, phía Tây Bắc giáp đất ông H1 dài 11,6 mét, phía Đông Bắc giáp đất ông Tuyền (nay là đất ông X bà L đang sử dụng) dài 21,20 mét. Diện tích là 247,8 m2. Ngày 22/3/2013, ông Đỗ Văn T đã ký xác nhận kết quả đo đạc địa chính thửa đất và không có ý kiến gì. [2.4] Tại bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 02/5/2012 của Trung tâm kỹ thuật Đo đạc – Bản đồ, sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình thửa đất số 58 tờ bản đồ số 17, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình lập năm 2012 người sử dụng đất là bà Phạm Thị Th cùng với các hộ liền kề ký xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất số 58 tờ bản đồ số 17, có kích thước chiều giáp thửa đất 59 được định vị trên sơ đồ từ điểm số 9 đến điểm số 10 (đất ông T) dài 21,20 mét. Diện tích thửa đất là 340.0 m2. Ông Đỗ Văn T đã ký xác nhận kết quả đo đạc địa chính thửa đất này và không có ý kiến gì. [2.5] Các đương sự thừa nhận từ năm 2012 trở về trước hộ gia đình ông T và hộ gia đình ông X không có sự tranh chấp về ranh giới, mốc giới giữa hai hộ gia đình. Như vậy, bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 02/5/2012 của Trung tâm kỹ thuật Đo đạc – Bản đồ, sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình thửa đất số 59 tờ bản đồ số 17, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình lập năm 2012 người sử dụng đất là ông Đỗ Văn T là chính xác. Do đó, cần lấy kết quả đo đạc này làm cơ sở để phân định mốc giới giữa hai hộ gia đình ông T và hộ gia đình ông X. [2.6] Tại Biên bản thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân huyện Y ngày 29/5/2021 thể hiện: Thửa đất số 59 tờ bản đồ số 17, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình (không bao gồm diện tích 0,38 m2 đất tranh chấp) có diện tích là 255,7 m2. Kích thước các chiều cạnh là phía Đông Nam giáp đường dài 14,0 mét, phía Tây Nam dài 18,88 mét, phía Tây Bắc giáp đất ông H1 dài 11,40 mét, phía đông Bắc giáp đất ông T3 (nay là đất ông X bà L) dài 21,39 mét. So sánh diện tích, vị trí, kích thước thửa đất hiện trạng và diện tích, vị trí, kích thước thửa đất được Nhà nước giao trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thửa đất số 59 tờ bản đồ số 17, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình không thiếu kích thước (diện tích thừa 15,7 m2). [2.7] Do đó không có căn cứ để khẳng định diện tích 0,38 m2 đất tranh chấp là của gia đình ông T. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là có căn cứ. Yêu cầu kháng cáo của ông T không có cơ sở để chấp nhận. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Đỗ Văn T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2021/DS-ST ngày 07/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình |
1-9 |
|
Bản án số 06/2021/DS-PT ngày 08/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc “V/v tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai”
Nội dung: Ông Trần Cao Kh (trong gia đình anh em hay gọi là Khăm) là công nhân lái xe của Xí nghiệp vận tải ô tô Ninh Bình, sau đó chuyển về công tác tại Công ty cầu đường – Bộ giao thông Vận tải, đến năm 1990 thì nghỉ hưu. Ông Kh có anh rể là ông Lại Văn L1 nguyên là cán bộ Hợp tác xã vận tải Mùa Thu. Năm 1995 Hợp tác xã vận tải Mùa Thu giải thể và có chủ trương thanh lý tài sản là nhà, đất cho xã viên. Ông Kh nhờ ông L1 mua hộ lô đất số 26, trên đất có một gian nhà tập thể đã cũ của Hợp tác xã vận tải Mùa Thu, giá 14.000.000 đồng (nay là thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016, diện tích thực tế 77,8m2). Tiền thanh lý nhà đất ông Kh nộp hai lần, lần thứ nhất ngày 31/3/1995 nộp 10.000.000 đồng, lần thứ hai ngày 26/5/1995 nộp 4.000.000 đồng, hóa đơn nộp tiền đứng tên ông Kh. Tất cả hóa đơn nộp tiền ông Kh đưa cho ông L1 cất giữ hộ. Do chưa có nhu cầu sử dụng nên ông Kh giao nhà đất cho ông L1 quản lý, trông coi hộ. Ngoài ra, ông Kh còn nhờ ông L1 làm hộ thủ tục kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi nhà nước có chủ trương. Quá trình trông coi nhà đất, ông L1 có hỏi ý kiến của ông Kh cho anh Đặng Đình H, chị Lại Thị Th là con rể và con gái ông L1 ở nhờ, trông coi hộ. Việc mượn nhà đất giữa ông Kh và ông L1 không làm hợp đồng mà chỉ thỏa thuận miệng; không thỏa thuận về thời gian cho mượn. Trong quá trình ở nhờ và trông coi, vợ chồng anh H đã phá dỡ gian nhà tập thể để làm nhà ở (cấp 4) và các công trình phụ trên thửa đất mượn của ông Kh như hiện nay. Việc vợ chồng anh H phá nhà cũ, xây dựng các hạng mục công trình để sử dụng ông Kh biết, hoàn toàn nhất trí và không có ý kiến gì. Năm 2017 ông L1 chết, vợ chồng anh H vẫn trực tiếp quản lý sử dụng đất. Do vợ chồng anh H chưa thu xếp được chỗ ở và cũng chưa làm được bìa đỏ nên ông Kh vẫn để đất cho vợ chồng anh H mượn làm chỗ ở. Các khoản tiền thuế nhà đất hàng năm do vợ chồng anh H trực tiếp nộp. Trong một lần về quê, anh H nhờ ông Kh ký hộ giấy ủy quyền để được ở nhờ trên thửa đất. Ông Kh không biết chữ, chỉ biết ký mỗi chữ Trần Cao Kh nên không biết nội dung của văn bản viết gì. Sau này xảy ra tranh chấp ông Kh mới được biết đó là giấy bán nhà đất anh H viết và yêu cầu ông ký. Ông Kh đề nghị Tòa án giải quyết hủy “Giấy bán nhà đất” ngày 20/10/1995; buộc anh H, chị Th trả lại cho ông Kh quyền sử dụng thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016 (gọi tắt là thửa đất số 14). Ngày 27/7/2020 anh Đặng Đình H có yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án buộc các bên tiếp tục thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Giấy bán nhà đất ngày 20 tháng 10 năm 1995 giữa ông Kh và ông H. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về đòi quyền sử dụng đất đối với bị đơn anh Đặng Đình H và chị Lại Thị Th và hủy giao dịch Giấy bán nhà đất ghi ngày 20 tháng 10 năm 1995 giữa ông Trần Cao Kh và anh Đặng Đình H. 2. Buộc anh Đặng Đình H và chị Lại Thị Th phải có nghĩa vụ trả lại quyền sử dụng thửa đất 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016 với diện tích 77,8 m2 cho ông Trần Cao Kh. Giao cho ông Trần Cao Kh quyền sử dụng thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016 tại phố Tr, thị trấn P, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: [3] Về nội dung vụ án: [3.1] Trên cơ sở lời khai của các đương sự, người làm chứng, phiếu thu của HTX vận tải cao cấp Mùa Thu và hồ sơ địa chính do UBND thị trấn P cung cấp thì thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016, diện tích thực tế 77,8m2 có nguồn gốc là lô đất số 26 do ông Trần Cao Kh mua thanh lý cùng với 01 gian nhà tập thể của HTX vận tải cao cấp Mùa Thu năm 1995. [3.2] Ông Kh cho rằng, sau khi mua thanh lý năm 1995 đã cho vợ chồng anh H ở nhờ và trông coi hộ nhà đất. Vợ chồng anh H lại cho rằng sau khi mua thanh lý nhà đất, do không có nhu cầu sử dụng nên ông Kh đã bán lại cho vợ chồng anh với giá 17.000.000 đồng. Tiền mua nhà đất anh chị đã trả cho ông Kh nhiều lần và đã trả xong, hai bên không viết giấy biên nhận. Đến năm 2017 theo đề nghị của anh H, ông Kh đã ký giấy bán nhà đất cho vợ chồng anh. Giấy bán nhà đất được lập tháng 7 năm 2017 còn nội dung ghi năm 1995 là thời điểm hai bên thỏa thuận mua bán. Quá trình sử dụng, năm 1998 vợ chồng anh H đã phá gian nhà tập thể để xây mới nhà ở cùng công trình phụ để sử dụng; ông Kh biết và không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết sơ thẩm, ông Kh và người đại diện theo ủy quyền thừa nhận năm 2017 ông Kh có ký vào tờ giấy do anh H viết nhưng 11 không biết nội dung trong đó viết gì; tại phiên tòa phúc thẩm ông Kh cũng đã thừa nhận chữ ký của mình trong giấy bán nhà đất. Sự thừa nhận của ông Kh phù hợp với Kết luận giám định số 41/KLGĐ-PC09-TL ngày 23/8/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, do đó đủ căn cứ xác định chữ ký trong giấy bán nhà đất là chữ ký của ông Kh. Ông Kh khai là công nhân lái xe của Xí nghiệp ô tô Ninh Bình, sau đó chuyển về Công ty cầu đường – Bộ giao thông vận tải. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Kh thừa nhận ông có giấy phép lái xe ô tô. Trong giấy ủy quyền được công chứng ngày 09/9/2019 giữa ông Kh và ông B có nội dung: Các bên đã đọc lại giấy ủy quyền này, đã đồng ý toàn bộ nội dung … và đã ký vào giấy ủy quyền. Với những chứng cứ nêu trên, đủ căn cứ xác định ông Kh khai không biết viết, đọc tiếng Việt là không có căn cứ. Nội dung Giấy bán nhà đất thể hiện ông Kh chuyển nhượng nhà đất lô số 26 cho vợ chồng anh H với giá 17.500.000 đồng. Ông Kh đã nhận đủ tiền và bàn giao lại giấy tờ thanh lý của HTX cùng căn nhà cho vợ chồng anh H và viết giấy làm bằng chứng cho việc chuyển nhượng nhà đất. Do đó, có thể xác định giao dịch chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng thửa đất số 14 (lô số 26) giữa ông Kh và vợ chồng anh H là có thật, giao dịch đó được diễn ra từ năm 1995 và kết thúc vào năm 2017, thể hiện bằng giấy mua bán nhà đất. Trong giấy mua bán nhà đất ghi sai địa chỉ của ông Kh và ghi không đúng thời gian viết giấy nhưng việc ghi sai này không làm thay đổi bản chất của sự việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất giữa ông Kh và vợ chồng anh H. Ông Kh có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên buộc phải biết quyền và nghĩa vụ của mình ở trong văn bản mà ông đã ký nên phải chịu trách nhiệm với chữ ký của mình ở trong giấy bán nhà đất. Không có căn cứ xác định anh H đã lừa dối ông Kh nên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Kh và vợ chồng anh H không bị vô hiệu (vô hiệu do bị lừa dối). [3.3] Khi chuyển nhượng, thửa đất của ông Kh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao dịch không được công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, các bên đã thực hiện xong nghĩa vụ (trả tiền và nhận nhà đất), vợ chồng anh H đã sử dụng đất ổng định, liên tục từ năm 1996 cho đến nay, trong quá trình sử dụng đã làm nhà kiên cố, ông Kh biết mà không phản đối. Do đó, căn cứ điểm b.3 tiểu mục 2.3 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015, đủ điều kiện để công nhận hiệu lực của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Kh và vợ chồng anh H. Bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Kh và không chấp nhận yêu cầu phản tố của anh H là không phù hợp với quy định của pháp luật, không có căn cứ. Về yêu cầu phản tố của anh H: Giấy bán nhà đất ghi nhận kết quả thực hiện giao dịch của hai bên, theo đó và trên thực tế vợ chồng anh H đã sử dụng thửa đất từ năm 1996 cho đến nay, đã thanh toán xong tiền chuyển nhượng nhà đất. Như vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên đã được thực hiện xong nên không 12 cần thiết buộc các bên phải tiếp tục thực hiện giao dịch mà chỉ công nhận hiệu lực của giao dịch đó. [3.4] Để bảo đảm quyền cũng như nghĩa vụ của các đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật, cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo, kháng nghị. Sửa toàn bộ bản án sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Cao Kh, về việc yêu cầu Tòa án hủy “Giấy bán nhà đất” ngày 20/10/1995; buộc anh H, chị Th trả lại cho ông Kh quyền sử dụng thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016; Chấp nhận yêu cầu phản tố của anh Đặng Đình H, công nhận hiệu lực của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016 (diện tích thực tế 77,8m2; kích thước phía Đông Nam giáp cống Tân Hưng dài 5m, phía Tây Nam giáp hộ ông Xá dài 15,64m, phía Tây Bắc giáp hộ ông Hùng được ngăn cách bằng rãnh nước dài 4,88m, phía Đông Bắc giáp với hộ ông Quân dài 15,90m) giữa ông Kh và vợ chồng anh H, được thể hiện bằng Giấy bán nhà đất ghi ngày 20 tháng 10 năm 1995. Các đương sự đều thừa nhận tài sản hiện có trên thửa đất số 14 là do vợ chồng anh H xây dựng, không có tranh chấp nên Tòa án không xem xét giải quyết. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 1. Sửa toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình như sau: 1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Cao Kh, về việc yêu cầu Tòa án hủy “Giấy bán nhà đất” ngày 20/10/1995; buộc anh Đặng Đình H, chị Lại Thị Th trả lại cho ông Kh quyền sử dụng thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016. 1.2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của anh Đặng Đình H, công nhận hiệu lực của giao địch chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 14, tờ bản đồ số 22 bản đồ thị trấn P chỉnh lý năm 2016 (diện tích thực tế 77,8m2; kích thước phía Đông Nam giáp cống Tân Hưng dài 5m, phía Tây Nam giáp hộ ông Xá dài 15,64m, phía Tây Bắc giáp hộ ông Hùng được ngăn cách bằng rãnh nước dài 4,88m, phía Đông Bắc giáp với hộ ông Quân dài 15,90m) giữa ông Trần Cao Kh và vợ chồng anh Đặng Đình H, chị Lại Thị Th được thể hiện bằng Giấy bán nhà đất ghi ngày 20 tháng 10 năm 1995. |
10-22 |
|
Bản án số 45/2021/DS-PT ngày 30-3-2021 của Tòa án nhân dân Tỉnh Hậu Giang về việc “Tranh chấp QSD đất và yêu cầu BTTH về tài sản”
Nội dung: Nguyên đơn trình bày: Theo đơn khởi kiện và các lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của cha nguyên đơn để lại; nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá trình sử dụng ông Mai L đã lấn qua phần đất của nguyên đơn. Nay nguyên đơn yêu cầu công nhận phần đất tranh chấp có diện tích theo đo đạc thực tế cho nguyên đơn. Tại các lời khai và đơn phản tố của bị đơn ông Mai L trình bày: Ông có phần đất giáp ranh với đất của ông V và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ranh đất 02 bên xác định là ranh thẳng và có xác định bằng trụ đá; nhưng phía nguyên đơn cắm trụ đá mới không đúng với ranh 02 bên đã xác định trước đó, nên bị đơn phản tố yêu cầu công nhận đất cho bị đơn theo diện tích đo đạc thực tế. Ngoài ra ngày 28/10/2019 gia đình nguyên đơn có hành vi chặt dừa lá trên đất tranh chấp; bị đơn yêu cầu ông V và bà Bảy bồi thường thiệt hại cho ông 2.000.000 đồng/01 năm, trong thời gian 05 năm.. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Mai V. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Mai L. Công nhận phần đất có diện tích 133,2m2 được ghi chú tại phần (1), (2.1), (2.2) và (5) theo sơ đồ thửa đất ngày 29/7/2020 của Công ty TNHH ĐĐBĐ ACB Hậu Giang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Mai V. Buộc ông Mai L trả lại phần đất 133,2m2 đã được công nhận cho ông Mai V. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: …[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Mai L kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết để ông lấy lại phần đất như trước đây và bồi thường thiệt 4 hại lá dừa nước cho ông với số tiền là 10.000.000đ. Hội đồng xét xử nhận thấy, theo lược đồ đo đạc ngày 29/7/2020 thì phần đất tranh chấp giữa các đương sự thể hiện các vị trí sau: Vị trí I có diện tích 7.858,7m2, vị trí II có diện tích 4.573,2m2, vị trí III có diện tích 1.265m2, vị trí IV có diện tích 673,6 m2, vị trí 1 có diện tích 66,2m2, vị trí 2.1 có diện tích 50,7m2, vị trí 2.2 có diện tích 10,3m2, vị trí 3 có diện tích 42,2m2, vị trí 4 có diện tích 111,4m2 và vị trí 5 có diện tích 6,0m2. Phần đất tranh chấp của các đương sự giáp các thửa đất 2043, 592 và 593 do ông Mai V đứng tên; các thửa 574, 591, 602 (thửa mới là 2306), 2041 và 2042 do ông Mai L đứng tên. Theo lược đồ giải thửa thì phần đất của các đương sự đang sử dụng ổn định đều dư so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà các bên được cấp. Do đó, cần xem xét đến các yếu tố khác để công nhận phần đất thuộc quyền sử dụng của ai. [3.1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bên đương sự đều thống nhất phần đất tại các vị trí I, II, III, IV là phần đất ổn định của các đương sự và phần đất tại vị trí số 4 là của ông L chuyển nhượng cho ông Mai Văn Lợi, vị trí số 3 là của ông L chuyển nhượng cho nguyên đơn; tất cả các phần này không tranh chấp. Như vậy phần đất tranh chấp của các đương sự được thể hiện ở các vị trí 1, 2.1, 2.2 và 5; Do đó Hội đồng xét xử chỉ xem xét phần đất của các đương sự tranh chấp tại các vị trí nêu trên. [3.2] Như nhận định trên thì phần đất của các đương sự sử dụng ổn định dư so với phần đất đã được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên cần xem xét đến các yếu tố khác để giải quyết vụ án. Đối chiếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các bên được cấp thì phần đất giáp ranh giữa các bên là một đường thẳng từ vị trí của ông Mai L và ông Trần N kéo thẳng đến kinh Xẻo Chồi. Nhưng qua đối chiếu với lược đồ thì phần đất tại vị trí số 1 đã đi xéo qua phần đất của ông L tại vị trí số II là không đúng với hiện tạng đất, nên vị trí số 1 không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, có căn cứ chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn công nhận phần vị trí số 1 cho bị đơn. Đối với phần đất tại vị trí số 2.1, vị trí 2.2 là phần đất cắt ngang phần đất của bị đơn tiếp giáp với vị trí III của nguyên đơn; Đối chiếu với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phần đất tiếp giáp vị trí số III của bị đơn là một đường thẳng từ phần đất của ông Mai L đến phần đất của ông Nguyễn T. Nhưng qua đối chiếu với lược đồ thì phần đất tại trí số 2.1, vị trí 2.2 đã nằm lấn vào phần đất tại vị trí số I của nguyên đơn đang sử dụng ổn định, nên trí số 2.1, vị trí 2.2 có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với vị trí số 5 là phần đất nằm giữa vị trí số 1 công nhận cho bị đơn, vị trí số 3 bị đơn chuyển nhượng cho nguyên đơn và vị trí IV phần đất ổn định của bị đơn. Đối chiếu với diện tích theo giấy của các bên và lược đồ giải thửa thì phần đất tại vị trí số 5 thuộc quyền sử dụng của bị đơn. Tuy nhiên tại phiên tòa các đương sự đều thừa nhận do không có lối đi vào phần đất nên nguyên đơn có chuyển nhượng cho bị đơn phần đất tại vị trí số 3, như vậy nhu cầu sử dụng lối đi của nguyên đơn là cần thiết mà việc chuyển nhượng vị trí số 3 cũng không đảm bảo việc nguyên đơn vào phần đất tại vị trí I, nên có cơ sở xác định vị trí số 5 nguyên đơn đã chuyển nhượng của bị đơn để làm lối đi. Mặc dù các đương sự không tranh chấp về việc chuyển nhượng, nhưng do diện tích không lớn và cũng nhằm giải quyết triệt để vụ án Hội đồng xét xử có căn cứ công nhận phần đất tại vị trí số 5 theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. [4] Đối với kháng cáo yêu cầu bồi thường thiệt hại dừa nước do nguyên đơn chặt phá là 10.000.000đ. Hội đồng xét xử nhận thấy, phần lá dừa nước mà bị đơn kháng cáo yêu cầu bồi thường tại vị trí 2.1 và 2.2 của lược đồ đo đạc ngày 29/7/2020, và theo như nhận định trên thì phần đất tại vị trí 2.1 và 2.2 đã được công nhận cho nguyên đơn, nên không có căn cứ cho rằng lá dừa nước trên phần đất nêu trên là của bị đơn để yêu cầu bồi thường. Mặc khác bị đơn kháng cáo yêu cầu bồi thường thiệt hại mỗi năm là 2.000.000đ, nhưng không chứng minh thiệt hại xảy ra từng năm, không chứng minh có sự việc chặt phá như trình bày của bị đơn. Do đó đối với kháng cáo yêu cầu của bị đơn không được Hội đồng xét xử chấp nhận. [5] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bà Lê B có gửi đơn yêu cầu và khiếu nại yêu cầu bồi thường chi phí đi lại trong quá trình tố tụng. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, sau khi xét xử sơ thẩm nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, nên việc gửi đơn của bà Bảy vào ngày xét xử phúc thẩm là đã quá thời hạn kháng cáo và không thuộc phạm vi kháng cáo theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên không được xem xét. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Công nhận phần đất có diện tích 67m2, trong đó: Tại tại vị trí 2.1 có diện tích 50,7m2, vị trí 2.2 có diện tích 10,3m2, vị trí 5 có diện tích 6,0m2 theo sơ đồ thửa đất ngày 29/7/2020 của Công ty TNHH ĐĐBĐ ACB Hậu Giang thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Mai V. Buộc ông Mai L trả lại phần đất 67m2 đã được công nhận cho ông Mai V. Công nhận phần đất có diện tích 66,2m2 tại vị trí 1, theo sơ đồ thửa đất ngày 29/7/2020 của Công ty TNHH ĐĐBĐ ACB Hậu Giang thuộc quyền sử dụng 7 hợp pháp của ông Mai L. Buộc ông Mai V trả lại phần đất 66,2m2 đã được công nhận cho ông Mai L. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường 10.000.000đ (Mười triệu đồng), tiền thiệt hại lá dừa nước của bị đơn ông Mai L. |
23-29 |
|
Bản án số 196/2023/DS-PT ngày 04/5/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất ”
Nội dung vụ án: Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án phía nguyên đơn ông Nguyễn Việt H trình bày: Vào năm 1991, bà P là vợ ông có làm đơn xin Hội đồng nhà đất Quân khu 9 cấp đất để làm nhà ở theo chế độ sĩ quan quân đội, có nhờ ông T làm đơn xin xét duyệt. Tháng 12/2007 sau khi tìm hiểu mới biết phần đất ông T ở là phần đất mà ông được cấp nhưng ông T tự ý đi nhận quyết định, lúc này ông T mới đưa ra đơn xin chuyển nhượng đất ngày 25/5/1995, đơn này là do ông T đọc cho bà P viết nên bà không biết đó là đất trong quân đội. Ông cho rằng việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giao dịch vô hiệu, yêu cầu ông T trả lại phần đất này và giao trả bản chính quyết định số 1429/HĐNĐ ngày 19/01/1994. Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn ông Đinh Xuân T có ý kiến và phản tố như sau: Ông không đồng ý với lời trình bày của ông H. Vào ngày 19/01/1994, Cục hậu cần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1429/HĐNĐ cho bà P. Đến ngày 25/5/1995, bà P đồng ý tự tay viết và ký tên vào đơn xin chuyển nhượng Quyền sử dụng đất cho ông, có Bí thư Đảng ủy của Cục hậu cần Quân khu 9 ký tên đồng ý. Sau đó, ông có làm đơn xin hợp thức hóa lô đất 45 diện tích 80m2 tọa lạc tại địa chỉ nêu trên, trong biên bản thẩm tra xác minh thửa đất ngày 13/11/1995 có ông H và ông N ký giáp ranh (ông N là cha ruột của ông H). Nay đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông không đồng ý và có đơn phản tố yêu cầu Tòa án bác đơn yêu cầu của các nguyên đơn, công nhận phần đất ông đã nhận chuyển nhượng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn. Buộc ông Đinh Xuân T có nghĩa vụ trả số tiền 517.020.000 đồng tương ứng phần đất tọa lạc tại Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ cho ông Nguyễn Việt H và bà Hoàng Qui P. 2. Khi phía bị đơn thực hiện nghĩa vụ giao tiền cho nguyên đơn xong thì bị đơn có quyền liên hệ với cơ quan chức năng để kê khai đăng ký theo quy định, đất tọa lạc tại Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ có diện tích 86,17m2 theo hồ sơ trích đo địa chính do Phòng Tài nguyên lập số 03/VP – ĐKQSD vào ngày 20/2/2014. 3. Ghi nhận các nguyên đơn trả 04 chỉ vàng 24k (9999) cho ông Đinh Xuân T. Tòa án cấp phúc thẩm lần 1 tuyên: 1. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Đinh Xuân T. 2. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận N. 3. Bác kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Việt H, bà Hoàng Qui P. 4. Bác yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn. 5. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. 6. Công nhận giao dịch chuyển nhượng cho tặng đất thể hiện qua Đơn xin chuyển nhượng ngày 25/5/1995 của bà Hoàng Qui P cho ông Đinh Xuân T là hợp pháp. Ông Đinh Xuân T được quyền sử dụng hợp pháp diện tích 86,17m2 theo trích đo địa chính do Phòng Tài nguyên lập số 03/VP – ĐKQSDĐ ngày 20/02/2012, đất tọa lạc tại số Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ. Đương sự liên hệ với cơ quan chức năng kê khai đăng ký theo quy định của pháp luật. Ngoài ra bản án phúc thẩm còn tuyên về án phí. Tòa án cấp cao có quyết định giám đốc thẩm lần 1: 1. Chấp nhận kháng nghị số 64/2017/KN-DS ngày 22/5/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 207/2014/DSPT ngày 25/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Việt H, bà Hoàng Qui P với bị đơn ông Đinh Xuân T; những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà NLQ1, bà NLQ2 và bà NLQ3. 3. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm lần 2 tuyên: 1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hoàng Qui P, ông Nguyễn Việt H. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Đinh Xuân T. Sửa bản án sở thẩm. 2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Qui P, ông Nguyễn Việt H đối với yêu cầu buộc bị đơn ông Đinh Xuân T trả lại phần đất có diện tích 80m2 đất tranh chấp tại số Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong quân đội số 1429/HĐNĐ ngày 19/01/1994. 3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Đinh Xuân T. Công nhận giao dịch chuyển nhượng thể hiện qua Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 25/5/1995 của bà Hoàng Qui P cho ông Đinh Xuân T là hợp pháp. Ông Đinh Xuân T được quyền sử dụng hợp pháp thửa đất số 65, tờ bản đồ số 32, diện tích 86,17m, địa chỉ: Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ. 4. Đình chỉ yêu cầu của bị đơn đối với yêu cầu nguyên đơn trả lại 4 chỉ vàng 24k. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và chi phí thẩm định. Tòa án cấp cao có quyết định giám đốc thẩm lần 2: 1. Chấp nhận kháng nghị số 216/2017/KN-VKS-DS ngày 17/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 211/2022/DSPT ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Việt H, bà Hoàng Qui P với bị đơn ông Đinh Xuân T; những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà NLQ1, bà NLQ2 và bà NLQ3. 3. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Nhận định của tòa cấp Phúc thẩm lần 3: [2.1] Về nguồn gốc đất tranh chấp: Phần đất có diện tích 80m2 đất tranh chấp tại Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ (Hiện nay là thửa đất số 65, tờ bản đồ số 32, diện tích 86,17m2, địa chỉ: Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02107 ngày 05/3/2015 do ông Đinh Xuân T và bà NLQ3 đứng tên căn cứ vào Bản án dân sự phúc thẩm số 207/2014/DSPT ngày 25/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ). Phần đất tranh chấp này có nguồn gốc là đất của Hội đồng nhà đất Quân khu 9 cấp cho bà Hoàng Qui P theo Giấy đất trong quân đội số 1429/HĐNĐ ngày 19/01/1994, về nội dung của Giấy chứng nhận số 1429 có ghi nội dung là cấp cho “Đồng chí P và chồng con ruột được quyền sử dụng lâu dài, có trách nhiệm nộp thuế và các thủ tục quy định của Nhà nước”. [2.2] Sau khi được cấp đất, phía bà P có đơn xin chuyển nhượng đất cho ông T vào ngày 25/5/1995. Phần đất này tuy thời điểm bà P chỉ được cấp theo giấy của Quân khu chưa hợp thức hóa tại cơ quan có thẩm quyền (là Ủy ban nhân dân) tức là phải được cấp, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định chung là cũng chưa đảm bảo đầy đủ quyền năng của người sử dụng đất, nhưng thực tế phía bà P cũng không có nhu cầu sử dụng đất và gia đình đã được cấp phần đất 400m2 do ông H đứng tên và hiện ông H, bà P đang sử dụng nên đã làm giấy nhượng quyền cho bị đơn ông T sử dụng. Xét, về hình thức hợp đồng chuyển nhượng tuy các bên không có Công chứng, chứng thực của Nhà nước, nhưng đã được sự xác nhận của Thượng tá Nguyễn Minh H ký xác nhận, tại văn bản số 45/DT-CHC ngày 03/4/2009 (bút lụt 313) của Phòng Doanh trại – Cục Hậu cần Quân khu 9 xác định “việc ông H1 ký là đúng thẩm quyền bởi ông H1 là ủy viên Hội đồng nhà đất có quyền ký phân phối cấp đất, thu hồi đất, xác nhận chuyển nhượng đất cho tất cả cán bộ, sỹ quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên Quốc phòng..” và cho tới thời điểm này không có ý kiến hay bất kì phản đối nào từ phía Hội đồng nhà đất Quân khu và quan trọng hơn hết ý chí của bà P đã xác định đồng ý chuyển cho ông T và ông T cũng xác định đã nhận đất sử dụng trong thời gian dài từ năm 1995 nên có cơ sở xác định ý chí bà P đã không sử dụng phần đất này nên mới chuyển cho ông T, quá trình giải quyết vụ án bà P cho rằng khi ký vào giấy này bà không hiểu rõ nội dung và không biết đất này bà được cấp tới khi tranh chấp năm 2007 mới biết là không có cơ sở, bởi lẽ, bà thừa nhận có viết vào đơn xin chuyển quyền cho ông T vào năm 1995 thì đã biết mình được cấp ngay tại thời điểm này và bà có đủ năng lực hành vi dân sự tại thời điểm đơn được ký và trong đơn cũng ghi rõ nội dung về thửa đất bà xin được chuyển nhượng cho ông T. [2.3] Về việc trong đơn chuyển nhượng phía ông H cho rằng ông không có ký vào nên không có hiệu lực vì thời điểm đó ông ở Sóc Trăng và kết luận giám định cho rằng không đủ cơ sở để giám định chữ ký của ông, hội đồng xét xử thấy rằng, ông H là chồng bà P, phần đất bà P chuyển cho ông T là gần nhà nguyên đơn ông H, khi ông T lập hồ sơ thửa đất ngày 18/11/1995 (bút lục 332) để hợp thức hóa phần đất thì ông H có ký giáp ranh, có xác nhận của chính quyền địa phương nên xem như ông đã biết việc này mà không phản đối, mặt khác, tại biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 17/11/2014 (bút lục 573), ông H xác định có nhận 04 chỉ vàng từ ông T là tiền bồi hoàn và tại phiên tòa nguyên đơn ông H có cung cấp biên bản thẩm tra xác minh ngày 20/2/1998 đối với đất của ông để hợp thức hóa thì phía ông T cũng có ký giáp ranh tức là liền đất ông H đang sử dụng là phần đất tranh chấp ông T ký giáp ranh nghĩa là ông H cũng xác định đất này đã giao cho ông T sử dụng từ năm 1995 theo đơn chuyển nhượng bà P ký nên từ đây có cơ sở xác định rõ ý chí của ông H là có sự đồng thuận với bà P trong việc chuyển phần đất cho ông T sử dụng. [2.4] Về quá trình quản lý sử dụng đất: Như trên nhận định phần đất bà P được cấp đáng lẽ ra phải làm thủ tục với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy, bà P lại chuyển quyền cho ông T là cũng chưa đảm bảo nhưng từ ban đầu ngay khi được cấp đất năm 1994, nguyên đơn bà P kể cả ông H đã không sử dụng đất này và xin chuyển quyền cho ông T năm 1995 và thực tế ông T là người quản lý đất này từ khi nhận chuyển nhượng đến năm 2007 mới tranh chấp do từ việc bà P đề nghị ông T dành một phần đất làm lối đi. Ông T đã sử dụng ổn định 12 năm, cất nhà có xin phép cấp có thẩm quyền nhưng gia đình nguyên đơn không phản đối, phía bà P và ông H chưa từng quản lý và sử dụng phần đất tranh chấp. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định ông T là người sử dụng đất, đây là căn cứ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực tế sau khi được công nhận phần đất thông qua bản án phúc thẩm số 207/2014/DS PT ngày 25/11/2014 thì ông T cũng phải thực hiện nghĩa vụ nộp giá trị quyền sử dụng đất vào Ngân sách Nhà nước thì ông T mới được cấp quyền sử dụng. Do đó, kháng cáo của nguyên đơn đòi hủy hợp đồng và yêu cầu bị đơn ông T giao trả đất là không có cơ sở chấp nhận. [3] Xét kháng cáo của bị đơn: Như trên nhận định có việc chuyển quyền một cách tự nguyện của ông H, bà P đối với phần đất hiện ông T đang sử dụng, ông T sau khi nhận chuyển nhượng đã cất nhà sử dụng đất từ năm 1995 trong thời gian dài phía gia đình nguyên đơn ông H không phản đối, phù hợp quy định pháp luật đất đai tại Điều 101 nên được công nhận phần đất trên. Hiện ông T và vợ là bà NLQ3 đã được cấp giấy theo bản án phúc thẩm số 207/2014/DS PT ngày 25/11/2014, tuy bản án bị giám đốc thẩm hủy nhưng như trên nhận định có cơ sở công nhận đất cho bị đơn ông T nên ổn định giữ nguyên, tuy nhiên, ông T, bà Lý phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định. Do đó, kháng cáo của bị đơn là có cơ sở chấp nhận. Đối với số vàng 04 chỉ 24k ông T yêu cầu nguyên đơn trả lại. Tại phiên tòa phúc thẩm 30/8/2022 và hôm nay, ông T tự nguyện rút lại, không yêu cầu nguyên đơn trả lại số vàng này. Đây là sự tự nguyện của bị đơn, có lợi cho nguyên đơn, phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận. Tòa cấp Phúc thẩm lần 3 tuyên: -Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hoàng Qui P, ông Nguyễn Việt H. -Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Đinh Xuân T. -Sửa bản án sơ thẩm số 64/2014/DS-ST ngày 27/6/2014 của Tòa án nhân dân quận N. 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Qui P, ông Nguyễn Việt H đối với yêu cầu buộc bị đơn ông Đinh Xuân T trả lại phần đất có diện tích 80m2 đất tranh chấp tại số Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ theo Giấy cấp số 1429/HĐNĐ ngày 19/01/1994 của Hội đồng nhà đất quân khu 9. 2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Đinh Xuân T. Công nhận cho ông Đinh Xuân T và bà NLQ3 được quyền sử dụng hợp pháp thửa đất số 65, tờ bản đồ số 32, diện tích thực tế 86,17m2, địa chỉ: Khu tập thể D, đường T, phường X, quận N, TP. Cần Thơ đã được Ủy ban nhân dân quận N cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02107 ngày 05/3/2015. 3. Đình chỉ yêu cầu của bị đơn đối với yêu cầu nguyên đơn trả lại 04 chỉ vàng 24k. …XEM THÊM TẠI FILE PDF ĐÍNH KÈM |
30-41 |
LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI MÀ QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÓ YÊU CẦU PHẢN TỐ
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn