Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN “KHIẾU KIỆN VỀ QUYẾT ĐỊNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN “KHIẾU KIỆN VỀ QUYẾT ĐỊNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN KHIẾU KIỆN VỀ QUYẾT ĐỊNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN KHIẾU KIỆN VỀ QUYẾT ĐỊNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG

STT

TÊN VĂN BẢN

TRANG

Bản án số 08/2020/HC-ST ngày 07/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên

Về việc: Khiếu kiện quyết định xử lý vi phạm hành chính về trật tự xây dựng

Tóm tắt nội dung vụ án

Người khởi kiện ông C trình bày: ông H1 được công ty N giao khoán diện tích đất 0,24ha để trồng cà phê. Năm 2013 ông H1 và vợ là bà H2 chuyển nhượng diện tích đất 124m2 đất nhận khoán trồng cà phê cho ông C bằng hợp đồng. Ông C đã giao đủ tiền cho vợ chồng ông H1 nhưng chưa tiến hành sang tên. Sau khi nhận chuyển nhượng ông C san lấp mặt bằng và xây dựng căn nhà cấp 4 và các công trình phụ trên thửa đất. Ngày 31/7/2019, Chủ tịch UBND thành phố P ban hành Quyết định số: 16/QĐ-KPHQ về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả tháo dỡ công trình xây dựng trái phép do ông C xây dựng công trình không có giấy phép. Ngày 06/8/2019 ông C khiếu nại quyết định trên và được Chủ tịch UBND TP P giải quyết bằng quyết định giải quyết khiếu nại số 1186/QĐ-UBND theo hướng giữ nguyên nội dung của quyết định số 16. Ngày 19/10/2019 Chủ tịch UBND TP P ban hành Quyết định số 25/QĐ-CCKPHQ về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng vi phạm của ông C. Không đồng ý với Quyết định số 16, Quyết điṇ h số 1186 và Quyết định số 25 của Chủ tịch UBND TP P nên ông C khởi kiện yêu cầu huỷ ba quyết định nêu trên với lý do các quyết định hành chính đó đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện cho rằng ông C vi phạm điểm b Khoản 5 Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP là không chính xác và căn cứ vào lời khai của ông C thì không có bất kỳ đoàn kiểm tra nào đến kiểm tra hiện trạng và lập biên bản vi phạm hành chính vào ngày 04/5/2019. Việc lập biên bản cũng không có chữ ký của người vi phạm, không cung cấp biên bản cho người vi phạm, không niêm yết công khai là vi phạm quy định tại Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Người bị kiện UBND TP P trình bày: Việc Chủ tịch UBND TP P ban hành các quyết định nói trên là đúng theo quy định pháp luật. Việc ông C yêu cầu hủy các quyết định là không có căn cứ. Bởi lẽ: vào năm 2017 ông C bị Đoàn kiểm tra liên ngành Sở xây dựng lập biên bản về việc xây dựng nhà ở không có GPXD. Đến năm 2019 Đội quản lý trật tự đô thị đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông C. Căn cứ theo các văn bản nói trên và theo quy định pháp luật Chủ tịch UBND TP P đã thực hiện đúng quy định pháp luật nên không đồng ý với các yêu cầu của ông C.

Tại biên bản lấy lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng gồm Công ty N, ông H1, ông Q- tổ trưởng tổ dân phố, UBND phường T đều xác định việc chuyển nhượng giữa ông H1 và ông C chưa được sự cho phép của công ty N và xác định việc chuyện nhượng và việc ông C xây dựng công trình trên đất là trái pháp luật. Tuy nhiên, theo lời khai của UBND phường T xác định biên bản vi phạm ngày 04/01/2017 và biên bản ngày 04/5/2019 ông C không ký và cũng không niêm yết tại hội trường khu phố nơi ông C đang sinh sống. Không giao biên bản trực tiếp cho ông C mà giao cho bà M (mẹ ông C) nhưng bà M từ chối ký vào biên bản giao nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

Ông H1 chuyển nhượng một phần đất nhận khoán trồng cà phê cho ông C nhưng không được sự cho phép của Giám đốc Công ty N và cũng chưa được cơ quan có thẩm quyền chứng thực nên Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa hai bên lập ngày 29/7/2013 không hợp pháp. Các công trình ông C xây dựng cũng không đúng với mục đích giao khoán. Do đó, UBND phường T lập biên bản vi phạm hành chính ngày 04/5/2019 căn cứ điểm b Khoản 5 Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP là có cơ sở, đúng đối tượng.

Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính: trình tự thủ tục lập Biên bản vi phạm hành chính số 03/BB-VPHC ngày 04/5/2019 và giao biên bản cho người vi phạm không đảm bảo theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính, ông C không biết việc vi phạm hành chính của mình bị lập biên bản để thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Do Biên bản 03 nói trên ban hành không đúng quy định nên việc Chủ tịch UBND TP P căn cứ vào biên bản này để ban hành Quyết định số 16 là không hợp pháp. Hơn nữa, sau khi ban hành quyết định số 16 không giao trực tiếp đươc̣ quyết định số 16 cho ông C nên ngày 02/8/2019 UBND phường T thưc̣ hiêṇ thủ tục niêm yết công khai Quyết định 16 tại trụ sở UBND phường nhưng không thực hiện việc niêm yết tại nơi cư trú của ông C là vi phạm về trình tự thủ tục theo quy định taị Điều 70 Luâṭ xử lý vi phaṃ hành chính, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự trong vụ án. Do đó, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của ông C về việc hủy các Quyết định hành chính nói trên.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông C, tuyên hủy các quyết định số: 16/QĐ-KPHQ ngày 31/7/2019, 1186/QĐ-UBND ngày 17/9/2019, 25/QĐ- CCKPHQ ngày 09/10/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P.

Bản án còn quy định về án phí và quyền kháng cáo.

1-15

Bản án số 11/2020/HC-ST ngày 24/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên

Về việc: Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý trật tự xây dựng

Tóm tắt nội dung vụ án

Người khởi kiện và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình trình bày: Căn  nhà cấp 4 trên diện tích đất 100m2 mà ông H đang sử dụng có nguồn gốc là thuộc diện tích đất 0,24ha mà ông H3 được Công ty N giao khoán để trồng cà phê. Sau đó ông H3 chuyển nhượng cho ông H2 100m2 nhưng chưa được sự cho phép của công ty N và hợp đồng không được công chứng, chứng thực theo quy định. Sau khi nhận chuyển nhượng ông H2 đã tự ý san lấp mặt bằng để xây dựng căn nhà cấp 4. Sau đó ông H2 chuyển nhượng nhà đất này cho ông H.  Đến năm 2019, UBND thành phố P, tỉnh Điện Biên lần lượt ban hành Thông báo số 105/TB-UBND ngày 24/01/2019; Thông báo số 188/TB-UBND ngày 19/2/2019 và Thông báo số 333/TB-UBND ngày 12/3/2019 về việc thực hiện tự tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng trên đất thuê của Nhà nước đối với ông Phạm H. Không đồng ý với việc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng trên đất thuê của Nhà nước nên ông H gửi đơn khiếu nại gửi UBND thành phố P khiếu nại Thông báo số 333/TB-UBND ngày 12/3/2019. Ngày 28/8/2019, Chủ tịch UBND thành phố P ban hành Quyết định số 1053/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm H. Viêc̣ ông Chủ tic̣ h UBND thành phố P ban hành Thông báo viêc̣ thưc̣ hiêṇ tháo dỡ công trình, phần công trình xây dưṇg trên đất thuê của Nhà nước đối với ̣hộ ông Phaṃ H là không đúng trình tự, thủ tục theo luật định.

Người bị kiện cho rằng việc ban hành Thông báo số 333/TB-UBND ngày 12/3/2019 dựa trên cơ sở Biên bản kiểm tra số 05/BBKT-ĐLN ngày 09/01/2017 của Đoàn kiểm tra liên ngành đối với hộ ông Phạm H, xác định: Hộ gia đình ông Phạm H xây dựng công trình nhà ở không có Giấy phép xây dựng. Do đó, các văn bản mà UBND TP P ban hành là đúng quy định.

Tại biên bản làm việc, UBND phường T xác định ngày 29/12/2016 Đoàn kiểm tra liên ngành đã lập biên bản số 06/BBKT-ĐLN đối với ông H2. Và ngày 09/01/2017 Đoàn tiếp tục lập biên bản số 05/BBKT-ĐLN đối với ông H.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

Biên bản số 06/BBKT-ĐLN lập ngày 29/12/2016 của Đoàn kiểm tra liên ngành lập đối với ông H2. Thông báo (lần 1) số 105/TB-UBND ngày 24/01/2019 đã căn cứ vào Biên bản kiểm tra số 06/BBKT-ĐLN có nội dung: Thông báo cho hộ gia đình ông H2: tự tháo dỡ công trình nhà ở, công trình phụ đã xây dựng. Thông báo này cũng chỉ được gửi cho ông H2 chứ không gửi cho ông H. Trên cơ sở Thông báo lần 1, do ông H không tự tháo dỡ nên UBND thành phố P ban hành thông báo (lần 2) số 188/TB-UBND yêu cầu hộ các ông H2, H phải thực hiện tự tháo dỡ công trình, phần công trình vi phạm; do ông H2, Phạm H không thực hiện nên UBND thành phố P ban hành thông báo (lần 3) số 333/TB-UBND ngày 12/3/2019. Như vậy: căn cứ để ban hành Thông báo số 333/TB-UBND ngày 12/3/2019 không đảm bảo (ông H không phải là chủ thể ký Biên bản Biên bản số 06/BBKT-ĐLN, không được nhận Thông báo (lần 1) số 105/TB-UBND ngày 24/01/2019 của UBND thành phố P). Bên cạnh đó, Thông báo số 333 không được soạn thảo theo biểu mẫu, quy định nào của pháp luật. Vì vậy, xét về hình thức của Thông báo số 333/TB-UBND là không có căn cứ pháp lý và không hợp pháp. Do Thông báo số 333/TB-UBND ngày 12/3/2019 của UBND thành phố P không hợp pháp về nội dung nên Quyết định số: 1053/QĐ-UBND ngày 24/9/2019 của Chủ tịch UBND thành phố P về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của ông Phạm H có nội dung giữ nguyên Thông báo số 333 cũng không hợp pháp về nội dung. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ chấp nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, Hủy một phần Thông báo số 333/TB-UBND ngày 12/3/2019, Hủy toàn bộ Quyết điṇ h số 1053/QĐ-UBND ngày 28/8/2019 của Chủ tịch UBND thành phố P.

Bản án còn quy định về án phí và quyền kháng cáo.

16-28

Bản án số 16/2021/HC-ST ngày 09/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên

Về việc: Khởi kiện hành vi hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại do cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trái phép

Tóm tắt nội dung vụ án

Người khởi kiện bà S trình bày: Nhà số 4a Lê Lợi tại thành phố T do bà xây dựng khi chưa được cấp phép. Quá trình xây dựng bị lập 06 biên bản kiểm tra hiện trạng nhưng không lập biên bản vi phạm hành chính. Ngày 15/5/2013 UBND TP T ban hành thông báo số 265 thông báo thời gian tổ chức cưỡng chế nhà. Việc bà S xây dựng nhà không phép nhưng chưa bị lập biên bản vi phạm, xử phạt nhưng UBND TP T tổ chức cưỡng chế ngôi nhà là xâm phạm đến tài sản của bà. Do đó bà yêu cầu UBND TP T bồi thường thiệt hại số tiền 1,2 tỷ đồng và tiền lãi, tiền mất thu nhập  do không kinh doanh được.

Người bị kiện UBND TP T  trình bày: Thửa đất tiếp giáp phía đông nhà 04 Lê Lợi là đất do Nhà nước quản lý, hành vi chiếm đất để xây dựng công trình của bà Hồ Thị Thanh S là trái pháp luật đã bị cưỡng chế vào ngày 20/3/2003. Nhưng sau cưỡng chế, bà S vẫn cố tình vi phạm, lén lút xây dựng bất chấp quy định pháp luật nên UBND thành phố T ra Quyết định số 2723/QĐ-KPHQ về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra, buộc bà Hồ Thị Thanh S tháo dỡ công trình vật kiến trúc vi phạm, trả lại mặt bằng cho Nhà nước là đúng quy định. Sau đó bà S khiếu nại quyết định số 2723 nói trên và đã được Chủ tịch UBND TP T giải quyết theo quy định.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

Qua xác minh nguồn gốc đất tọa lạc tại phía Đông nhà 04a Lê Lợi thì trong tổng diện tích đất 279,94m² chỉ có 66,14m² đất có nguồn gốc mua lại. Như vậy, diện tích bà S còn lại 66,14m². Theo giấy tờ mua bán thể hiện mốc thời gian bà S nhận chuyển nhượng đất từ năm 2001- 2005 thì thời điểm này Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên đã có Quyết định số:1101/QĐ- UB ngày 08.5.2000. Như vậy trong tổng diện tích đất theo hiện trạng 279,94m² thì đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 27,08m², không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 39,06m², bà S được tạm thời sử dụng theo hiện trạng đến khi có quyết định thu hồi của cơ quan có thẩm quyền. Phần diện tích còn lại 213,8m2 (279,94m2 – 66,14m2 = 213,8m2) bà S phải thực hiện theo Quyết định: 2723/QĐ-KPHQ ngày 11/5/2006 của UBND thành phố về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và quản lý sử dụng nhà. Ngày 18.5.2006 bà S khiếu nại quyết định số 2723/QĐ-KPHQ sau đó đã được giải quyết.

Việc Chủ tịch UBND thành Phố T ban hành Kế hoạch cưỡng chế và UBND thành phố T tổ chức thực hiện việc cưỡng chế tháo dỡ các công trình, vật kiến trúc xây dựng trái phép tại thửa đất phía đông nhà 04A lê Lợi, phường 1, thành phố T là đúng quy định tại điểm d khoản 2 Điều 86, điểm a khoản 1 Điều 87 của Luật xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 166/2013/NĐ-CP ngày 12.11.2013. Do đó, yêu cầu của bà S không có cơ sở chấp nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà S.

Bản án còn quy định về án phí và quyền kháng cáo.

29-37

Bản án số 1955/2020/HC-ST ngày 18/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực xây dựng về cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả

Tóm tắt nội dung vụ án

Người khởi kiện trình bày: Nhà – đất thuộc một phần thửa 31, 32 Tờ bản đồ số 22 có diện tích khuôn viên 157,5 m2, tọa lạc tại số 211/7 đường Phan Anh, Phường 20, quận TB (gọi Nhà 211/7), nay là phường Tân Thới Hòa, quận T. Ngày 27/12/2006, Ủy ban nhân dân quận T cấp Giấy phép xây dựng số 2713/UBND-GPXD, cho chủ đầu tư là bà C được phép xây dựng mới nhà ở tại Nhà 211/7. Ngày 06/6/2007, Tổ Quản lý trật tự đô thị phường Tân Thới Hòa quận T tiến hành lập Biên bản vi phạm hành chính số 0023/BB-VPHC đối với bà C vì đã có hành vi xây dựng nhà ở sai nội dung giấy phép xây dựng. Ngày 11/6/2007, Chủ tịch UBND quận T ban hành Quyết định số 464/QĐ-XPHC về xử phạt vi phạm hành chính đối với bà C. Ngày 12/9/2019, Chủ tịch UBND quận T ban hành Quyết định số 453/QĐ- CCXP. Trong quyết định Chủ tịch UBND quận T căn cứ Quyết định 464/QĐ-XPHC buộc cưỡng chế thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với bà C.

Bà C cho rằng căn nhà 211/7 thuộc diện tích đất 2.300m2 bà mua lại từ ông Bảy và đã được UBND quận TB cấp GCN. Tại thời điểm xây dựng, Chủ tịch UBND quận T ban hành Quyết định cưỡng chế 453/QĐ-CCXP buộc bà phải tháo dỡ phần diện tích trong Căn 211/7 theo Quyết định xử phạt 464/QĐ-XPVPHC. Quyết định xử phạt 464/QĐ-XPVPHC bà chưa nhận biết, theo bà Quyết định cưỡng chế 453/QĐ-CCXP là trái luật, đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà. Do đó, bà yêu cầu hủy toàn bộ nội dung quyết định.

Người bị kiện trình bày: Bà C không chấp hành tháo dỡ theo Quyết định xử phạt 464/QĐ-XPVPHC mà vẫn tiếp tục xây dựng tăng tầng. Ủy ban quận T vẫn tiếp tục xử lý hành vi vi phạm xây dựng tại các Biên bản vi phạm hành chính và các quyết định khác theo từng hành vi đối với bà C. Sau khi có buổi làm việc với bà C, UBND quận T đã có văn bản số 688/UBND-KNTC ngày 16/7/2007 trả lời cho bà C. Do đã hết thời gian kể từ ngày bà C nhận được Quyết định xử phạt 464/QĐ-XPVPHC mà bà C vẫn chưa chấp hành nên Chủ tịch UBND quận T ban hành Quyết định cưỡng chế 453/QĐ-CCXP và tiến hành lập kế hoạch tổ chức cưỡng chế theo quy định pháp luật. Đề nghị Tòa án xét xử theo quy định pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

Qua đo đạc, xác minh, thẩm định tại chỗ nhận thấy phần diện tích bà C xây dựng trên đất lấn chiếm được xác định là bên tay trái tính từ tim đường Phan Anh nhìn vào liền kề với phần đất được ký hiệu phần DT bà C lấn ranh 418,6m2.

Bà C thừa nhận có xây dựng sai phép và phần đất mà bà lấn chiếm là đất của Căn 211/9 cũng là đất của bà. Liền kề bên tay phải tính từ tim đường Phan Anh nhìn vào là Căn 194/64D rồi mới đến Căn 211/9, khoảng cách giữa căn 211/9 và Căn211/7 là Căn 194/64D. HĐXX không chấp nhận lời trình bày này của bà C.

Trong Biên bản vi phạm 0023/BB-VPHC không thể hiện phần diện tích (1,1m x 4m) nhưng có báo cáo với Ủy ban quận T theo Văn bản số 75/BC-UBND ngày 07/6/2007. Như vậy, Quyết định xử phạt số 464/QĐ-XPHC có một phần liên quan đến phần diện tích(1,1m x 4m) không phù hợp với quy định pháp luật nên việc ban hành Quyết định cưỡng chế 453/QĐ-CCXP liên quan đến bộ phận công trình xây dựng trên đất lấn chiếm diện tích (1,1m x 4m) là trái pháp luật. Văn bản 75/BC-UBND chỉ là văn bản báo cáo nội bộ không phải là biên bản xử phạt hành chính. Như vậy, Quyết định xử phạt số 464/QĐ-XPHC có một phần liên quan đến phần diện tích (1,1m x 4m) không phù hợp với quy định pháp luật nên việc ban hành Quyết định cưỡng chế 453/QĐ-CCXP liên quan đến bộ phận công trình xây dựng trên đất lấn chiếm diện tích (1,1m x 4m) là trái pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà C: Hủy một phần Quyết định số 453/QĐ-CCXP và một phần Quyết định số 464/QĐ-XPHC của Chủ tịch UBND  dân T đối với bà C, liên quan đến bộ phận công trình xây dựng trên đất lấn chiếm, diện tích (1,1m x 4m) tại địa chỉ 211/7 đường Phan Anh, phường Tân Thới Hòa, quận T.

Bản án còn quy định về án phí và quyền kháng cáo.

38-47

Bản án số 1086/2020/HC-ST ngày 28/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng

Tóm tắt nội dung vụ án

Người khởi kiện trình bày: Ông Đ thuê quyền sử đất tại Tổ 4, Khu phố 11, phường Y,
Quận Z của ông Sơn và bà Minh để kinh doanh quán ăn. Ngày 12/12/2018, UBND phường Y, Quận Z tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Đ đã có hành vi tổ chức thi công xây dựng công trình không có GPXD mà theo quy định phải có GPXD. Ngày 19/12/2018, Chủ tịch UBND Quận Z ban hành Quyết định số 675/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Đ với hình thức xử phạt hành chính: Áp dụng Điểm b, Khoản 5, Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính Phủ, phạt tiền với mức phạt là: 25.000.000 đồng. Ông Đ yêu cầu hủy Quyết định số 675/QĐ-XPVPHC ngày 19 tháng 12 năm 2018 của Chủ tịch UBND Quận Z, với lý do: Ông Đ không sử dụng công trình
này để làm nhà ở mà sử dụng để kinh doanh. Như vậy, hành vi của ông Đ là hành vi vi phạm theo quy định tại Điểm a, Khoản 5, Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính Phủ.

Người bị kiện trình bày: Ông Sơn, bà Minh được UBND quận Z cấp 03 GCN cho 03 thửa đất liền kề (trong đó có thửa đất mà ông Đ thuê). Theo Quyết định số 121/QĐ-UB ngày 31/5/2004 của UBND Quận Z về việc phê duyệt qui hoạch chi tiết sử dụng đất khu dân cư phường Y Quận Z thì vị trí khu đất này thuộc đất khu dân cư. Vào các ngày 02/10/2018 và ngày 01/11/2019 UBND quận Z cấp cho ông Sơn bà Minh 02 GPXD để xây dựng nhà ở riêng lẻ trên 02 thửa đất, thửa đất cho ông Đ thuê chưa được cấp GPXD. Quá trình thanh tra địa bàn quận Z phát hiện ông Đ có hành vi xây dựng công trình trái phép chưa được cấp GPXD trên phần đất thuê và đã đưa vào sử dụng từ tháng 11/2018. Do đó, việc UBND quận Z ban hành quyết định xử phạt số 675/QĐ-XPVPHC ngày 19/12/2018 về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Đ là đúng quy định.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

Quá trình giải quyết vụ án ông Đ đã thừa nhận hành vi vi phạm của mình khi tổ chức thi công xây dựng công trình không có GPXD mà theo quy định phải có GPXD. Xét công trình vi phạm được xây dựng liền kề với hai công trình xây dựng được cấp phép nhà ở. Vị trí vi phạm thuộc khu dân cư theo Quyết định số 121/QĐ-UB ngày 31/5/2004 của UBND Quận Z về việc phê duyệt qui hoạch chi tiết sử dụng đất khu dân cư phường Y Quận Z. Do đó, Chủ tịch UBND Quận Z áp dụng Điểm b, Khoản 5, Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP ngày 27/11/2017 của Chính Phủ để ban hành Quyết định số 675/QĐ-XPVPHC ngày 19 tháng 12 năm 2018 là đúng quy định pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ.

Bản án còn quy định về án phí và quyền kháng cáo.

[XEM THÊM TẠI FILE PDF]

48-54

LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN KHIẾU KIỆN VỀ QUYẾT ĐỊNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan