FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI TRẢ NỢ CỦA VỢ CHỒNG” do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI TRẢ NỢ CỦA VỢ CHỒNG
STT |
NỘI DUNG |
SỐ TRANG |
01 |
Bản án số 02/2018/DS-ST ngày 18/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
Về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” Nội dung vụ án: Quỹ tín dụng nhân dân MB thỏa thuận ký hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Thành D, bà Nguyễn Thị Thanh T để cho vay tiền theo Hợp đồng tín dụng số DS0200176/HĐTD ngày 10/11/2016 với số tiền vay là 1 tỷ đồng. Ông D, bà T đã ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo khoản vay. Quá trình vay, ông D đã không đóng lãi và còn nợ vốn gốc. Quỹ tín dụng nhân dân MB khởi kiện yêu cầu: – Buộc ông D có trách nhiệm trả tiền nợ gốc và lãi đến ngày 11/4/2018 là 1.197.667.000 đồng, tiếp tục tính lãi đến khi ông D thanh toán hết nợ. – Rút yêu cầu khởi kiện không yêu cầu bà T liên đới trả nợ với ông D và yêu cầu không tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp đã ký. Tòa án nhận định: Quỹ tín dụng nhân dân MB xác định chỉ có ông D ký tên vào hợp đồng tín dụng số DS0200176/HĐTD ngày 10/11/2016, còn bà T không có ký tên tại Hợp đồng tín dụng, chữ ký tại hợp đồng là do ông D giả chữ ký của bà T ký vào hợp đồng. Hội đồng xét xử xác định số tiền vốn vay không do vợ chồng ông D, bà T cùng vay và sử dụng nên hợp đồng tín dụng chỉ có hiệu lực đối với trách nhiệm của ông D, Quỹ tín dụng nhân dân MB yêu cầu cá nhân ông D chịu trách nhiệm trả nợ là có cơ sở chấp nhận. Quỹ tín dụng nhân dân MB xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số TC00500052/HĐTC ngày 29/9/2014 là nhằm đảm bảo cho hợp đồng tín dụng được ký kết vào năm 2014. Khi ký kết ông D và bà T cùng có mặt đồng ý thế chấp cho Quỹ tín dụng nhằm đảm bảo khoản vay của hợp đồng tín dụng đã tất toán năm 2014. Đến năm 2016, khi ông D thực hiện việc ký kết lại hợp đồng tín dụng số DS0200176/HĐTD ngày 10/11/2016 thì Quỹ tín dụng MB không thực hiện ký kết lại hợp đồng thế chấp mà vẫn sử dụng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất cũ, cũng như không có hỏi ý kiến của bà T về việc tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp cũ để đảm bảo cho hợp đồng mới không có bất cứ sự thỏa thuận hay sự đồng ý của bà T là vi phạm vào Điều 9 của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số TC00500052/HĐTC ngày 29/9/2014. Tòa án nhân dân tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: – Buộc ông D phải trả cho Quỹ tín dụng nhân dân MB số tiền 1.197.667.000 đồng. Ngoài ra sau ngày xét xử sơ thẩm, ông D phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn theo mức lãi suất đã thỏa thuận. – Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân MB về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh T liên đới cùng với ông Nguyễn Thành D trả nợ vay cho Quỹ tín dụng nhân dân MB và đình chỉ yêu cầu duy trì Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đồng thế chấp quyền sử dụng đất. – Quỹ tín dụng nhận dân MB có trách nhiệm trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D, bà T. |
01 – 09 |
02 |
Bản án số 211/2018/DS-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Phú, tỉnh Bến Tre
Về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” Nội dung vụ án: Chị E có tham gia chơi hụi với chị H, do chị H là chủ hụi. Đến ngày 10/4/2018 chị H tuyên bố úp hụi, chị E có yêu cầu chị H trả lại cho chị E số tiền hụi 50 triệu đồng mà chị E đã đóng nhưng chị H và chồng chị H là anh Phan Văn Q không trả tiền cho chị. Số tiền hụi này chị H có sử dụng vào mục đích kinh tế chung cho gia đình, nên đây là nợ chung của chị H và chồng chị H là anh Q. Chị E yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị H và anh Q phải có nghĩa vụ liên đới trả 50.000.000 đồng cho chị. Nhận định của Tòa án: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H đã thừa nhận hiện nay còn nợ chị Rẩy E số tiền hụi là 50.000.000 đồng đến nay vẫn chưa trả. Do đó, việc chị Rẩy E yêu cầu chị H trả cho chị Rẩy E số tiền 50.000.000 đồng này là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Chị Rẩy E yêu cầu chị H và anh Q có nghĩa vụ liên đới trả số tiền 50.000.000 đồng này cho chị vì số tiền hụi này chị H có sử dụng vào mục đích kinh tế chung cho gia đình. Anh Q cũng có ý kiến là đồng ý có nghĩa vụ liên đới cùng chị H trả tiền cho chị Rẩy E (BL 28). Do đó, việc chị Rẩy E yêu cầu chị H và anh Q có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho chị là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật. Tòa án nhân dân tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Rẩy E. Buộc chị Huỳnh Thị H và anh Phan Văn Q phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Bùi Thị Rẩy E số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng). |
10 – 13 |
03 |
Bản án số 269/2018/DS-PT ngày 23/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp
Về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi” Nội dung vụ án: Các nguyên đơn gồm Võ Ngọc T1, Nguyễn Thị Kim N1, Phan Thị Minh T2, Nguyễn Ngọc D1, Hồ Thị N2, Trương Thị L1, Lê Thị Hồng G, Nguyễn Thị Bé C tham gia chơi các dây hụi cho bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X làm chủ hụi. – Bà Võ Ngọc T1: chơi một dây hụi 1.000.000 đồng/phần x 19 phần. Bà đóng hụi sống được 9 lần tổng cộng 5.655.000 đồng thì bà X tuyên bể hụi. Quá trình bà X làm chủ hụi thì ông H2 (chồng bà X) đều biết, ông H2 cũng đi lấy tiền hụi sống của bà T1. Bà T1 yêu cầu bà X, ông H2 liên đới trả số nợ hụi còn thiếu 5.655.000 đồng. – Bà Nguyễn Thị Kim N1: chơi dây hụi thứ nhất loại hụi 1.000.000 đồng x 15 phần, dây hụi thứ hai loại hụi 500.000 đồng/phần x 16 phần. Sau khi hốt hụi lần cuối, bể hụi thì hai bên thông nhất bà X còn thiếu nợ 9.000.000 đồng. Bà N1 yêu cầu bà X, ông H2 liên đới trả 9.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. – Bà Phan Thị Minh T2: Chơi dây hụi 1.000.000 đồng/phần x 15 phần. Tổng tiền hụi sống là 7.000.000 đồng. Bà T2 yêu cầu bà X, ông H2 liên đới trả số nợ hụi còn thiếu là 7.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. – Bà Nguyễn Ngọc D1: yêu cầu bà X, ông H2 liên đới trả số tiền nợ hụi là 6.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. – Bà Hồ Thị N2: chơi 2 dây hụi do bà X làm chủ hụi. Nay yêu cầu bà X và ông H2 liên đới trả tiền hụi còn thiếu là 20.000.000 đồng. – Bà Trương Thị L1: chơi 4 dây hụi do bà X làm chủ hụi. Sau khi bể hụi, 2 bên thống nhất tiền nợ hụi 4 dây là 71.000.000 đồng. Sau đó bà X và ông H2 có trả được 15.700.000 đồng. Bà L1 yêu cầu bà X, ông H2 liên đới trả số nợ hụi còn thiếu là 55.300.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. – Bà Lê Thị Hồng G: chơi 2 dây hụi. Nay bà G đồng ý giảm nợ thêm 4.000.000 đồng, và chỉ yêu cầu bà X, ông H2 liên đới trả nợ hụi còn thiếu là 41.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. – Bà Nguyễn Thị Bé C: Chơi hai dây hụi, yêu cầu bà X và ông H2 liên đới trả tiền hụi sống là 9.750.000đ + 3.600.000đ =13.350.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên Chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, buộc vợ chồng bà X, ông H2 liên đới trả cho các nguyên đơn nợ hụi, liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Sau đó, ông H2 kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm đã xét xử. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Ông H2 cho rằng không biết bà X có sử dụng tiền hụi vào việc chi tiêu mua sắm, sinh hoạt, lo lắng kinh tế trong gia đình hay không. Ông H2 xác định nợ hụi là nợ riêng của bà X vì vậy ông H2 không đồng ý liên đới trả nợ hụi với bà X mà chỉ tự nguyện hỗ trợ bà X trả nợ theo khả năng của ông H2. Ông H2 không có chứng cứ gì để chứng minh việc bà X làm chủ hụi là do cá nhân bà X và không liên quan gì đến ông H2. Bà X và ông H2 là vợ chồng có đăng ký kết hôn và được UBND xã T.N.Đ (huyện C, tỉnh Đồng Tháp) cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 10/8/2004, bà X tổ chức làm chủ hụi các dây hụi ngay tại quán cà phê ở nhà của vợ chồng bà X, ông H2 trong thời gian dài, ông H2 biết rõ việc bà X tổ chức và làm chủ hụi nhiều dây hụi, ông H2 có tham gia thu gom tiền hụi, tổ chức bốc thăm khui hụi dùm bà X. Bà X cũng thừa nhận có sử dụng tiền lời hụi, tiền hoa hồng hụi vào việc chi tiêu mua sắm, sinh hoạt, buôn bán, lo lắng kinh tế gia đình. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn H2, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm, buộc vợ chồng bà X và ông H2 liên đới trả nợ hụi. |
14 – 25 |
04 |
Bản án số 93/2018/DS-PT ngày 20/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” Nội dung vụ án: Ông P cho bà L vay tiền nhiều lần, tổng cộng gốc là 313.000.000 đồng, tiền lãi 20 tháng 15 ngày là 48.124.000 đồng. Các giấy tờ biên nhận là do ông viết và bà L ký và ghi tên, khi vay chỉ có bà L vay, ông C và bà L là vợ chồng và bà L vay tiền trên với mục đích sinh hoạt gia đình như trị bệnh cho con, mua phân thuốc làm ruộng, mua thức ăn chăn nuôi, trả lãi cho anh em trong gia đình, đưa mẹ chồng đi khám bệnh. Nay ông yêu cầu ông C và bà L phải liên đới trả cho ông tổng cộng tiền gốc là 313.000.000 đồng và số tiền lãi tính từ ngày 14/9/2015 cho đến ngày 29/5/2017, trừ đi số tiền đã đã 47.483.000 đồng. Tổng cộng liên đới trả 313.641.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P, buộc ông C, bà L liên đới trả cho ông P số tiền 313.641.000 đồng. Ngày 5/6/2017, ông C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Giữa ông P và bà L đã xác lập hợp đồng vay tài sản, có thời hạn và có lãi. Đến hạn, bà L chỉ trả được một phần lãi là vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Ông P khởi kiện yêu cầu trả tiền vay là 313.000.000 đồng và lãi suất 0,75%/tháng tính từ ngày 14/9/2015 cho đến ngày xét xử sơ thẩm 29/5/2017 (20 tháng 15 ngày) số tiền là 48.124.000 và khấu trừ 47.483.000 đồng tiền lãi bà L đã trả nên tiền lãi còn lại 313.641.000 đồng là có căn cứ. Việc vay tiền của bà L làơ trong thời kỳ hôn nhân, trong hợp đồng vay tiền của bà L cũng nói rõ mục đích vay là để phục vụ cho gia đình nên ông C và bà L phải cùng có trách nhiệm trả nợ là phù hợp. Mặt khác, giữa hai bên có mối quan hệ bạn bè thân thiết, tại phiên tòa chính ông C cũng xác định ông đã có nhiều lần vay mượn tiền của ông P để lo việc gia đình nhưng trong giấy biên nhận trên chỉ có mình ông C ký, (ông vay tiền của ông P cùng trong khoảng thời gian bà L vay tiền của ông P và có những khoản vay cùng thời gian), ông C đã trả xong cho ông P. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn C, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm. |
26 – 32 |
05 |
Bản án số 47/2018/DS-PT ngày 22/1/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
Về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản” Nội dung vụ án: Vợ chồng bà Cao Thị T1, Bùi Văn V làm chủ thảo nhiều dây hụi và vay tiền của bà T. Bà T đòi nhiều lần nhưng ông V và bà T1 hứa hẹn nhiều lần nhưng không trả. Do đó, bà T khởi kiện yêu cầu bà T1, ông V phải trả: tiền hụi 161.400.000 đồng, tiền vay 150.000.000 đồng, với tiền vay yêu cầu tính lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tính từ khi bà T1, ông V ngưng đăng lãi suất đến nay. Trả làm một lần sau khi án có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị T. Buộc bà Cao Thị T1 (T1) và ông Bùi Văn V liên đới trả cho bà T số tiền 324.861.000 đồng (ba trăm hai mươi bốn triệu T trăm mười sáu nghìn đồng), sau khi án có hiệu lực pháp luật. Bị đơn vợ chồng bà T1, ông V kháng cáo. Ông V không đồng ý liên đới trả nợ hụi và tiền vay, bà T1 không đồng ý trả các khoản lãi. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Số tiền lãi được tính theo mức lãi suất 9%/năm với thời gian 13 tháng 07 ngày là đúng qui định của pháp luật. Bà T1 cũng không cung cấp thêm được chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ. Bà T không đồng ý bỏ tính lãi nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T1 về việc không tính tiền lãi phát sinh của số tiền 150.000.000 đồng. Tại phiên tòa, đương sự có thỏa thuận về số tiền hụi phải trả. Ông V có kháng cáo nhưng vắng mặt, nên Hội đồng xét xử xem như ông V từ bỏ kháng cáo, Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu kháng cáo của ông V. Bà T1 kháng cáo đồng ý chịu trách nhiệm cá nhân trả nợ cho bà T, bà T không đồng ý theo yêu cầu của bà T1, đề nghị vợ chồng bà T1 cùng có trách nhiệm trả nợ. Xét số tiền bà T1 nợ bà T phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của bà T1 và ông V, trong thời gian giao dịch tiền vay và tiền hụi thì ông V cũng tham gia đi góp hụi cho bà T1. Ông V phải có trách nhiệm liên đới cùng bà T1 trả nợ cho bà T. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông V. Công nhận sự thỏa thuận của bà T và đại diện hợp pháp của bà T1 tại phiên tòa phúc thẩm, sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm. Buộc bà T1 và ông V liên đới trả cho bà T số tiền 299.387.500 đồng. |
33 – 39 |
06 |
Bản án số 52/2017/HNGĐ-PT ngày 26/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
Về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” Nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn H1 kết hôn với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh vào ngày 27-11-2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại nhà riêng, do vợ chồng xây dựng trên phần đất của cha mẹ anh H1 cho. Quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên gây gổ, cãi vã nhau, có lần anh H1 đánh chị. Đến tháng 02 năm 2017 chị bỏ nhà đi làm thuê và sống tại nhà trọ ở tỉnh Đồng Nai. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống với nhau được nữa nên xin ly hôn với anh H1. – Về con chung: 1 cháu tên Nguyễn Thị Cẩm H2, chị H đồng ý giao cho anh H1 nuôi; – Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa giải quyết; – Về nợ chung: Vợ chồng nợ Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Tây Ninh 12.000.000 đồng và Ngân hàng Agribank 35.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Văn H1; chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn H1. – Về con chung: giao cho anh H1 nuôi dưỡng, chị H được quyền thăm nom; Về nợ chung: đối với nợ Ngân hàng Chính sách xã hội, mỗi người có trách nhiệm trả 6.000.000 đồng. Đối với khoản nợ Ngân hàng Agribank, vợ chồng có trách nhiệm liên đới trả nợ. Ngày 20/7/2019, VKSND thành phố T có Quyết định kháng nghị phúc thẩm đề nghị hủy một phần bản án hôn nhân gia đình về phần giải quyết nợ chung của Ngân hàng Agribank. Nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm: Vợ chồng anh H1 chị H có vay vốn ngân hàng số tiền 35.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 30-11-2016 đến ngày 30-11-2019, đến nay vợ chồng anh H1 chị H chưa vi phạm hợp đồng, do đó Ngân hàng xin không tham gia tố tụng trong vụ án này. Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án sơ thẩm lại tuyên buộc vợ chồng anh H1, chị H phải liên đới trả cho Ngân hàng nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Tây Ninh, Phòng giao dịch Chợ Mới số tiền 35.000.000 đồng và mỗi người phải chịu án phí số tiền 875.000 đồng trong khi Ngân hàng không có yêu cầu độc lập trong vụ án là giải quyết vượt quá yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Hủy và đình chỉ một phần bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm mà TAND thành phố T đã tuyên đối với phần chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn H1 có trách nhiệm liên đới trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Tây Ninh, Phòng giao dịch Chợ Mới số tiền 35.000.000 (ba mươi lăm triệu) đồng theo hợp đồng tín dụng giữa hai bên. |
40 – 46 |
07 |
Bản án số 53/2017/HNGĐ-PT ngày 01/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp
Về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung và nợ chung” |
47 – 60 |
08 |
Bản án số 277/2017/DS-PT ngày 10/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
61 – 66 |
09 |
Bản án số 49/2017/DS-ST ngày 25/9/2017 của Toà án nhân dân huyện T H, tỉnh Long An
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
67 – 70 |
10 |
Bản án số 293/2016/DS-PT ngày 30/11/2016 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
71 – 75 |
11 |
Bản án số 624/2016/DS-PT ngày 20/5/2016 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
76 – 80 |
12 |
Bản án số 25/2016/DS-ST ngày 26/01/2016 của Toà án nhân dân quận X, thành phố HCM
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
81 – 86 |
13 |
Bản án số 61/2016/DSPT ngày 12/01/2016 của Toà án nhân dân thành phố HCM
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
87 – 91 |
14 |
Bản án số 1302/2015/DSPT ngày 28/9/2015 của Toà án nhân dân thành phố HCM
Về việc “Tranh chấp hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng đặt cọc, hợp đồng mua bán nhà và hợp đồng vay tài sản” |
92 – 103 |
15 |
Bản án số 49/2015/DS-ST ngày 31/8/2015 của Toà án nhân dân quận X, thành phố HCM
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
104 – 110 |
16 |
Bản án số 27/2015/DS-ST ngày 01/6/2015 của Toà án nhân dân quận X Thành phố HCM
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
111 – 116 |
17 |
Bản án số 125/2015/DS-ST ngày 23/4/2015 của Toà án nhân dân huyện HM, Thành phố HCM
Về việc “Đòi lại tài sản” |
117 – 122 |
18 |
Bản án số 483/2014/DS-GĐT ngày 28/11/2014 của Toà án nhân dân tối cao
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
123 – 126 |
19 |
Bản án số 05/2011/DS-ST ngày 03/2/2012 của Toà án nhân dân thành phố ST
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
127 – 132 |
20 |
Quyết định giám đốc thẩm số 798/2010/DS-GĐT ngày 15/12/2010 của Toà án nhân dân tối cao
Về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
133 – 135 |
XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI TRẢ NỢ CỦA VỢ CHỒNG
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL