Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

STT

TÊN VĂN BẢN

TRANG

1.

Bản án số 04/2020/DS-ST ngày 28/5/2021 của Toà án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ

Về việc “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn – anh Đinh Hồng V và chị Nguyễn Thị Thanh H kết hôn với nhau năm 2009. Quá trình kết hôn, vợ chồng có 02 con chung là Đinh Thị Hồng G, sinh 01/3/2010 và Đinh Tùng L, sinh ngày 15/12/2015. Sau khi kết hôn, anh V làm nghề buôn bán lâm sản và lái xe. Chị H ở nhà nuôi con. Chị H không nghề nghiệp cho đến khi hai người ly hôn. Do chị H không chung thuỷ nên cháu L không phải là con anh V.

Do không biết Cháu L không cùng huyết thống với anh V nên anh V đã phải nuôi cháu L từ khi sinh ra tháng 12/2015 đến tháng 3/2020 là 4 năm 3 tháng (51 tháng). Vì vậy, anh V khởi kiện đề nghị bồi thường tiền công chăm sóc 2.000.000 đồng/tháng.

Nhận định của Toà án cấp sơ thẩm:

Chị H cho rằng khi chị mang thai anh Đinh Hồng V biết cháu L không phải là con của anh nhưng anh vẫn chấp nhận để nuôi làm phúc. Nhưng chị không đưa ra được chứng cứ nào. Do vậy, việc anh Đinh Hồng V yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần vì anh bị tổn thương về danh dự, nhân phẩm, uy tín do hành vi của chị Nguyễn Thị Thanh H gây ra là có căn cứ. Thiệt hại về vật chất và tinh thần của anh Đinh Hồng V đương nhiên được mọi người trong xã hội thừa nhận, do vậy cần buộc chị Nguyễn Thị Thanh H phải có trách nhiệm bồi thường.

Về căn cứ bồi thường: Ngoài căn cứ theo Khoản 1 Điều 584 BLDS Toà án còn áp dụng quy định chung theo Điều 3 BLDS và lẽ công bằng theo quy định tại Điều 6 của BLDS để buộc bồi thường.

Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, mọi việc làm đều có mục đích. Anh Đinh Hồng V nuôi dưỡng chăm sóc cháu Đinh Tùng L là được hưởng lợi về mặt tình cảm và trông cậy lúc tuổi già. Nhưng mục đích ấy đã không đạt được. Vì vậy, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định chung của pháp luật và vì lẽ công bằng.

Về mức bồi thường: Các bên có lời khai khác nhau, tuy nhiên theo Luật Hôn nhân và gia đình việc nội trợ gia đình được coi là lao động có thu nhập do đó thu nhập của anh Đinh Hồng V và trách nhiệm nuôi dưỡng cháu L được tính cho cả chị Nguyễn Thị Thanh H. Do vậy mức chi phí nuôi dưỡng được tính bằng ½ tổng chi phí.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đinh Hồng V.

Buộc chị Nguyễn Thị Thanh H phải thanh toán (bồi thường) tiền cho anh Đinh Hồng V các khoản tiền sau:

1/ Tiền chi phí nuôi dưỡng cháu Đinh Tùng L với thời gian 51 tháng x 1.050.000 đồng/tháng = 53.550.000 đồng (không bao gồm tiền công chăm sóc).

2/ Tiền tổn thất tinh thần cho anh Đinh Hồng V bằng 08 tháng lương cơ bản x 1.490.000 đồng = 11.920.000 đồng.

3/ Tiền chi phí khi sinh là 6.000.000 đồng.

4/ Tiền công chăm sóc 500.000đ/tháng x với thời gian 51 tháng =25.500.000 đồng.

Tổng cộng mục 1+2+3+4 = 96.970.000 đồng (chín mươi sáu triệu, chín trăm bảy mươi ngàn đồng).

01 – 05

2.

Bản án số 02/2021/DS-ST ngày 14/4/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai

Về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản là nhà, đất và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Năm 1976, bà H nhận chuyển nhượng của ông Trần Đình Đ và ông Trần Thế Th quyền sử dụng đất và căn nhà trên đất nay là số 27 đường N, tổ 1, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Sau khi nhận chuyển nhượng, thì bà cùng với cha, mẹ và em trai là Lê Tấn H chuyển về sinh sống tại đây.

Đến năm 1980, cha bà qua đời, do điều kiện kinh tế khó khăn, nên bà vào sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh và để lại nhà và đất nêu trên cho mẹ bà và ông H ở. Sau đó, ông H lập gia đình nhưng chưa có chỗ ở nên bà đồng ý cho ông H tiếp tục ở tạm đó để lo cho mẹ bà. Sau này mẹ bà qua đời, vì hoàn cảnh khó khăn nên bà đồng ý để vợ chồng ông H tiếp tục ở tại căn nhà trên để lo thờ cúng cho cha mẹ.

Năm 2008, bà về thành phố P thì phát hiện được rằng vợ chồng em trai bà đang tiến hành các thủ tục nhằm xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đối với nhà và đất của bà nêu trên nhưng cố tình giấu, không cho bà biết. Sau khi bà phát hiện ra sự việc, bà đã mang giấy tờ, hồ sơ của căn nhà và đất nêu trên đến liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để tiến hành ngăn chặn, không cho tiến hành các thủ tục xin cấp giấy chứng nhận. Sau đó, ông Lê Tấn H gặp bà và giải thích rằng vì bà đang ở thành phố Hồ Chí Minh nên việc đi lại làm thủ tục không thuận tiện, do đó xin phép bà được đứng tên hộ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, sau này sẽ sang tên lại cho bà đồng thời cam kết chỉ được sử dụng căn nhà để ở và thờ phụng cha mẹ chứ không được chuyển nhượng cho bất kỳ ai. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận thì vợ chồng ông H sang Mỹ định cư, để nhà và đất lại cho con là Lê Thị Ngọc Hà và Lê Tấn Th.

Một thời gian sau, biết được vợ chồng ông H tiến hành bán nhà, bà Lê Thị Phúc H khởi kiện yêu cầu bị đơn là ông Lê Tấn H, bà Nguyễn Thị T phải trả lại toàn bộ nhà và đất nêu trên đồng thời yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 989552 do Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai cấp ngày 6 tháng 9 năm 2007 cho ông Lê Tấn H, bà Nguyễn Thị T.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Những tình tiết và sự kiện trong vụ án cho thấy nhà, đất tại 27 đường N là tài sản của nguyên đơn, nên việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lại nhà, đất đã nêu là có cơ sở, nên được chấp nhận.

Xét bị đơn đã sử dụng nhà, đất tại 27 đường N ổn định trong một thời gian dài, có công sức giữ gìn, tu bổ, tôn tạo, làm tăng giá trị của tài sản, nên để đảm bảo lẽ công bằng, Hội đồng xét xử buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ tài sản cho nguyên đơn, nhưng có xem xét công sức giữ gìn, tu bổ, tôn tạo, làm tăng giá trị của đất của bị đơn, phần công sức này được xác định là 30 % giá trị của tài sản.

Việc Ủy ban nhân dân thành phố P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 989552 đối với phần đất đang tranh chấp nêu trên cho bị đơn là không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng nguồn gốc đất. Vì vậy, việc nguyên đơn yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 989552 do Ủy ban nhân dân thành phố P cấp ngày 6 tháng 9 năm 2007 cho ông Lê Tấn H, bà Nguyễn Thị T là có cơ sở để chấp nhận.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Phúc H:

– Buộc ông Lê Tấn H, bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà Lê Thị Phúc H 129.9 m2 nhà, đất tại số nhà 27 đường N, tổ 8 (nay là tổ 1), phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai(sau đây gọi tắt là nhà, đất tại 27 đường N) và toàn bộ tài sản gắn liền với đất.

– Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 989552 do Ủy ban nhân dân thành phố P cấp ngày 6 tháng 9 năm 2007 cho người sử dụng đất là ông Lê Tấn H, bà Nguyễn Thị T

– Buộc bà Lê Thị Phúc H phải thanh toán cho ông Lê Tấn H, bà Nguyễn Thị T 1.396.970.398 đồng công sức giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị của tài sản.

06-14

3.

Bản án số 189/2020/DS-PT ngày 03/8/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương

Về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh giới)”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông Nguyễn Văn N là chủ sử dụng hợp pháp phần đất có diện tích 387,4m2 tại khu phố 4, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L 466900 (vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00475 QSDĐ) do Ủy ban nhân dân thị xã Thủ Dầu Một cấp ngày 19/5/1998 cho ông Nguyễn Văn N. Nguồn gốc là do ông, bà để lại và ông N sử dụng ổn định từ năm 1976 cho đến nay.

Ông Nguyễn Văn N1 là em ruột của ông N, ông N1 ở nhà gốc của ông bà có diện tích 975m2 (trong đó hành lang mương là 71m2). Năm 2008, ông N1 cất nhà giáp ranh với đất của ông N và đã lấn chiếm sang phần đất của ông N có diện tích đo đạc thực tế là 75,2m2. Diện tích đất bị lấn chiếm này, trước đây là lối thoát nước của ông N, ngoài ông N làm lối thoát nước thì ông N còn cho nhà bà Nguyễn Thị N3 và bà Dương Thị G cùng thoát nước trên phần đất này. Ông N phải làm đường thoát nước khác giáp với móng nhà của ông N.

Ông N khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn N1 tháo dỡ toàn bộ phần nhà, hành lang để trả lại cho ông Nguyễn Văn N quyền sử dụng đất có diện tích 75,2m2 tại khu phố 4, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất)” đối với bị đơn là ông Nguyễn Văn N1.

Buộc ông Nguyễn Văn N1 và bà Lê Thị T phải đập bỏ nền bê tông gắn liền với diện tích đất 51m2 tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương để trả cho ông Nguyễn Văn N quyền sử dụng đất có diện tích là 51m2, ông N có trách nhiệm tự liên hệ cơ quan nhà có thẩm quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với thực tế sử dụng.

Ngày 3/12/2019, ông N1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Phía nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất xác định trên phần đất tranh chấp có một phần nhà, nền bê tông, rãnh thoát nước do vợ chồng ông N1 xây dựng năm 2008 và sử dụng ổn định; cùng thời điểm năm 2008, nguyên đơn đã xây dựng nhà tạm sát với phần rãnh thoát nước do bị đơn xây dựng và làm hai hố ga ở cạnh giáp mương nước (cạnh hướng Bắc) từ năm 1995 và 2015 và sử dụng ổn định. Nguyên đơn và bị đơn là anh em ruột, sống liền kề nhau và biết rõ việc xây dựng, sử dụng đất của các bên nhưng không ai tranh chấp. Đây được xem là căn cứ xác lập ranh đất thực tế của nguyên đơn và bị đơn. tại phiên tòa phía bị đơn và bà Lê Thị T đồng ý chia đôi một phần đất tranh chấp đối với nền đổ bê tông và rãnh mương thoát nước, còn phần đất ông N đã xây dựng hố ga thì ông N tiếp tục quản lý, sử dụng để làm căn cứ xác định ranh giữa các bên.

Xét thấy, ý kiến của người đại diện hợp pháp của bị đơn và bà T tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp. Do đó, để đảm cân bằng lợi ích của các bên, đảm bảo lẽ công bằng, trên cơ sở ghi nhận ý chí của bị đơn về việc phân chia ranh giới bằng cách chia ½ nền bê tông.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông N1 và bà T. Sửa bản án sơ thẩm:

– Ông Nguyễn Văn N1 và bà Lê Thị T phải đập bỏ, tháo dỡ một phần nền bê tông và rãnh mương thoát nước để trả lại cho ông Nguyễn Văn N diện tích đất 38,2m2 tọa lạc tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương, phần diện tích này ông N được quyền quản lý, sủ dụng.

– Ông N1 và bà T được quản lý, sử dụng diện tích 37m2 tọa lạc tại phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Các đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà có thẩm quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với thực tế sử dụng.

15 – 23

4.

Bản án số 104/2020/DS-PT ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

Về việc “Yêu cầu chấm dứt hành vi neo đậu, thả chà, khai thác hải sản và tranh chấp quyền sở hữu chà”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông Nguyễn Thanh H là chủ tàu cá TC số TG-91918-TS và là chủ sở hữu 02 cây chà (cột chà): Cây chà thứ nhất có tọa độ 080032 780 (vĩ độ) – 1080 30 910 (kinh độ) (gọi tắt là cây chà 32, 30) và cây chà thứ hai có tọa độ 08051 263 (vĩ độ) – 1080 48 039 (kinh độ) (gọi tắt là cây chà 51, 48) thuộc vùng biển tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Ngày 12-7-2018, ông Nguyễn Thanh H viết “Giấy cho mượn chà lá trên biển”, cho ông Nguyễn Minh H mượn 02 cây chà trên trong một năm (từ 12-7-2018 đến 12-7-2019). Trong thời gian này, ông Minh H được quyền quản lý, sử dụng và tu bổ định kỳ đối với hai cây chà này.

Nguồn gốc 02 cây chà trên do ông Nguyễn Minh H và ông Nguyễn Minh L làm biển chung và cùng tạo lập từ năm 1999. Sau đó, do không còn làm ăn chung với nhau nên ông Minh H đã chuyển giao quyền sở hữu 02 cây chà này cho ông L. Đến năm 2012, ông L không làm nghề đánh bắt trên biển nữa nên bán tàu cá và chuyển nhượng 02 cây chà trên cho ông Thanh H.

Ngày 21/3/2019, trong lúc tàu cá KG của ông Minh H neo đậu tại cây chà 32, 30 chuẩn bị đánh bắt thì ông C trên tàu cá BV-94555 đến thả chà. Ngày 22/3/2019, ông C tiếp tục thả 3 tua chà, neo đậu và chong đèn không cho tàu cá KG đánh bắt. Cùng đó, tàu cá BV-96869 do cháu ruột ông C cũng có hành vi tương tự, mục đích không cho tàu cá TC và KG đánh bắt.

Theo tập quán hành nghề trên biển, người được quyền sở hữu cây chà thì các tàu khác không được đến neo đậu và khai thác chung tại cùng một cây chà nếu không có sự đồng ý của chủ sở hữu cây chà đó. Do đó, hành vi của tàu cá ông C và ông T là trái với tập quán tại địa phương. Do vậy, ông Minh H khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn C và ông Nguyễn Văn T chấm dứt hành vi neo đậu, thả chà và khai thác thủy sản tại hai điểm chà 32, 30 và 51, 48.

Ngày 22-11-2019, bị đơn ông Nguyễn Văn T có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án công nhận quyền sở hữu cây chà 32, 30 cho ông T. Tại phiên tòa, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu này.

Toà án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Minh H đối với bị đơn ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn C về việc yêu cầu chấm dứt hành vi neo đậu, thả chà và khai thác hải sản tại các cây chà có tọa độ 08032’780 (vĩ độ) – 108030’910 (kinh độ) và cây chà có tọa độ 08051’263 (vĩ độ) – 108048’039 (kinh độ).

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn T và chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh H: Công nhận ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Thanh H được quyền sở hữu cây chà có tọa độ 08032’780 (vĩ độ) – 08048’039 (kinh độ).

Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh H, công nhận ông Nguyễn Thanh H được quyền sở hữu cây chà có tọa độ 08051’263 (vĩ độ) – 108048’039 (kinh độ).

Ngày 10/3/2020, ông Thanh H có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm: yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận cây chà có tọa độ 08032’780 (vĩ độ) – 108030’910 (kinh độ) thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Thanh H và bác yêu cầu phản tố của bị đơn.

Toà án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Các đương sự chỉ yêu cầu Tòa án công nhận quyền sở hữu đối với cây chà 32, 30 và 51, 48. Do vậy, Tòa án không cần xác định giá trị tài sản là bao nhiêu, chỉ giải quyết việc ai là người được sở hữu tài sản tranh chấp. Theo điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì trường hợp này các đương sự phải chịu án phí dân sự không có giá ngạch. Cấp sơ thẩm tự xác định giá trị tài sản tranh chấp và áp dụng án phí có giá ngạch đối với các đương sự là không chính xác.

Các bên liên quan đều không yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng cây chà trên vô hiệu mà chỉ đề nghị Tòa án công nhận quyền sở hữu cây chà cho bên nhận chuyển nhượng. Do vậy, đây được xem là việc ông L và anh em ông V đã chuyển nhượng phần quyền sở hữu của mình đối với cây chà trên cho người khác. Nay, cả ông Thanh H và ông T đều đã thực hiện xong nghĩa vụ giao tiền cho bên chuyển nhượng, hai bên đều khai đã tiếp nhận cây chà trên và sử dụng từ năm 2012 (đối với ông Thanh H) và từ năm 2014 (đối với ông T). Cùng với việc khai thác cá, hai bên cũng đều có thực hiện việc tu bổ, sửa chữa cây chà trên. Bản thân ông Minh H và ông Thanh H trong đơn khởi kiện và yêu cầu của mình đều thừa nhận việc phát hiện ghe ông T mang vật liệu ra tu bổ chùa nên mới phát sinh tranh chấp. Vì vậy, cấp sơ thẩm xử chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thanh H, công nhận cây chà 32, 30 thuộc quyền sở hữu chung của ông Nguyễn Thanh H và ông Nguyễn Văn T là có căn cứ, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, tập quán địa phương và lẽ công bằng cho các bên.

Ông Nguyễn Thanh H yêu cầu Tòa án công nhận cây chà này thuộc quyền sở hữu của ông và buộc ông T chấm dứt hành vi neo đậu, thả chà và khai thác thủy sản tại cây chà 51, 48. Quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện bị đơn xác nhận đồng ý với yêu cầu này của ông Thanh H. Bản thân người đại diện của ông Thanh H cũng xác nhận không biết ông T có neo đậu, thả chà và khai thác thủy sản tại cây chà này hay không. Do vậy, cấp sơ thẩm tuyên công nhận cây chà 51, 48 thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Thanh H, không tuyên buộc ông T chấm dứt hành vi neo đậu, thả chà và khai thác thủy sản tại cây chà này là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật. Các bên không ai kháng cáo đối với phần quyết định này nên cần giữ nguyên như án sơ thẩm.

Toà án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên:

Hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 03 tháng 3 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và đình chỉ giải quyết một phần vụ án đối với phần giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Minh H đối với bị đơn ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn C về việc yêu cầu chấm dứt hành vi neo đậu, thả chà và khai thác hải sản tại cây chà có tọa độ 08032’780 (vĩ độ) – 108030’910 (kinh độ) và cây chà có tọa độ 08051’263 (vĩ độ) – 108048’039 (kinh độ).

Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh H; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, sửa bản án sơ thẩm:

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn T và chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh H: Công nhận ông Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Thanh H được quyền sở hữu chung cây chà có tọa độ 08032’780 (vĩ độ) – 108030’910 (kinh độ).

– Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh H về việc công nhận cho ông Nguyễn Thanh H được quyền sở hữu cây chà có tọa độ 08051’263 (vĩ độ) – 108048’039 (kinh độ).

24 – 36

5.

Bản án số 149/2020/DS-PT ngày 06/7/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương

Về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Chùa P (Chùa) là chủ sử dụng đất diện tích 11.395,9m2 gồm các thửa đất số 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 63, 64, 67 và một phần các thửa 65, 66 tờ bản đồ số D2 tọa lạc xã B, huyện D (nay là khu phố T, phường B, thị xã D), tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T001795/CN-06 do UBND tỉnh Bình Dương cấp ngày 06/12/2006. Đất có nguồn gốc do người dân làm công quả hiến tặng cho Chùa P trước năm 1975. Trong tổng diện tích đất này, có một phần theo đo đạc thực tế là 953,6m2 Chùa P có cho vợ chồng ông Đặng Văn Quới và bà Nguyễn Thị Anh T sử dụng trồng hoa màu. Sau khi ông Đặng Văn Quới chết thì bà Nguyễn Thị Anh T vẫn tiếp tục sử dụng, canh tác trồng hoa màu theo mùa vụ cho đến nay, hàng năm đều có đóng góp hoa lợi cho Chùa một số tiền nhất định. Năm 2006, Chùa P (do ông Hồ Văn G đại diện) làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân xã B (nay là phường B) có tổ chức họp các hộ dân đang sử dụng đất Chùa (trong đó có bà Nguyễn Thị Anh T). Theo Biên bản họp ngày 13/6/2006, các hộ dân đang sử dụng đất Chùa đều xác định đất của Chùa, thống nhất để cho Chùa xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các hộ dân được tiếp tục canh tác để tăng thu nhập, hàng năm cúng Chùa, khi nào canh tác không hiệu quả thì trả lại cho Chùa. Do thời gian gần đây bà Nguyễn Thị Anh T có ý định chiếm luôn đất không trả lại cho Chùa P nên Chùa P đã làm đơn khiếu nại tranh chấp đất tại UBND phường B nhưng hòa giải không thành. Vì vậy Chùa P khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Anh T trả lại cho Chùa diện tích đất 953,6m2.

Bà T có yêu cầu phản tố buộc chùa P phải bồi thường thiệt hại về hoa màu đã trồng trên đất.

Toà án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chùa P. Buộc bà Nguyễn Thị Anh T trả lại cho Chùa P diện tích đất 953,6m2, tọa lạc khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương thuộc thửa 25, 26 và 57 tờ bản đồ D2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 977220 ngày 06/12/2006 do UBND tỉnh Bình Dương cấp cho Chùa P – Buộc bà Nguyễn Thị Anh T trả lại cho Chùa P diện tích đất 953,6m2, tọa lạc khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương thuộc thửa 25, 26 và 57 tờ bản đồ D2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 977220 ngày 06/12/2006 do UBND tỉnh Bình Dương cấp cho Chùa P.

– Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Anh T về việc buộc Chùa P bồi thường thiệt hại về hoa màu là 10.000.000 (mười triệu) đồng.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Anh T về việc yêu cầu công nhận cho bà quyền quản lý, sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất 953,6m2

Sau khi có bản án, bị đơn có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Nhận định của toà án nhân dân cấp phúc thẩm:

Việc Chùa P giao cho bà T được sử dụng đất, hàng năm nộp hoa lợi cho Chùa, đây được xem như trường hợp giao dịch hợp đồng về quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, theo Điều 181 Luật Đất đai năm 2013 thì việc Chùa P giao đất cho gia đình bà T canh tác và thu hoa lợi bằng việc bà T phải đóng góp tiền cho Chùa hàng năm là trái quy định của pháp luật được viện dẫn nêu trên, sử dụng không đúng mục đích đất được cấp cho cơ sở tôn giáo. Do đó, Chùa P yêu cầu bà T trả lại đất để sử dụng đúng mục đích tôn giáo là có căn cứ.

Bà T đã quản lý, sử dụng đất liên tục, lâu dài từ năm 1983 đến nay đã trên 30 năm và nộp hoa lợi cho Chùa đến năm 2017, khi phát sinh tranh chấp tại Tòa án mới không nộp hoa lợi cho Chùa. Người đại diện Chùa P cũng xác nhận, mặc dù là đất của Chùa nhưng từ trước đến nay Chùa không trực tiếp sử dụng mà giao cho bà T từ năm 1983, từ thời điểm đưa đất vào tập đoàn cho đến nay. Qua đó có thể thấy, bà T có nhiều công sức trong việc quản lý, giữ gìn, tôn tạo đất. Vì vậy, theo lẽ công bằng, cần tính một phần công sức cho bà T với tỷ lệ 5% giá trị quyền sử dụng đất để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nên cần buộc Chùa P có trách nhiệm thanh toán cho bà T một phần công sức nêu trên.

Toà án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Anh T.

– Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 107/2019/DS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) D, tỉnh Bình Dương:

+ Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Anh T về việc buộc Chùa P bồi thường thiệt hại về hoa màu là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

+ Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Anh T. Buộc Chùa P thanh toán công sức quản lý, gìn giữ, tôn tạo đất cho bà Nguyễn Thị Anh T với số tiền 286.080.000 đồng (hai trăm tám mươi sáu triệu không trăm tám mươi nghìn đồng).

37 – 45

… CÒN TIẾP (XEM THÊM TẠI LINK DƯỚI ĐÂY)

XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN ÁP DỤNG LẼ CÔNG BẰNG ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP 

————

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan