FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 19 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP DI SẢN THỜ CÚNG” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 19 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP DI SẢN THỜ CÚNG
STT |
TÊN VĂN BẢN |
TRANG |
|
Quyết định Giám đốc thẩm số: 23/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Về việc: “Tranh chấp Hợp đồng tặng cho bất động sản” Tóm tắt nội dung vụ án: Nguồn gốc nhà đất tại số 340 TL, thị trấn CC, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh là của cha mẹ ông (cụ Nguyễn Văn M, chết năm 1988 và cụ Nguyễn Thị G, chết năm 2001); lúc còn sống, cụ M và cụ G có nói cho ông Nguyễn Thành P ở để thờ cúng ông bà và yêu cầu ông đăng ký đứng tên, vì ông P không minh mẫn, không biết chữ. Trong thời gian ông đứng tên, ông Nguyễn Hồng T (em của ông) xin ông sang nhượng lại nhà đất nêu trên cho ông T để ông T có giấy tờ nhà thế chấp vay tiền Ngân hàng đổi xe cẩu mới. Ông đồng ý sang tên lại cho ông T vì nghĩ đó là nhà của cha mẹ nên ai đứng tên cũng được, tuy nhiên ông T đã bán căn nhà đó cho người khác. Ông yêu cầu hủy Hợp đồng tặng cho ngày 03/10/2006 giữa ông và bà Nguyễn Thị L2 tặng cho ông T quyền sử dụng đất đối với thửa 511, tờ bản đồ 21 tại khu phố 4, thị trấn CC, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 262,9m2 để sang tên lại cho ông hoặc ông P, vì ông T không giữ lời hứa ban đầu, căn nhà là nhà thờ cúng ông bà nên không ai được quyền bán; đồng thời, ông yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 23/5/2011 do Ủy ban nhân dân huyện CC cấp cho ông T. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Nguyễn Hồng D về việc hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 03/10/2006 giữa vợ chồng ông Nguyễn Hồng D, bà Nguyễn Thị L2 (L2) với ông Nguyễn Hồng T; Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Nguyễn Hồng D về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 875666, số vào sổ cấp GCN: CH00590 ngày 23/5/2011 của Ủy ban nhân dân huyện CC; Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Nguyễn Hồng D về việc đòi ông Nguyễn Hồng T lập thủ tục tặng cho lại ông D phần đất tọa lạc tại địa chỉ 340 TL, Khu phố 4, thị trấn CC, huyện CC. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Ngọc Thương T1. Buộc ông Nguyễn Hồng T, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thành P, bà Võ Thị Kim T2 và những người đang cư trú tại nhà đất tại thời điểm thi hành án phải giao cho bà Nguyễn Ngọc Thương T1 nhà đất tại địa chỉ 340 TL, khu phố B, thị trấn CC, huyện CC Ngày 22/5/2018, ông Nguyễn Hồng D, ông Nguyễn Thành P có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hồng D, ông Nguyễn Thành P. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Hồng D, ông Nguyễn Thành P có đơn đề nghị xem xét lại Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định: Thực tế, gia đình ông P là người sử dụng nhà đất từ trước tới nay. Như vậy, ông D không phải là người sử dụng hợp pháp nhà đất tranh chấp nêu trên, việc ông D, bà L2 tự ý lập hợp đồng tặng cho ông T quyền sử dụng đối với thửa đất số 511 nói trên là trái với khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai 2003; theo quy định Điều 128, khoản 1 Điều 410, khoản 1 và khoản 2 Điều 691 Bộ luật Dân sự năm 2005. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng nhà đất, từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D là không đúng. Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa ông T và bà Thương T1 chưa hoàn thành. Bà Thương T1 không thưộc trường hợp “nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa” theo quy 7 định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2005. Như vậy, do “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” ngày 03/10/2006 giữa ông D, bà L2 với ông T vô hiệu nên Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa ông T và bà Thương T1 ngày 25/8/2016 cũng vô hiệu, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Ngọc Thương T1 là không có căn cứ. Tòa án cấp giám đốc thẩm tuyên: Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 374/2018/DS-PT, hủy Bản án dân sự sơ thẩm 17/2022/HC-ST; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật. |
1 – 7 |
|
Quyết định Giám đốc thẩm số: 97/2021/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
Về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD đất và yêu cầu thay đổi người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng” Tóm tắt nội dung vụ án: Lê Văn M, Lê Văn H, Lê Văn Ch, Lê Văn C, Lê Thị S, Lê Thị H trình bày: Thửa đất số 64, tờ bản đồ số 11, diện tích 1.341 m2 mà Ủy ban nhân dân huyện A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Ngọc M1, có nguồn gốc là của cố Nguyễn Văn Đệ (ông cố của các Ông, Bà) chết để lại từ trước năm 1975, cố Đệ giao cho cụ Lê Phong (cha của các Ông, Bà) quản lý để thờ cúng tổ tiên. Năm 1975, con cháu nội ngoại của cố Đệ thống nhất giao cho vợ chồng ông Phong bán đứt phần đất trống của thửa đất trên lấy kinh phí tu bổ nhà từ đường nằm trên một phần thửa đất này và lo việc hương khói. Cha mẹ của các Ông, Bà là cụ Lê Phong (chết năm 1993) và cụ Nguyễn Thị Thê (chết năm 2005), có 10 người con, gồm Lê Văn M, Lê Thị H, Lê Văn H, Lê Văn Ch, Lê Văn C, Lê Thị S, Lê Ngọc M1, Lê Văn Kỳ (đã chết, có vợ và 3 con), riêng Lê Thị Sáu, Lê Văn Tám chết lúc còn nhỏ. Năm 1980, cụ Phong giao nhà đất trên cho con là ông Lê Ngọc M1 ở để thờ cúng, còn cụ Phong về nhà khác của mình ở. Di sản trên là di sản thờ cúng tổ tiên. Năm 1994, ông M1 khai báo gian dối để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất nêu trên. Nay, các Ông, Bà yêu cầu ông M1 trả lại nhà, đất trên; việc cử người quản lý nhà đất từ đường do họ tộc tự giải quyết; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00189/QSDĐ/14 ngày 30/12/1994 mà Ủy ban nhân dân huyện A đã cấp cho ông M1. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên xử: 1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của các đồng nguyên đơn: ông Lê Văn M, ông Lê Văn H, ông Lê Văn Ch, ông Lê Văn C, bà Lê Thị S và bà Lê Thị H về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00189/QSDĐ/I4 ngày 30/12/1994 mà UBND huyện A (nay là thị xã A) cấp cho ông Lê Ngọc M1. 2. Bác yêu cầu của các đồng nguyên đơn: Ông Lê Văn M, ông Lê Văn H, ông Lê Văn Ch, ông Lê Văn C, bà Lê Thị S và bà Lê Thị H về yêu cầu ông Lê Ngọc M1 giao lại nhà, đất ông M1 đang quản lý có địa chỉ tọa lạc tại số 152 đường Đào Duy Từ, phường Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định cho các đồng nguyên đơn quản lý. – Ngày 02/11/2018, các nguyên đơn có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Đình chỉ xét xử phúc thẩm. Ngày 04/7/2019, ông Lê Văn M có Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định: Các đương sự đều thừa nhận nguồn gốc đất tranh chấp là của cố Nguyễn Văn Đệ giao cho vợ chồng cụ Lê Phong quản lý thờ cúng trước năm 1975. Đối với phần diện tích đất (tạm ký hiệu là B) gắn liền với ngôi nhà từ đường (Nhà N7) thì Hội đồng gia tộc chỉ giao cho vợ chồng cụ Phong quản lý để thờ cúng chứ không cho vợ chồng cụ Phong nên phần đất (B) gắn liền với ngôi nhà từ đường vẫn thuộc về họ tộc. Đối với việc Tòa án cấp sơ thẩm đồng nhất Bản hội đồng gia tộc ngày 20/8/1975 như là di chúc, để từ đó cho rằng Nhà N7 là di sản dùng vào việc thờ cúng là không chính xác, căn nhà từ đường là nhà của họ tộc, chứ không phải là di sản của cụ Phong chết để lại theo di chúc, vợ chồng cụ Phong chỉ là người trông nom, hương khói. Do nhà từ đường trên là của họ tộc nên người tiếp tục quản lý nhà từ đường trên thay vợ chồng cụ Phong đã chết thì phải do họ tộc cử. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định nhà từ đường (trên diện tích đất ở 84,46m2) không phải là của ông M1, phần đất còn lại là thuộc quyền sử dụng của ông M1 là đúng nhưng khi tuyên án thì Tòa án cấp sơ thẩm lại quyết định không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của các nguyên đơn là không thích đáng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ tộc. Tòa án cấp giám đốc thẩm tuyên: Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. |
8 – 14 |
|
Quyết định Giám đốc thẩm số: 79/2021/DS-GĐT ngày 19/09/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
Về việc: “Tranh chấp chia tài sản thừa kế” Tóm tắt nội dung vụ án: Lương Thị M trình bày: Bà và ông Lê S có 02 người con chung là ông Lê Văn M và bà Lê Thị O, ông Lê S không có cha mẹ nuôi, con riêng hay con nuôi. Năm 2013, ông Lê S chết và không để lại di chúc. Ông không đồng ý chia di sản thừa kế vì cho rằng đây là di sản thờ cúng ông. Nay, Bà khởi kiện yêu cầu chia theo pháp luật di sản của ông Lê S gồm: ½ căn nhà ba gian (nhà trên) trên diện tích đất 535m2 tại thửa số 115, tờ bản đồ số 03 và các thửa đất số 65, 53 tờ bản đồ số 06 với diện tích 1310m2 tại xã D, huyện, bà xin được nhận toàn bộ nhà, đất và thanh toán tiền cho các đồng thừa kế còn lại. Phần nhà sau và gác gỗ có diện tích xây dựng 138,11 m2, cùng các công trình phụ có trên đất do vợ chồng ông M, bà H bỏ tiền ra xây năm 1993. Bà xin nhận tài sản này và thanh toán tiền cho vợ chồng ông M, bà H theo kết quả định giá tài sản. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lương Thị M về chia di sản của ông Lê S trong khối tài sản chung với bà M là căn nhà trên ba gian và các thửa đất đã được Ủy ban nhân dân huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00363/QSDĐ/DT-DK ngày 30/11/1996 2. Bà Lương Thị M được quản lý, sở hữu, sử dụng nhà và đất. 3. Phần thanh toán giá trị tài sản: Bà M có nghĩa vụ thanh toán cho bà O 159.917.000 đồng (Một trăm năm mươi chín triệu chín trăm mười bảy nghìn đồng). Bà M phải thanh toán lại giá trị phần nhà sau, gác gỗ và các công trình phụ cho vợ chồng ông M, bà H là 346.017.000 đồng (Ba trăm bốn mươi sáu triệu không trăm mười bảy nghìn đồng). Ngày 21/10/2019, bị đơn ông Lê Văn M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Diệp Thị H kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn M và bà Diệp Thị H, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngày 03/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa có văn bản số 229/VKS-P9 đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Ngày 12/10/2020; 09/3/2021; 29/4/2021 ông Lê Văn M và bà Diệp Thị H có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định: Trong các Đơn kháng cáo đề ngày 21/10/2019 của bị đơn ông Lê Văn M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Diệp Thị H (BL 160-165) đều trình bày nội dung chính là mâu thuẫn gia đình và cho rằng thửa đất đất 115 nêu trên là đất từ đường nên không được chia thừa kế. Không có nội dung kháng cáo nào thể hiện ông Lê Văn M yêu cầu được nhận phần di sản của mình. Từ đầu vụ án đến khi có Đơn đề nghị giám đốc thẩm bản thân ông M đều có chung một nội dung trình bày là không đồng ý chia di sản thừa kế vì đó là di sản dùng vào việc thờ cúng. Sau khi có Đơn đề nghị giám đốc thẩm, ông M có Đơn bổ sung ghi ngày 15/4/2021 gửi Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Tuy nhiên, tại Đơn bổ sung này ông M vẫn có nêu nội dung: về kỷ phần thừa kế, tôi không đồng ý chia, nên không đồng ý nhận, còn nếu buộc phải chia thì tôi nhận chia theo pháp luật…Việc ông M thay đổi lời khai, thay đổi mong muốn nhận di sản thừa kế không phải là căn cứ giám đốc thẩm. Việc ông M không nhận di sản (từ chối nhận di sản) là hoàn toàn tự nguyện và không bị ép buộc, đó là quyền tự định đoạt của đương sự, ông M từ chối nhận di sản không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba nên việc Tòa án các cấp tôn trọng và chấp nhận nguyện vọng của ông M là hoàn toàn có căn cứ. Do đó, Tòa án các cấp không chia di sản thừa kế bằng hiện vật cho ông M là đúng. Về việc định giá lại tài sản: Việc định giá tài sản đã được Tòa án thông báo cho ông M, bà H và ông M đã có mặt và ký và Biên bản định giá tài sản. Tại Biên bản làm việc ngày 15/5/2019 (BL 91), khi được hỏi có ý kiến hay yêu cầu gì về biên bản định giá ngày 11/9/2018, có yêu cầu định giá lại không, ông M trình bày là thống nhất với biên bản định giá và không có ý kiến hay yêu cầu gì. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông M và bà H cũng không yêu cầu định giá lại. Do đó, nội dung kháng nghị này của Viện kiểm sát cũng không có căn cứ chấp nhận. Tòa án cấp giám đốc thẩm tuyên: Không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm scủa Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 42/2020/DS-PT ngày 14/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. |
15 – 26 |
|
Quyết định Giám đốc thẩm số: 19/2021/DS-GĐT ngày 29/04/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
Về việc: “Tranh chấp về thừa kế tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án: Cụ Tôn Thất S sống chung cụ Đoàn Thị H năm 1945 và có 2 con chung là ông Tôn Thất Th (sinh năm 1948, là anh, tên thường gọi: N) và ông Tôn Thất Th1 (sinh năm 1953, là em). Năm 1984 cụ S chết. Năm 1987 vợ chồng ông Tôn Thất Th1 (em) và vợ là bà Nguyễn Thị H1 làm một ngôi nhà ở trên đất, ông Tôn Thất Th (anh) biết nhưng chỉ đồng ý cho làm nhà ở tạm trên đất. Năm 2000, cụ Đoàn Thị H được UBND huyện H (nay là thị xã H) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 64, tờ bản đồ số 2 diện tích 1.468m2; còn ông Tôn Thất Th1 (em) kê khai, được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với thửa đất số 64-1, tờ bản đồ số 2, diện tích 292m2 (sau khi trừ lộ giới đường Quốc lộ 49). Cụ H chết ngày 20/01/2005, ngày 19/01/2017 ông Tôn Thất Th (anh) khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật di sản của vợ chồng cụ S, cụ H là 2.566,2m2 đất (theo đo đạc hiện trạng thực tế) tại thôn C, xã B, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế, yêu cầu chia đôi đất theo chiều dài mặt đường Quốc lộ 49, cho ông Th1 (em) và ông Th (anh). Tuy nhiên, bị đơn là ông Tôn Thất Th1 (em) không đồng ý với với đơn khởi kiện của ông Th (anh) vì bị đơn đã đăng ký kê khai theo Bản đồ năm 2005 là thửa đất số 126, tờ bản đồ số 4, diện tích 1.049,7m2 (đo thực tế là 994m2 ) và cho rằng thửa đất số 127, tờ bản đồ số 4, theo Bản đồ năm 2005 thì cha mẹ để vợ chồng bị đơn thờ cúng tổ tiên. Như vậy, toàn bộ nhà đất (hiện nay là hai thửa số 126 và số 127) đều thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu chia dỉ sản là ngôi nhà cấp 4 do ông Tôn Thất S và bà Đoàn Thị H tạo lập. 2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N). * Công nhận diện tích đất 2.566,2m2 có giới cận:…là di sản thừa kế của ông Tôn Thất S và bà Đoàn Thị H. * Di sản thừa kế được chia như sau: + Trích công sức quản lý, bảo quản, tôn tạo di sản thừa kế, ông Tôn Thất Th1 và bà Nguyễn Thị H1 được hưởng là 513,24m2 , trong đó 80m2 đất ở. + Phần diện tích đất ông Tôn Thất Th1 được hưởng là 821,184 m2 . + Phần diện tích đất ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) được hưởng là 821,184m2 + Phần diện tích đất ông Trần Văn H, ông Trần Văn M, bà Trần Thị H, bà Trần Thị Mỹ Ch, ông Trần Văn L, ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị Xuân M được hưỏng là 410,592m2 . * Ghi nhận sự tự nguyện tặng cho ông Tôn Thất Th * Ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) và ông Tôn Thất Th1 được nhận phần đất như sau (Có bản vẽ kèm theo). + Ồng Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) được quyền sử dụng 1.231,8m2 , trong đó có 192m2 đất ở. Vị trí thửa đất có ký hiệu trong bản vẽ là A, có giới cận như sau:… Tọa lạc tại Thôn C, xã B, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. + Ông Tôn Thất Th1 được quyền sử dụng 1.334,4m2 , trong đó có 208m2 đất ở (Phần đất này bao gồm cả phần công sức ông Th1 và bà H1 được hưởng). Vị trí thửa đất có ký hiệu trong bản vẽ là B, có giới cận như sau:… Tọa lạc tại Thôn C, xã B, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. * Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự thống nhất cây cối và ngôi nhà cấp 4 do ông Tôn Thất S và Đoàn Thị H tạo lập gắn liền trên phần đất của ai được nhận, người đó được quyền sở hữu, không yêu cầu Tòa án giải quyết… ” Ngày 10/12/2019 ông Tôn Thất Th (anh) kháng cáo cho rằng: (i). Tòa án cấp sơ thẩm trích công sức quản lý, bảo quản, tôn tạo di sản cho ông Th1 (em) 20% tổng diện tích đất cha mẹ để lại (513,24m2 đất) là quá nhiều, Ông chỉ đồng ý trích từ 3% đến 5%; (ii). Tòa án cấp sơ thẩm giao hiện vật cho ông Th1 (em) kích thước đất theo mặt tiền đường Quốc lộ 49 quá nhiều làm thiệt hại quyền lợi của Ông và các thừa kế khác. Ngày 12/12/2019 ông Tôn Thất Th1 (em) kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm công nhận vợ chồng ông Th1 (em) có quyền sử dụng thửa đất 64-1 vì đã được cấp Giấy chứng nhận (sau đó bị hủy); công nhận giá trị Di chúc cụ H lập ngày 23/11/2004 để cho vợ chồng ông Th1 (em) được hưởng phần tài sản của cụ H trong thửa đất 64. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Tôn Thất Th1 (N), không chấp nhận kháng cáo của ông Tôn Thất Th1, sửa một phần bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã H: 1. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu chia di sản là ngôi nhà cấp 4 do ông Tôn Thất S và bà Đoàn Thị Hưòng tạo lập. 2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) chia di sản thừa kế của ông Tôn Thất S và bà Đoàn Thị H để lại. Xác định diện tích đất 2.560,2m2 có giới cận:.,.là di sản thừa kế của ông Tôn Thất S và bà Đoàn Thị H. Di sản thừa kế được chia như sau: Trích công sức quản lý, bảo quản, tôn tạo di sản thừa kế cho ông Tôn Thất Th1 và bà Nguyễn Thị H1 được hưởng là 128,31m2 . + Phần diện tích đất ông Tôn Thất Th1 được hưởng là 975, 16m2 . Phần diện tích đất ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) được hưởng là 975,16m2 . + Phần diện tích đất ông Trần Văn H, ông Trần Văn M, bà Trần Thị H, bà Trần Thị Mỹ Ch, ông Trần Văn L, ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị Xuân M được hưởng là 487,58m2. Ghi nhận sự tự nguyện tặng cho ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) phần di sản thừa kế 487,58m2 được hưởng của ông Trần Văn H, ông Trần Văn M, bà Trần Thị H, bà Trần Thị Mỹ Ch, ông Trần Văn L, ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị Xuân M. Ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) và ông Tôn Thất Th1 được nhận phần đất như sau (Có bản vẽ kèm theo). Ông Tôn Thất Th (Tên gọi khác: N) được quyền sử dụng 1.462,74 m2 (bao gồm cả phần thừa kế khác tặng cho) thửa đất có ký hiệu trong bản vẽ là A, có giới cận như sau: …Tọa lạc tại Thôn C, xã B, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. + Ông Tôn Thất Th1 được quyền sử dụng 1.103,47m2 (bao gồm cả phần công sức ông Th1 và bà H1 được hưởng 5% của tổng diện tích đất là di sản thừa kế). Ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự thống nhất cây cối và ngôi nhà cấp 4 do ông Tôn Thất S và Đoàn Thị H tạo lập gắn liền trên phần đất của ai được nhận, người đó được quyền sở hữu…” Ngày 16/7/2020, bị đơn ông Tôn Thất Th1 (em) có Đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định: Xét, thửa đất số 64, tờ bản đồ số 2, tờ Bản đồ giải thửa có xác nhận của Phòng Nông Lâm Ngư thành phố năm 1990, khi cụ S còn sống thì vợ chồng ông Tôn Thất Th1 (em) vẫn sống chung cùng Cụ S và Cụ H, hai Cụ chưa cho vợ chồng ông Th1 (em) đất để làm nhà ra ở riêng. Cụ S chết không để lại di chúc nên di sản của cụ S do 5 đồng thừa kế của cụ S gồm cụ Nguyễn Thị V, bà Tôn Nữ Thị B, cụ Đoàn Thị H, ông Tôn Thất Th (anh) và ông Tôn Thất Th1 (em) được hưởng. Như vậy, năm 1987 vợ chồng ông Tôn Thất Th1 (em) làm nhà ra ở riêng thì chỉ mình cụ H (nếu có) đồng ý mà chưa có sự đồng ý của các thừa kế khác vì những người thừa kế thế vị của cụ V, bà B vẫn đề nghị chia thừa kế di sản của cụ S nhưng nhường kỷ phần cho ông Th1 (anh), còn ông Th (anh) thì trình bày năm 1987 có biết việc vợ chồng ông Th1 (em) làm nhà ra ở riêng nhưng chỉ đồng ý cho ở tạm chứ không đồng ý cho luôn đất. Xét hiệu lực của Di chúc đề ngày 23/11/2004 có dấu điểm chỉ dưới ghi tên cụ “Đoàn Thị H”, có nội dung thửa đất số 127, tờ bản đồ số 4, theo Bản đồ năm 2005 Cụ H để cho vợ chồng ông Th1 để thờ cúng tổ tiên. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy: Thời điểm lập Di chúc cụ S đã chết, nhà đất tại thửa đất số 64 là tài sản chung vợ chồng nhưng mình cụ H định đoạt (cả 3 sào đất) là vượt quá quyền về tài sản của cụ H; Những người làm chứng đều xác nhận cụ H không biết chữ (cụ H chỉ điểm chỉ vào Di chúc), trong khi Khoản 3 Điều 655 Bộ luật dân sự 1995 quy định:“Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”. Vì các lý do trên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định Di chúc không hợp pháp nên không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Tôn Thất Th1 (em) yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Đoàn Thị H theo Di chúc này là có cơ sở, đúng pháp luật. Tòa án cấp giám đốc thẩm tuyên: Không chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm. |
27-35 |
|
[XEM THÊM TẠI FILE PDF] |
LINK TẢI: TỔNG HỢP 19 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP DI SẢN THỜ CÚNG
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn