FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
SỐ TRANG |
|
Bản án số: 20/2022/DS-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền và đòi tài sản” Nội dung vụ án: Ngày 21.3.2019, bà Phạm Thị T (Bên A) và ông Nguyễn H (Bên B) ký Hợp đồng ủy quyền do Văn phòng công chứng T chứng nhận. Có nội dung và phạm vi ủy quyền như sau: “Hiện nay, bà Phạm Thị T đang làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số X. Nay thửa đất đang thuộc diện quy hoạch, giải tỏa theo quy định của Nhà nước. Khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép, bên B thay mặt và nhân danh cho bên A liên hệ với các cơ quan Nhà nước thực hiện các công việc liên quan. Đến nay bà T vẫn chưa nhận được bất cứ những gì từ ông H đã nhận thay bà T được hưởng, bao gồm 118.766.000 đồng và phiếu bố trí đất tái định cư sau khi thay mặt bà T thực hiện các công việc từ hợp đồng ủy quyền đã lập. Nhận thấy tính chất sự việc nghiêm trọng và ông H có hành vi vi phạm ủy quyền. T yêu cầu Tòa án giải quyết: – Hủy Hợp đồng ủy quyền giữa bà Phạm Thị T và ông Nguyễn H – Buộc ông Nguyễn H trả lại cho bà Phạm Thị T 01 Phiếu bố trí đất tái định cư Tòa án sơ thẩm nhận định: Xét Hợp đồng ủy quyền ngày 21.3.2019: Tuy có những vi phạm nêu trên nhưng về bản chất không ảnh hưởng đến việc ủy quyền của bà T cho ông H; ông H không lừa dối bà T; bà M đã ký và xác nhận đúng chữ ký của bà trong hợp đồng; những nội dung trong hợp đồng đúng theo lời chứng của công chứng viên. Hợp đồng mua bán ngày 08/6/2020 giữa bà T, ông H và bà H là mua bán hồ sơ giải tỏa đền bù số 640, không rõ đối tượng giao dịch mua bán khi chưa có phiếu bố trí tái định cư, khi bán hồ sơ ông H nghĩ rằng đây là phiếu bố trí lô đất tái định cư của riêng ông H nên sau khi bán ông Hòa giữ toàn bộ số tiền bán hồ sơ này. Do đó, hợp đồng mua bán ngày 08/6/2020 giữa bà T, ông H với bà H là không có hiệu lực thi hành, đồng thời bà T không chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho bà H. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu đòi tài sản của bà T, không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H về công nhận lô đất tái định cư số hiệu 41 là có cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền và đòi tài sản” đối với ông Nguyễn H. Xử: Chấm dứt Hợp đồng ủy quyền giữa bà Phạm Thị T và ông Nguyễn H. Ông Nguyễn H phải trả lại cho bà Phạm Thị T số tiền là 88.766.000 đồng.Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị T về việc buộc ông Nguyễn H giao cho bà Phạm Thị T 01 Phiếu bố trí đất tái định của UBND huyện H. 2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Phan Thúy H về việc công nhận quyền sử dụng đất tại Lô đất số X. |
1-18 |
|
Bản án số: 55/2022/DS-ST ngày 08/4/2022 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố C
Về việc: “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu và yêu cầu hủy giấy CNQSDĐ” Nội dung vụ án: Vào năm 2016, các nguyên đơn Ông H và Bà N có vay của bị đơn là ông Nguyễn Thanh H số tiền 120.000.000 đồng. Để vay được tiền phải thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng tổng diện tích đất là 60m2, để làm tin. Sau đó bị đơn yêu cầu vợ chồng nguyên đơn ra văn phòng công chứng làm hợp đồng ủy quyền cho bị đơn, thì bị đơn mới cho nguyên đơn vay tiền. Do tin tưởng bị đơn nên vợ chồng nguyên đơn đến phòng công chứng, lập văn bản công chứng ủy quyền cho bị đơn trong vòng 03 năm, nội dung hợp đồng là “bên B thay mặt bên A quản lý, sử dụng và ký kết các hợp đồng: chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, tặng cho, xây dựng, cho mượn, cho thuê và được nhận tiền và ký kết các văn bản hủy, biên bản thanh lý các văn bản liên quan nêu trên đối với tài sản là quyền sử dụng đất…. ” sau khi ra công chứng xong, đến thời hạn đóng lãi, nguyên đơn tìm bị đơn để trả tiền lãi, nhưng bị đơn cố tình tránh mặt, nên nguyên đơn chưa đóng được. Khi nguyên đơn đến thăm nhà thì phát hiện nhà và đất đã bị bị đơn bán cho người khác và họ đang xây dựng để ở. Tòa án sơ thẩm nhận định: Lý do nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền giữa các nguyên đơn với bị đơn là do hợp đồng ủy quyền này che giấu cho hợp đồng vay 120.000.000 đồng. Xét tính pháp lý của hợp đồng ủy quyền, hội đồng xét xử thấy rằng tại thời điểm công chứng chứng thực hợp đồng ủy quyền, các bên đều có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự. Về phía văn phòng công chứng và công chứng viên đã thực hiện đúng và đủ theo quy định về trình tự, thủ tục yêu cầu công chứng theo luật công chứng, và các quy định khác có liên quan. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy hợp đồng ủy quyền ngày 28/10/2016 giữa Trần Văn H và bà Tống Thị Bạch N với ông Nguyễn Thanh H, văn bản công chứng tại Văn phòng công chứng Miền tây, số công chứng 4070, quyển số 06/02/2016/TP/CC-SCC/HĐGD. 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc Yêu cầu tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X379519, số vào sổ GCN 04888.QSDĐ, cấp cho ông Hà Minh M, ngày 15/01/2018. Cập nhật chỉnh lý cho ông Nguyễn Cường Q ngày 10/01/2020. |
19-26 |
|
Bản án số: 22/2021/DS-ST ngày 21/12/2021 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
Về việc: ”Yêu cầu chấm dứt hợp đồng ủy quyền” Nội dung vụ án: Ngày 19/12/2007, bà C ký hợp đồng ủy quyền với anh Phạm Tuấn A để anh Tuấn A thay mặt bà làm các thủ tục pháp lý cần thiết để dùng toàn bộ tài sản là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 116 tại Hà Nội đem thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ cho của bên thứ ba khi có phát sinh với cơ quan tổ chức tín dụng cho vay. Tuy nhiên, từ sau khi ký hợp đồng ủy quyền trên, anh Tuấn A không thực hiện đúng công việc ủy quyền. Tòa án sơ thẩm nhận định: Hội đồng xét xử xác định: ngày 19/12/2007, bà Trần Thị B và anh Phạm Tuấn A có tự nguyện ký kết hợp đồng ủy quyền với nội dung về các nội dung như bà B trình bày. Có thời hạn thực hiện hợp đồng ủy quyền có giá trị đến khi hoàn thành thủ tục thế chấp tài sản nêu trên để vay vốn tại cơ quan tổ chức tín dụng hoặc bị chấm dứt hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật; chỉ có giá trị sử dụng một lần và không được phép ủy quyền lại. Tuy nhiên, hợp đồng ký kết được nhiều năm nhưng anh Tuấn A là người được ủy quyền cũng không thực hiện công việc ủy quyền như thỏa thuận, bà B vẫn giữ bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vào năm 2013, bà B đ tự đứng ra ký hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho khỏa vay của b n thứ ba với Ngân hàng hợp tác x Việt Nam. Như vậy căn cứ vào khoản 1 điều 589, điều 582 bộ luật dân sự năm 2005 thì hợp đồng ủy quyền này đã bị chấm dứt do hết thời hạn, nên yêu cầu khởi kiện của bà B được chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị B. Tuyên bố chấm dứt việc ủy quyền giữa bà Trần Thị B và ông Phạm Tuấn A theo hợp đồng ủy quyền được công chứng số 689/UQ do Phòng công chứng số 02 công chứng ngày 19/12/2007 kể từ ngày bản án c hiệu lực pháp luật. |
27-32 |
|
Bản án số: 309/2020/DS-ST ngày 23-12-2020 của Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền và đòi tài sản” Nội dung vụ án: Ông S bà B ủy quyền cho ông Trần Phước N bằng hợp đồng ủy quyền được lập tại văn phòng công ngày 17/01/2017. Nội dung ủy quyền: Bên B (ông N) được quyền thay mặt và nhân danh bên A (ông S bà B) liên hệ với bên cho thuê (bà Nguyễn Thị Phương Y) trong hợp đồng thuê nhà, các tổ chức hành nghề công chứng, các cơ quan chức năng có thẩm quyền để ký biên bản thanh lý, chấm dứt hợp đồng thuê nhà hoặc phụ lục sửa đổi, bổ sung hoặc gia hạn hợp đồng thuê nhà và thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng thuê nhà số 14123 ngày 07/7/2016 do Phòng Công chứng nhận. Theo hợp đồng thuê nhà giữa ông S bà B với bà Y thì ông S bà B đặt cọc cho bà Y số tiền 240.000.000 đồng để thuê toàn bộ căn nhà số V Hương Lộ B, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 25/01/2017, ông Trần Phước N ký “Hợp đồng thuê mặt bằng – nhà kho” để cho thuê lại toàn bộ mặt bằng, nhà kho. Giá cho thuê 88.000.000 đồng/tháng. Ông N đã nhận tiền đặt cọc của công ty Kim Tân và nhận tiền thuê nhà từ tháng 01/2017 đến tháng 9/2017. Nhưng ông N không thay mặt ông S bà B trả tiền thuê nhà cho bà Nguyễn Thị Phương Y và không đưa lại tiền này cho ông Sinh, bà Ba. Do ông Sinh, bà Ba nợ tiền thuê nhà, nên tháng 04/2017 bà Y khởi kiện ông Sinh, bà Ba tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thuê nhà và yêu cầu ông Sinh, bà Ba phải trả cho bà Y tiền thuê nhà còn thiếu. Tòa án sơ thẩm nhận định: Ông N không thực hiện đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền với ông S bà B là ông N vi phạm nội dung ủy quyền, không giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận là vi phạm nghĩa vụ của bên được ủy quyền. Do đó ông S bà B có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền đối với ông N và yêu cầu ông N hoàn trả số tiền đã nhận của công ty Kim Tân là phù hợp với quy định. Mặc dù ông N đã nhận của Công ty Kim Tân số tiền 865.000.000 đồng nhưng ông S bà B chỉ yêu cầu ông N trả số tiền 420.000.000 đồng là hoàn toàn tự nguyện nên có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Do hợp đồng thuê nhà giữa ông Sinh, bà Ba với bà Y đã chấm dứt nên nội dung ủy quyền trong hợp đồng ủy giữa người ủy quyền là ông S bà B với người được ủy quyền là ông N cũng đương nhiên chấm dứt. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Tấn S bà Nguyễn Thị B. 2. Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng ủy quyền người được ủy quyền là ông Trần Phước N. Buộc bị đơn ông Trần Phước N có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn ông Võ Tấn S bà Nguyễn Thị B số tiền 420.000.000 đồng |
32-38 |
|
Bản án số: 12/2019/DS-ST ngày 21/3/2019 của Tòa án nhân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
Về việc: “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, đòi tài sản và tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất” Nội dung vụ án: Bà T đã ủy quyền lại cho nhân viên là bà Nguyễn Thị Ái L để bà L có trách nhiệm quản lý, điều hành toàn bộ công việc kinh doanh tại Hải sản tươi sống K trong thời gian bà T chữa bệnh. Thời hạn ủy quyền là 10 năm. Do tin tưởng bà L nên khi bàn giao tài sản, giữa bà T và bà L không lập biên bản giao nhận mà chỉ thỏa thuận bằng lời nói, bà T không thể nhớ cụ thể được. Sau thời gian điều trị không lâu, bà T trở lại để tiếp nhận công việc kinh doanh thì bà L không bàn giao quán, không giao trả tài sản cho bà T. Mặc dù hiện tại bà T vẫn là người quyết toán thuế đối với nhà nước. Bà Nguyễn Thị Mỹ T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau: Tuyên hủy hợp đồng ủy quyền số 003141 do Văn phòng công chứng T chứng nhận ngày 14/3/2017 giữa bà Nguyễn Thị Mỹ T và bà Nguyễn Thị Ái L. Buộc bà Nguyễn Thị Ái L giao trả lại quán Hải sản tươi sống K và các tài sản mà bà T đã bàn giao cho bà L như đã liệt kê nêu trên. Tòa án sơ thẩm nhận định: Kết luận giám định kết luận: Chữ ký, chữ viết họ tên “Nguyễn Thị Mỹ T” trên tài liệu cần giám định “Giấy đặt cọc quán” đề ngày 22i của “hợp đồng cho thuê đất” đề ngày 06/3/2017 so với chữ viết đứng tên Nguyễn Thị Mỹ T do cùng một người ký và viết ra. Từ phân tích trên, có cơ sở xác định đến ngày 06/3/2017 nguyên đơn (bên A) bà Nguyễn Thị Mỹ T có nhận số tiền 240.000.000 đồng của bên B bà Nguyễn Thị Ái L. Đối với số tiền 200.000.000 đồng không có chứng cứ thể hiện bà L có giao cho bà T vào ngày 20/3/2016 cũng như số tiền 4.000.000 đồng làm giấy phép kinh doanh như bà L trình bày. Do đó, không có cơ sở cho rằng bà T có nhận của bà L số tiền 204.000.000 đồng. Đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Minh H, ông Dương Viết T về việc hủy hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số 002595 tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án hợp đồng trên đã hết thời hạn. Do đó, có cơ sở chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Minh H, ông Dương Viết T. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ T đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Ái L về việc đòi tài sản. Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ T và bị đơn Nguyễn Thị Ái L như sau: Chấm dứt hợp đồng ủy quyền số 003141 do Văn phòng công chứng T chứng nhận ngày 14/3/2017 giữa bà Nguyễn Thị Mỹ T và bà Nguyễn Thị Ái L. |
39-48 |
[XEM THÊM TẠI FILE PDF] |
LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn