FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH VỀ THUẾ (ÁP DỤNG THUẾ, THU THUẾ, TRUY THU THUẾ)” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT |
BẢN ÁN |
SÔ TRANG |
1 |
Bản án số: 131/2021/DS-PT ngày 01 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế. Nội dung: Công ty A nhận chuyển nhượng khu đất có diện tích 2.537m2, phường Thạnh Xuân, B. Ngày 02/8/2012, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 3943/QĐ-UBND về việc chấp thuận cho Công ty A chuyển mục đích sử dụng 1.099,6 m2 đất nông nghiệp trong tổng diện tích khu đất để xây dựng nhà hàng tiệc cưới. Công ty A vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền tổ chức cắm mốc bàn giao ranh đất ngoài thực địa cho để xác định rõ vị trí phần đất được chuyển mục đích trên tổng diện tích 2854 m2 đất nông nghiệp. Chi cục Thuế Khu vực B – Huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ theo Quyết định số 3943/QĐ-UBND ngày 02/8/2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp thuận cho Công ty A chuyển mục đích sử dụng đất để đầu tư xây dựng nhà hàng tiệc cưới tại phường Thạnh Xuân, B, Thành phố Hồ Chí Minh; Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh và Chi Cục thuế B có ban hành các Thông báo nộp thuế đối với công ty A như sau: Ngày 10/11/2012, Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Thông báo số 1400/TB-CT-QLĐ tính tiền thuê đất 05 tháng, từ ngày 02/8/2012 đến ngày 31/02/2012, số tiền 22.761.720 đồng. Ngày 06/8/2019, Chi Cục thuế B ban hành Thông báo số 5066/TB-CCT tính tiền thuê đất từ ngày 01/01/2013 đến ngày 01/8/2017, số tiền 250.391.392 đồng. Ngày 29/10/2019, Chi Cục thuế B ban hành Thông báo số 7124/TB-CCT tính tiền thuê đất từ ngày 02/8/2017 đến ngày 31/12/2019, số tiền 203.861.882 đồng. Ngày 16/12/2019, Chi Cục thuế B ban hành Thông báo tiền thuế nợ, tiền chậm nộp số 434489/TB-07-CCT số tiền chưa nộp ngân sách nhà nước tính đến ngày 30/11/2019 là 402.244.582 đồng (bao gồm tiền thuê đất 375.084.053 đồng và tiền chậm nộp 27.761.720 đồng), trong đó số tiền quá hạn nộp phải thực hiện cưỡng chế nợ thuế là 22.761.720 đồng). Ngày 17/02/2020, Chi Cục thuế B ban hành Thông báo tiền thuế nợ tiền chậm nộp số 82097/TB-07-CCT số tiền chưa nộp ngân sách nhà nước tính đến ngày 30/01/2020 là 510.101.244 đồng (bao gồm tiền thuê đất 477.014.994 đồng và tiền chậm nộp 33.086.250 đồng), trong đó số tiền quá hạn nộp phải thực hiện cưỡng chế nợ thuế là 175.117.945 đồng). Ngày 14/02/2020, Chi cục Thuế B ban hành Văn bản số 335/CCTQLN gửi Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị tiến hành biện pháp cưỡng chế nợ thuế đối với Công ty A. Công ty A khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy các thông báo tiền nợ thuế, tiền phạt và tiền chậm nộp nêu trên. Tòa cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty A về việc yêu cầu hủy Thông báo tiền thuế nợ, tiền phạt và tiền chậm nộp số 434489/TB-07-CCT ngày 16/12/2019 và Thông báo tiền thuế nợ, tiền phạt và tiền chậm nộp số 82097/TB-07-CCT ngày 17/02/2020 của Chi cục Thuế khu vực B – huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Căn cứ Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về tiền thuê đất, thuê mặt nước thì người khởi kiện chưa được ký hợp đồng thuê đất với Nhà nước; chưa được nhận bàn giao đất trên thực tế, hiện đất vẫn là đất nông nghiệp nên không phải nộp tiền thuê đất. Quyết định 3943/QĐ-UBND về việc chấp thuận cho công ty A chuyển mục đích sử dụng đất không phải là “Quyết định cho thuê đất” nên Cục thuế Thành phố căn cứ vào Quyết định 3943/ QĐ-UBND để tính tiền thuê đất từ thời điểm ban hành Quyết định này là không có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Sản xuất nước uống tinh khiết A và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân B; sửa một phần bản án sơ thẩm: Chấp nhận toàn bô yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Sản xuất nước uống tinh khiết A về việc yêu cầu hủy Thông báo tiền thuế nợ, tiền phạt và tiền chậm nộp số 434489/TB-07-CCT ngày 16/12/2019 và Thông báo tiền thuế nợ, tiền phạt và tiền chậm nộp số 82097/TB-07-CCT ngày 17/02/2020 của Chi cục Thuế khu vực B – huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của công ty TNHH Thương mại và sản xuất nước uống tinh khiết A yêu cầu hủy Văn bản đề nghị phối hợp cưỡng chế nợ thuế số 335/CCT-QLN ngày 14/02/2020 của Chi cục Thuế khu vực B – huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. |
01 – 10 |
2 |
Bản án số: 779/2020/HC-PT ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính về lĩnh vực thuế Nội dung: Hội đồng X (Được thành lập để xử lý nợ và phát mại tài sản trong vụ án Hình sự phúc thẩm số 1366/PTHS ngày 05 và 06/08/2003 của Toà phúc thẩm-Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử nhiều bị cáo về tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” gây thiệt hại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Vũng Tàu (gọi tắt là VCSB) số tiền 21.360.800.000 đồng) đã thông qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (BR VT) để bán đấu giá 4.428,4 m2 đất tại số 141 Bình Giã (nay là số 198 Bình Giã, phường 8, thành phố VT), người trúng đấu giá là công ty TNHH Lê Hoàng, giá bán là 42.670.000.000 đồng. Sau khi trúng đấu giá, Hội đồng X và công ty TNHH Lê Hoàng ký hợp đồng mua bán tài sản ngày 04/08/2017. Đến ngày 24/08/2017, hai bên tiến hành lập biên bản bàn giao tài sản. Sau đó Hội đồng X làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho công ty TNHH Lê Hoàng; công ty TNHH Lê Hoàng đã thực hiện nghĩa vụ nộp tiền vào ngân sách nhà nước về lệ phí trước bạ vào ngày 26/10/2017, số tiền là 213.350.000 đồng. Sau hơn một năm, Hội đồng X nhận được thông báo thuế số 8921/TB-CCT ngày 26/09/2018 của Chi cục Thuế thành phố VT (gọi là thông báo thuế số 8921) về việc thu thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng 4.428,4 m2 đất, số tiền phải nộp là 11.468.041.662 đồng (bao gồm: thuế GTGT là 3.828.768.182 đồng; thuế TNDN là 7.639.273.480 đồng). Vì không đồng ý, Hội đồng X đã khiếu nại thông báo thu thuế nói trên. Vào ngày 09/11/2018, Chi cục trưởng-Chi cục Thuế thành phố VT ra quyết định số 10500/QĐCCT về việc giải quyết đơn khiếu nại của Hội đồng X lần đầu (quyết định số 10500) có nội dung như sau: “Giữ nguyên nội dung tại Thông báo số 8921/TB-CCT ngày 26/9/2018 của Chi cục Thuế thành phố VT”. Hội đồng X tiếp tục khiếu nại lần 2 đến Cục trưởng – Cục thuế tỉnh BR – VT. Vào ngày 20/05/2019, Cục trưởng – Cục thuế tỉnh BR-VT ra quyết định số 4041/QĐ-CT về việc giải quyết đơn khiếu nại của Hội đồng X (lần thứ hai) (quyết định số 4041) có nội dung như sau: “Giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 10500/QĐ-CCT ngày 09/11/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế thành phố VT”. Vì vậy, Hội đồng X khởi kiện, yêu cầu Tòa án hủy thông báo nộp thuế số 8921; hủy quyết định số 10500 và hủy quyết định số 4041. Tòa cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hội đồng X; – Hủy thông báo nộp thuế số 8921/TB-CCT ngày 26/09/2018 của Chi cục Thuế thành phố VT; hủy quyết định số 10500/QĐ-CCT ngày 09/11/2018 của Chi cục trưởng-Chi cục Thuế thành phố VT về việc giải quyết khiếu nại của Hội đồng X (lần đầu); hủy quyết định số 4041/QĐ-CT ngày 20/05/2019 của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về việc giải quyết đơn khiếu nại của Hội đồng X (lần thứ hai). Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Tại văn bản số 1467/VPĐK-ĐKCG ngày 13/10/2020, Văn phòng Đăng ký Đất đai-Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng xác nhận sự việc hủy bỏ việc mua-bán bất động sản 141 Bình Giã, phường 8, thành phố VT giữa Hội đồng X và công ty TNHH Lê Hoàng nói trên, đồng thời cơ quan này cũng đề nghị được thu hồi, hủy bỏ phiếu chuyển thông tin địa chính số 343/PCTTĐC-VPĐK ngày 06/09/2017 (phiếu chuyển này là căn cứ để Chi cục Thuế thành phố VT ra quyết định thu thuế do sự chuyển nhượng bất động sản 141 Bình Giã, phường 8, thành phố VT). Như vậy, căn cứ các tài liệu, chứng cứ nói trên, đủ căn cứ kết luận rằng giao dịch chuyển nhượng bất động sản 141 Bình Giã, phường 8, thành phố VT giữa Hội đồng X và công ty Lê Hoàng, đã được hủy bỏ. Vì vậy, căn cứ để Chi cục Thuế thành phố VT (nay là Chi cục thuế khu vực Vũng Tàu-Côn Đảo) thu thuế của Hội đồng X từ việc chuyển nhượng bất động sản số 141 Bình Giã, phường 8, thành phố VT cho công ty TNHH Lê Hoàng, đã không còn. Trong trường hợp đó, thông báo nộp thuế số 8921/TB-CCT ngày 26/09/2018 của Chi cục Thuế thành phố VT và các quyết định hành chính liên quan là quyết định số 10500/QĐ-CCT ngày 09/11/2018 của Chi cục trưởng-Chi cục Thuế thành phố VT về việc giải quyết khiếu nại của Hội đồng X (lần đầu); quyết định số 4041/QĐ-CT ngày 20/05/2019 của Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về việc giải quyết đơn khiếu nại của Hội đồng X (lần thứ hai), phải được hủy bỏ, như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của Cục Thuế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Chi cục Thuế thành phố Vũng Tàu. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 105/2019/HC-ST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. |
11 – 22 |
3 |
Bản án số: 461/2021/HC-PT ngày 13 tháng 5 năm 2021 của Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
V/v khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý thuế Nội dung: Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu nhiên liệu A và Công ty Cổ phần Logistic Xăng dầu B (viết tắt Công ty B), hai doanh nghiệp đều kinh doanh xăng dầu nên ký kết hợp đồng ngày 01/4/2015 và giao dịch qua điện thoại, Fax, Biên bản đối chiếu giao nhận hàng hóa, Hóa đơn giá trị gia tăng (viết tắt Hóa đơn GTGT) và Lệnh chi hay ủy nhiệm chi. Chi cục Trưởng Chi cục thuế (viết tắt Chi cục Trưởng CCT) quận X ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế số 490/QĐ-CCT (BL342) ngày 21/01/2020 (viết tắt Quyết định số 490/QĐ-CCT) đối với Công ty A do kê khai không đúng về thuế giá trị gia tăng (viết tắt thuế GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (viết tắt thuế TNDN), bởi lẽ: Công ty A cho rằng mình không có liên quan đến việc mua bán hóa đơn trái phép của Công ty B nêu tại Bản án số 263/2018/HS-ST (BL414) ngày 30/7/2018 (viết tắt Bản án số 263/2018/HS-ST) của Tòa án nhân dân (viết tắt Tòa án ND) Thành phố H và Bản án số 85/2019/HS-PT ngày 07/3/2019 (BL393) của Tòa án ND cấp cao tại Thành phố H. Do đó, Công ty A yêu cầu Tòa án nhân dân quận X tuyên hủy Quyết định số 490/QĐ-CCT. Tòa cấp sơ thẩm tuyên: Tòa án nhân dân quận X tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A về hủy Quyết định số 490/QĐ-CCT. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Việc thu thập chứng cứ về các hợp đồng ký kết ngày 16/4/2015 và 18/7/2015 của Công ty B đặt in các Hóa đơn GTGT nêu trên không thực hiện được do Công ty In C đã tạm ngừng hoạt động ngày 01/4/2021, chưa đăng ký giải thể theo Phiếu cung cấp thông tin ngày 15/4/2021 của Sở KH&ĐT Thành phố. Như vậy, Công ty B vẫn đang hoạt động kinh doanh theo Giấy CNĐKDN số 0312407295 thay đổi lần thứ 2, ngày 20/3/2015 đến thay đổi lần thứ 5, ngày 04/11/2015 của Sở KH&ĐT Thành phố cấp và đã thực hiện việc thông báo phát hành các Hóa đơn GTGT vừa nêu trên tại trang thông tin điện tử người nộp thuế của Tổng Cục thuế theo Điều 9 Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ. Do đó, trong Quyết định số 490/QĐ-CC ghi nhận Công ty B không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký với cơ quan thuế như ông Đào Mộng L trình bày là theo nội dung phúc đáp của Thông báo số 1499/2016/TB-BKD của CCT quận Y và Công văn số 11797/BTC-TCT ngày 22/8/2014 của Bộ Tài chính là không có cơ sở, bởi trong thông báo này không ghi nhận cũng như không xác minh rõ thời điểm không còn hoạt động kinh doanh của Công ty B từ thời gian nào và tại phiên tòa khẳng định thời điểm không còn hoạt động kinh doanh là kể từ ngày ban hành thông báo trên vào ngày 08/4/2016. Mặt khác, hiện nay Công ty B cũng chưa giải thể theo Phiếu cung cấp thông tin số 2287/ĐKKD-T6 ngày 15/4/2021 của Sở KH&ĐT Thành phố. Từ sự phân tích trên, xác định việc giao dịch thanh toán mua bán dầu DO 0.05%S theo Hợp đồng nguyên tắc hợp tác kinh doanh dầu (BL135) ký ngày 01/4/2015 của Công ty B đã xuất 55 Hóa đơn GTGT cho Công ty A là hợp pháp. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nêu tại Đơn xác định lại yêu cầu khởi kiện ngày 02/4/2021 của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu nhiên liệu A đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế số 490/QĐ-CCT ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Trưởng Chi cục thuế quận X, Thành phố H: 1.1 Hủy hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả về 03 (ba) khoản tiền như sau: – Xử phạt 20% thuế giá trị gia tăng (4254) năm 2015 – 2016 là 3.375.175.951 đồng; – Truy thu thuế giá trị gia tăng (1701) năm 2015 – 2016 là 16.875.879.757 đồng; – Chậm nộp thuế giá trị gia tăng (4931) năm 2015 – 2016 là 8.464.543.511 đồng. 1.2 Đình chỉ xét xử hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả về 03 (ba) khoản tiền như sau: – Xử phạt 20% thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2015 – 2016 là 26.209.653 đồng; – Truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp (1052) năm 2015 – 2016 là 131.048.264 đồng; – Chậm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (4918) năm 2015 – 2016 là 13.270.965 đồng. |
23 – 30 |
4 |
Bản án số: 439/2021/HC-PT ngày 06 tháng 5 năm 2021 của Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung: Ngày 27/9/2018, Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 3094/QĐ-CCT ngày 27/9/2018 (gọi tắt là QĐ số 3094) về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với Công ty TNHH Thương mại Sản xuất Xây dựng H (gọi tắt là Công ty H). Nhận thấy, Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành QĐ số 3094/QĐ-CCT ngày 27/9/2018 là không có căn cứ, không đúng trình tự quy định nên Công ty H khiếu nại đến Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết khiếu nại theo thẩm quyền. Ngày 02/11/2018, Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 421/QĐ-CCT ngày 02/11/2018 về việc giải quyết khiếu nại (gọi tắt là QĐ số 421 ngày 02/11/2018), theo đó chỉ chấp nhận một phần khiếu nại của Công ty H và bổ sung thêm đối với QĐ số 3094/QĐ-CCT ngày 27/9/2018 về việc số tiền chậm nộp thuế là không đúng, không có cơ sở. Nay Công ty TNHH Thương mại Sản xuất Xây dựng H yêu cầu Tòa án giải quyết hủy QĐ số 3094/QĐ-CCT ngày 27/9/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả và QĐ số 421/QĐ-CCT ngày 02/11/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh về giải quyết khiếu nại. Tòa cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện Công ty H. – Hủy QĐ số 3094/QĐ-CCT ngày 27/9/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. – Hủy QĐ số 421/QĐ-CCT ngày 02/11/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Căn cứ quy định tại điểm i khoản 1, Điều 14, Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính phủ, quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế thì Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện C đã ban hành Quyết định số 3094/QĐ-CCT ngày 27/9/2018 về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đối với Công ty H về truy thu thuế GTGT số tiền là 628.218.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật; Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của người bị kiện Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Sửa một phần bản án sơ thẩm: – Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại Sản xuất Xây dựng H về việc hủy QĐ số 3094/QĐ-CCT ngày 27/9/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại Sản xuất Xây dựng H về việc hủy 01 phần QĐ số 421/QĐ-CCT ngày 02/11/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại – về truy thu thuế GTGT số tiền là 628.218.000 đồng. Chấp nhận 01 phần yêu cầu của người khởi kiện Công ty TNHH Thương mại Sản xuất Xây dựng H: Hủy 01 phần QĐ số 421/QĐ-CCT ngày 02/11/2018 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại- đối với phần số tiền chậm nộp thuế theo công văn số 3277/TCT-PC ngày 21/8/2018 là 504.898.807 đồng. |
31 – 39 |
… |
… |
XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH VỀ THUẾ (ÁP DỤNG THUẾ, THU THUẾ, TRUY THU THUẾ)
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn