Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH VI TẨU TÁN TÀI SẢN

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH VI TẨU TÁN TÀI SẢN

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH VI TẨU TÁN TÀI SẢN” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

SỐ TRANG

Quyết định giám đốc thẩm số 08/2020/DS-GĐT ngày 12/3/2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Về việc “Tranh chấp tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và huỷ quyết định cá biệt”

Tóm tắt nội dung:

Cục T tỉnh Quảng Ngãi đang tổ chức thi hành Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2014/HSST ngày 27/11/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Bản án hình sự phúc thẩm số 141/2015/HSPT ngày 05/5/2015 của Tòa Phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và đã ban hành 21 Quyết định thi hành án, theo đó bà Nguyễn Thị C (hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam K, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định) phải trả cho 205 người bị hại với tổng số tiền là 5.368.532.874 đồng và tiền lãi chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Chấp hành viên xác minh được bà C còn 2 tài sản gồm: Thửa đất số 458, tờ bản đồ số 08, diện tích 200m2 và thửa số 617 tờ bản đồ số 07, diện tích 126m2. Tuy nhiên, bà C cùng gia đình đã ký hợp đồng chuyển nhượng các tài sản này cho người khác vào ngày 18/6/2015. Tại thời điểm chuyển nhượng, Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2014/HSST ngày 27/11/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Bản án hình sự phúc số 141/2015/HSPT ngày 05/5/2015 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã có hiệu lực pháp luật và số tiền thu được từ việc chuyển nhượng hai thửa đất này, bà C cũng không sử dụng để thi hành án. Hiện bà C không còn tài sản nào để thi hành án.

Chấp hành viên ban hành Thông báo số 634/TB-CTHADS ngày 19/5/2017 thông báo cho 205 người được thi hành để họ yêu cầu Tòa án tuyên bố hai Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên vô hiệu; tuy nhiên hết thời hạn quy định, những người được thi hành án không yêu cầu. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Bộ luật tố tụng dân sự, bà Nguyễn Thị Thu H – Chấp hành viên – Cục T tỉnh Quảng Ngãi khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hai Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên vô hiệu và hủy hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 802023 và số CA 802037 cùng ngày 12/8/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Nguyễn Đình L1, bà Đỗ Thị A và anh Hà Văn Q, chị Trần Thị Ch.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H – Chấp hành viên sơ cấp – Cục T tỉnh Quảng Ngãi

– Ngày 09/9/2019 và ngày 01/10/2019 các ông, bà: Võ Thị Ơi, Nguyễn Thị Kim Cúc, Phạm Thị Liễu, Trần Thị Hừng, Nguyễn Thị Hợi, Trần Thị Thanh Nguyệt, bà Huỳnh Thị Em, Phạm Thị Thu Thúy có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2018/DS-ST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận hai hợp đồng chuyển nhượng nêu trên là không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các Ông, Bà.

Tại Quyết định số 102/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 25/11/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2018/DS-ST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án sơ thẩm nêu trên.

Toà án cấp giám đốc thẩm nhận định:

Thửa đất số 458 và thửa đất số 617 được hộ gia đình bà C chuyển nhượng cho ông L1, bà A và anh Q, chị Ch sau khi Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2014/HSST ngày 27/11/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Bản án hình sự phúc số 141/2015/HSPT ngày 05/5/2015 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng có hiệu lực pháp luật. Việc hộ gia đình bà C chuyển nhượng hai thửa đất nêu trên là nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa thu thi hành án. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hai thửa đất nêu trên đã được ông L, bà C chuyển nhượng từ tháng 4/2013; tại thời điểm chuyển nhượng đất, ông L, bà C không phải thực hiện nghĩa vụ thi hành bản án nào để từ đó không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu H – Chấp hành viên – Cục T tỉnh Quảng Ngãi là không đúng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của 205 bị hại trong vụ án hình sự đã có hiệu lực pháp luật.

Vì vậy, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận Quyết định kháng nghị số 102/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 25/11/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên để giải quyết sơ thẩm lại.

Toà án cấp giám đốc thẩm tuyên:

1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2018/DS-ST ngày 03/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi;

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

01 – 06

Bản án số 60/2019/DS-PT ngày 12/6/2019 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

Về việc “Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định về thi hành án dân sự”

Tóm tắt nội dung:

Bà V quen biết bà Trần Thị Kiều S nên năm 2012, bà V cho bà S vay tổng số tiền 4.275.000.000 đồng để đáo hạn ngân hàng, bốc hụi lấy tiền kinh doanh. Do không có khả năng trả nợ nên bà S lẩn tránh và vào ngày 31/01/2013, vợ chồng bà S, ông Phan Thành H đã chuyển nhượng nhà đất tại địa chỉ 241 đường N2, phường T8, thành phố H1, tỉnh Thừa Thiên Huế cho anh trai của ông H là ông Phan Thành Đ; đã sang tên ông Đ ngày 07/3/2013.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2015/HSST ngày 13/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và Bản án hình sự phúc thẩm số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử phạt bà S về hai tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; buộc bà S trả bà V 4.275.000.000 đồng, đồng thời kê biên nhà đất 241 đường N2, phường T8, thành phố H1, tỉnh Thừa Thiên Huế để bảo đảm thi hành án cho các người bị hại và số nợ thực tế, hợp pháp (nếu có) của bà S đối với ông Phan Thành Đ. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế đã tiến hành kê biên tài sản và giải quyết việc thi hành án về phần dân sự cho những người bị hại.

Ngày 31/8/2016, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế có Công văn số 361/CTHADS-CHV hướng dẫn bà V và những người được thi hành án về quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết. Bà V khởi kiện đến Tòa án yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 31/1/2013 giữa vợ chồng bà S, ông H với ông Đ vô hiệu toàn bộ; yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Phan Thành Đ số AB 380692 thửa 101-2, tờ bản đồ số 20, địa chỉ 241 Đường N2, thành phố H1; yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu của bà S trong khối tài sản chung hợp nhất của vợ chồng ông H bà S, bao gồm quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ 241 Đường N2, thành phố H1 để thi hành án cho bà V theo quyết định tại Bản án hình sự phúc thẩm số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và biên bản quyết định kê biên ngày 18/8/2016 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

1. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 31/1/2013 giữa vợ chồng bà Trần Thị Kiều S, ông Phan Thành H với ông Phan Thành Đ đã được công chứng, chứng thực tại Văn phòng Công chứng N là vô hiệu do giả tạo.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Ông Phan Thành Đ giao trả nhà và quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông bà Trần Thị Kiều S và Phan Thành H tại 241 Đường N2, phường T8, thành phố H1, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. Hủy phần thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cập nhật người sử dụng đất kế tiếp là ông Phan Thành Đ do Ủy ban nhân dân thành phố H1 ký xác nhận ngày 07/3/2013 tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 380692 ngày 06/7/2005 do Ủy ban nhân dân thành phố H1 cấp cho ông bà Phan Thành H, bà Trần Thị Kiều S.

3. Phân chia tài sản chung vợ chồng của ông Phan Thành H và bà Trần Thị Kiều S là nhà và đất tại 241 Đường N2, phường T8, thành phố H1. Ông Phan Thành H và bà Trần Thị Kiều S mỗi người có quyền sở hữu 50% khối tài sản chung của vợ chồng. Phần quyền tài sản của bà Trần Thị Kiều S được thi hành án theo bản án hình sự sơ thẩm số 10/2015/HSST ngày 13/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và Bản án hình sự phúc thẩm số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Ngày 18/10/2018 và ngày 31/10/2018, vợ chồng ông Đ, bà D và ông H, bà S có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Tòa án cấp phúc thẩm thấy Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xác định quan hệ tranh chấp cần giải quyết trong vụ án là “Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành (bản án hình sự phúc thẩm số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng) theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự” là đúng quan hệ tranh chấp; đồng thời Tòa án tỉnh Thừa Thiên Huế tuyên hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập ngày 31/01/2013 giữa vợ chồng bà S, ông H với ông Đ đối với nhà và đất tại 241 Đường N2, thành phố H1; hủy phần xác nhận biến động tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 380692 ngày 06/7/2005 của Ủy ban nhân dân thành phố H1 để khôi phục quyền và nghĩa vụ của bà S, ông H (tức là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V để kê biên nhà đất tại 241 Đường N2 nhằm bảo đảm thi hành án về tài sản theo quyết định của Bản án hình sự phúc thẩm số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng) là có cơ sở, đúng pháp luật.

Kháng cáo của vợ chồng ông D và vợ chồng ông H là không có cơ sở vì không phù hợp với quan hệ tranh chấp trong vụ án này được xác định từ nội dung Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Đối với yêu cầu của bà V, yêu cầu phân chia tài sản chung vợ chồng giữa bà S với ông H đối với nhà đất tại 241 Đường N2, thành phố H1 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Tuy bà S cho rằng nhà đất hoàn toàn do ông H tạo lập, bà S không có đóng góp tạo lập tài sản này; nhưng xét khi lập hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại 241 Đường N2 thì bà S không có văn bản xác nhận là tài sản do ông H tạo lập riêng nên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại 241 Đường N2 đứng tên bà S và ông H. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Điều 29, 33 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 213 Bộ luật dân sự chia cho bà S, ông H mỗi người 50% giá trị tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng (bản án có hiệu lực thi hành, không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm) đã xác định việc vợ chồng bà S, ông H ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 31/1/2013 chuyển nhượng nhà đất 241 Đường N2 cho vợ chồng ông Đ là hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng chuyển nhượng đất này vô hiệu do giả tạo theo quy định tại Điều 129 và việc giải quyết hậu quả vô hiệu của hợp đồng theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 (các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận) là đúng pháp luật. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án đến nay thì vợ chồng ông Đ chưa có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà S, ông H hoàn trả tiền (hoặc là tiền bán nhà hoặc là tiền vay giữa hai bên) mà trước sau chỉ cho rằng Ông Bà nhận chuyển nhượng nhà đất 241 của vợ chồng bà S, ông H là hợp pháp, đã được chỉnh lý sang tên nên vợ chồng ông Đ có quyền sở hữu hợp pháp nhà đất 241 Đường N2; hơn nữa, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 214/2015/HSPT ngày 26/8/2015 (bản án có hiệu lực thi hành, không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm), Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cũng đã quyết định kê biên 03 khối tài sản (trong đó có nhà đất 241 Đường N2) của vợ chồng ông H, bà S để “…đảm bảo thi hành án cho các người bị hại và số nợ thực tế, hợp pháp (nếu có) của bị cáo với ông Phan Thành Đ…”…

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Phan Thành H và vợ chồng ông Phan Thành Đ.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Phan Thành H và vợ chồng ông Phan Thành Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng bà V, ông B về việc thanh toán cho ông Nguyễn Thành N1 (người thuê nhà 241 Đường N2) tiền tu bổ nhà 241 Đường N2.

07 – 20

Bản án số 49/2019/DS-PT ngày 19/4/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng

Về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản”

Tóm tắt nội dung:

Vợ chồng ông N, bà Ng có vay tiền của Bà H nhiều lần; và ngày 22/12/2017, hai bên chốt lại nợ với nhau và viết “Hợp đồng vay tiền” ghi nhận vợ chồng ông N, bà Ng vay của Bà H số tiền là 2.750.000.000 đồng, thỏa thuận thời hạn vay từ ngày 22/12/2017 đến ngày 02/01/2018, nhưng quá thời hạn mà bị đơn ông N, bà Ng không trả nợ nên Bà H khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông N, bà Ng trả nợ, không yêu cầu tính lãi và yêu cầu Toà án tiếp tục duy trì biện pháp phong tỏa đối với xe ô tô biển kiểm soát 49B-006 72 để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của ông N, bà Ng với bà khi bản án của Toà án có hiệu lực.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đỗ Thị Kim H, buộc vợ chồng Ông Nguyễn Hải N, Bà Trần Thị Thúy Ng phải trả cho Bà Đỗ Thị Kim H số tiền là: 2.750.000.000 đồng (Hai tỷ bảy trăm năm mươi triệu đồng).

Sau đó, vợ chồng bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Minh Th, Công ty cổ phần vận tải du lịch thương mại QĐ kháng cáo.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Vợ chồng bị đơn cho rằng có thoả thuận lãi là 9.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày, từ khi vay đến nay, bị đơn đã cho bà H nhiều khoản tiền lãi. Tuy nhiên, bị đơn, người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn không cung cấp được bằng chứng chứng minh về việc tính lãi và trả lãi bao nhiêu. Do đó, Bà H khởi kiện buộc vợ chồng ông N, bà Ng phải trả cho Bà H số tiền nợ gốc 2.750.000.000 đồng là có cơ sở nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn vợ chồng ông N, bà Ng.

Đối với kháng cáo xem xét lại nhận định của bản án về việc ông bà mua chiếc xe ô tô là mua trả góp, không phải thế chấp vay tiền; việc ông bà bán xe cho anh Th là để trả nợ mua xe góp cho Ngân hàng không phải tẩu tán tài sản: Xét thấy, ngày 15/01/2018 thì xe ô tô khách thuộc quyền sở hữu của ông N, bà Ng vẫn đang thế chấp tại ngân hàng, việc các bên là hợp đồng ủy quyền liên quan đến tài sản thế chấp tại ngân hàng nhưng không có y kiến của ngân hàng nên các nội dung thỏa thuận trong Hợp đồng là không có hiệu lực pháp luật. Tại thời điểm anh Th thỏa thuận mua bán xe với ông N, bà Ng thì đã biết giữa Bà H với vợ chồng ông N, bà Ng có tranh chấp với nhau. Bị đơn ông Nam, bà Ng đã biết việc Bà H khởi kiện và yêu cầu phong tỏa tài sản của ông N, bà Ng là chiếc xe ô tô, tuy nhiên đến ngày 15/01/2018 ông N, bà Ng vẫn là Hợp đồng ủy quyền với anh Th và ngày 16/01/2018 là Đơn cam kết bán xe cho anh Th là có dấu hiệu tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ với Bà H.

Theo kết quả định giá tài sản (BL số 143, 144) thì chiếc xe ô tô khách giường nằm hiệu THACO, biển kiểm soát 49B-006.72 có trị giá là 1.438.500.000 đồng, bị đơn thỏa thuận bán cho anh Th giá 1.400.00.000 đồng, nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng gốc và lãi chỉ có 786.675.981 đồng, số tiền bán xe ô tô còn lại thì bị đơn vẫn không trả cho Bà H. Việc vợ chồng ông N, bà Ng cho rằng ông bà mua chiếc xe ô tô biển kiểm soát 49B-006 72 là mua trả góp, không phải thế chấp vay tiền; việc ông bà bán xe cho anh Th là để trả nợ mua xe góp cho Ngân hàng không phải tẩu tán tài sản là không có cơ sở chấp nhận.

Theo quy định tại Thông tư về Đăng xe số: 15/2014/TB-BCA ngày 04/4/2014 của Bộ Công an cũng như Thông tư số: 64/2017/TT-BCA ngày 28/12/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư về Đăng xe số: 15/2014/TB-BCA ngày 04/4/2014 thì Khi tổ chức, cá nhân u xe thì phải đăng sang tên theo quy định Hiện nay, chiếc xe ô tô biển kiểm soát 49B-006 72 vẫn đứng tên giấy chứng nhận đăng xe là Nguyễn Hải N; cũng như là thủ tục đăng sang tên từ Ông Nguyễn Hải N qua cho Anh Nguyễn Minh Th; và cũng như là thủ tục đăng sang tên từ Anh Nguyễn Minh Th cho Công ty cổ phần vận tải du lịch thương mại Q theo quy định

Xét thấy, việc bị đơn bán xe cho anh Th là hành vi tẩu tán tài sản nên Bà H đã làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản đối với xe ô tô của vợ chồng ông N, bà Ng; do đó, việc cấp sơ thẩm ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2018/QĐ-ADBPKCTT ngày 18/01/2018 là có căn cứ và đúng pháp luật.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn vợ chồng ông N, bà Ng về phần xin giảm tiền án phí;

– Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn vợ chồng ông N, bà Ng về việc yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2018/QĐ-ADBPKCTT ngày 18/01/2018 của Toà án nhân dân huyện LH; khoản nợ vay và chi phí tố tụng.

– Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nha Nguyễn Minh Th và Công ty cổ phần vận tải du lịch thương mại Q về việc yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2018/QĐ-ADBPKCTT ngày 18/01/2018 của Toà án nhân dân huyện LH.

Sửa bản án sơ thẩm về phần án phí.

21 – 35

Bản án số 309/2019/DS-PT ngày 17/4/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”

Tóm tắt nội dung:

Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 230/2014/QĐSTKDTM ngày 15/12/2014, Công ty TNHH BT (gọi tắt là Công ty BT) phải trả dần số tiền còn nợ cho Tổng công ty Cổ phần BD (nay là là Tổng công ty BD) số tiền 33.680.000.414 đồng.

Công ty BT đã không thực hiện đúng thỏa thuận trả nợ và có các dấu hiệu bỏ trốn, tẩu tán tài sản.

Sau khi có quyết định thi hành án ngày 22/3/2017, đến ngày 28/3/2017, Công ty BT đã sang nhượng tài sản của mình cho Công ty TNHH E, ngay lập tức Công ty E đã thế chấp tài sản này để vay 10 tỷ tại ngân hàng SC – T. Nhận thấy, Công ty BT không có thiện chí trả số nợ còn lại, cố tình lảng tránh và cố ý kết hợp với Công ty E để tẩu tán tài sản tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho Tổng Công ty BD.

Tổng công ty BD yêu cầu các vấn đề sau: Tuyên bố Hợp đồng mua bán công trình xây dựng, chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 06791/HĐ- MBCN ngày 28/3/2017 có công chứng số 06791, quyển số 03TP/CCSCC/HĐGD lập tại Phòng Công chứng B, Thành phố Hồ Chí Minh giữa Công ty BT với Công ty E vô hiệu vì đây là giao dịch giả tạo để Công ty BT trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho Tổng Công ty BD theo Quyết định số 230/2014/QĐSTKDTM ngày 15/12/2014 của Tòa án nhân dân quận B và Quyết định thi hành án số 224/QĐ-CCTHADS của Chi cục Thi hành án.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Tổng công ty BD.

Ngày 24/11/2018, Tổng Công ty BD kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Bản án sơ thẩm căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 174 Luật Đất đai

năm 2013 nhận định Công ty BT được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất thuộc thửa số 191, tờ bản đồ số 53 tại địa chỉ lô số 4A, đường M khu T, phường TA, quận B và hợp đồng chuyển nhượng tuân thủ đúng về hình thức theo quy định của pháp luật là không có căn cứ. Vì tại thời điểm đó, Công ty BT còn nợ tiền Tổng công ty BD và cơ quan thi hành án đã có quyết định thi hành án đối với Công ty BT, buộc Công ty BT không được chuyển dịch

tài sản.

Quyết định thi hành án số 224/QĐ-CCTHADS ngày 22/3/2017 và Quyết định 147a/QĐ-CCTHADS ngày 11/5/2017, của Chi cục Thi hành án dân sự quận B đã yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đối với Công ty BT. Công ty BT tự ý bán nhà xưởng và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Công ty E mà không có ý kiến của Cơ quan Thi hành án và sau đó lấy số tiền còn dôi ra không thực hiện việc thi hành án là vi phạm.

Xét về mặt pháp lý, tại thời điểm thế chấp, Công ty E chưa có quyền tự mình đứng ra thế chấp tài sản trên cho SC, nhưng SC vẫn chấp nhận cho Công ty E thế chấp tài sản trên là vi quy định tại Khoản 1 Điều 168 Luật đất đai năm 2013.

Công ty BT cố tình không thực hiện các quyết định của cơ quan Thi hành án bán tài sản bị phong tỏa để lấy tiền không trả cho người được thi hành án là Tổng Công ty BD. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là không phù hợp với các tình tiết chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, kháng cáo của nguyên đơn là có căn cứ.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Tổng Công ty BD, sửa bản án sơ thẩm: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

…Xem tiếp tại file PDF

36 – 50

XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH VI TẨU TÁN TÀI SẢN

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan

Hỗ trợ online