Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / Tổng hợp 18 bản án hình sự về các trường hợp toà án tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên toà

Tổng hợp 18 bản án hình sự về các trường hợp toà án tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên toà

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 18 bản án hình sự về các trường hợp toà án tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên toà” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 18 bản án hình sự về các trường hợp toà án tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên toà

STT

NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án số 61/2022/HS-PT ngày 11 tháng 7 năm 2022 Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh.

Nội dung:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 13 tháng 4 năm 2021, chị Nguyễn Thị Bé L, sinh năm 1982 và con gái là Dương Nguyễn Như H, sinh ngày 22/12/2004, cùng ngụ ấp X, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh đến nhà của anh Lê Văn M, sinh năm 1972 tọa lạc tại khóm Z, phường V, thành phố T để gặp anh Đỗ Đức V, sinh năm 1977, cư ngụ số N, khóm L,
phường D, thành phố T để giải quyết mâu thuẫn trong chuyện kinh doanh. Khi đến nhà anh M, chị L đứng ngoài cổng rào kêu anh V ra nói chuyện. Lúc này, anh M đang uống bia cùng với anh V, anh Nguyễn Trần B, sinh năm 1983, ngụ ấp P, xã N, huyện C, tỉnh Đồng
Tháp. Bị cáo Nguyễn Thị Tuyết D cũng có mặt tại nhà anh M, nhưng không cùng uống bia, mà chỉ ngồi ở trên võng kế bên bàn nhậu. Khi nghe tiếng kêu và đập cửa của chị L, anh M ra gặp và khuyên chị L đi về, hôm khác nói chuyện, nhưng chị L không nghe mà cùng với
chị H trèo lưới rào B40 để vào bên trong nhà của anh M. Khi vào nhà anh M thấy anh V đang ngồi uống bia nên chị L đã chửi mắng và dùng chén chứa thức ăn trên bàn ném về phía anh V nhưng không trúng. Lúc này chị H tháo nón bảo hiểm đang đội trên đầu xuống vung về hướng bị cáo nhưng không trúng, bị cáo nghĩ chị H tấn công mình nên bị cáo liền chụp lấy một ly thủy tinh có quai đang dùng uống bia để trên bàn bằng tay trái hất nước bia trong ly vào mặt của chị H rồi liền ném ly thủy tinh trúng trực diện vào vùng mặt của chị H làm bể ly gây thương tích phải đến Bệnh viện đa khoa Trà Vinh cấp cứu điều trị.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Tuyết D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tuyết D 01 (một ) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2022.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 01 năm tù là đã xem xét đánh giá một cách toàn diện, khách quan tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với quy định pháp luật. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị hại và người đại diện hợp pháp cho bị hại cũng thừa nhận có phần lỗi của mình nên dẫn đến việc bị cáo phạm tội và tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị hại Dương Nguyễn Như H.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2022/HS-ST, ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tuyết D 01 (một) năm tù cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng Hình sự tuyên bố trả tự do cho bị cáo Nguyễn Thị Tuyết D tại phiên tòa.

1

2

Bản án số 19/2022/HS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2022 Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H.

Nội dung:

Trong tháng 7 năm 2021 Nguyễn Mạnh D cùng vợ con lên nhà mẹ vợ là Hoàng Thị Đ ở thôn Làng Trần, xã Đạo Đ, huyện V chơi. Vì nhà bà Đ ở gần Trạm trộn bê tông nhựa nóng của Công ty TNHH xây
dựng A nên khi phát hiện có một số cuộn dây cáp điện để ở ngoài sân không có người trông coi, nên D đã nảy sinh ý định trộm cắp để bán lấy tiền tiêu sài, nên ngày 22/01/2022 đã một mình đến Trạm trộn bê tông kéo 02 cuộn dây cáp điện ở ngoài sân vào trong nhà xây cấp 4 rồi D kìm cộng lực cắt ra thành từng đoạn có kích thước từ 1m đến 1,4m để tại đó vì chưa biết bán cho ai. Ngày 23/02/2022 D gặp Cấn Văn H đã nhờ H bán hộ, và được H đồng ý bán hộ, rồi H điện cho Kim Đình C, khi trao đổi thì C được H xác nhận số dây cáp trên không pH do trộm cắp vì H cho xem cả video nên đồng ý mua. Toàn bộ bán được
36.680.000đ.

Nhận định của Toà án:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm
tới quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật quy định theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Điều luật ghi rõ:1. “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Hành vi phạm tội của bị cáo còn làm mất trật tự trị an xã hội, cần xử lý nghiêm để phòng ngừa chung.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh D phạm tội Trộm cắp tài sản. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Mạnh D 26 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Thời gian thử thách là 52 tháng. Kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Ngày 12/7/2022. Giao bị cáo Nguyễn Mạnh D về UBND xã Kim Koa, huyện M, thành phố H nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

6

3

Bản án số 78/2022/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2022 Toà án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

Nội dung:

Khoảng 03 giờ sáng ngày 26/12/2020, tại nhà số 125/7, ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Công an huyện T bắt quả tang Đỗ Phi H1, Đỗ Hồng P và Trương Minh H2 đang có hành vi tổ chức cho 12 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Tiếp tục khám xét khẩn cấp tại
nhà ở của Đỗ Phi H1 và Đỗ Hồng P tại xã Q, Công an huyện tiếp tục thu giữ 01 túi nilon chứa 02 viên nén màu hồng trong giỏ xách đựng đồ trang điểm màu nâu trong phòng làm việc của H1và nhiều tài liệu vật chứng khác liên quan đến hành vi làm giả tài liệu con dấu của cơ quan tổ chức.

Nhận định của Toà án:  

Hành vi của các bị cáo Đỗ Phi H1 và Trương Minh H2 đã đủ yếu tố cấu thành các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 và các điểm a, b khoản 2 Điều 255 Bộ Luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Hành vi của bị cáo Đỗ Hồng P đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V1 đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật
hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Phù hợp với lời khai của H2, H3, S khi xác định ngày 15/12/2020 nhóm của T1 thuê phòng sử dụng ma túy có 04 người. Do vậy hành vi của Nguyễn Trọng T1 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 258 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Cáo trạng
của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Các bị cáo Đỗ Phi H1 và Trương Minh H2 phạm các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”
Đỗ Hồng P phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Trọng T1 phạm tội “Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo Đỗ Phi H1 09 (chín) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của hai tội bị cáo phải chấp hành là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2020. Bị cáo Trương Minh H2 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái
chất ma túy” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Tổng hợp hình phạt của hai tội bị cáo phải chấp hành là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2020. Bị cáo Đỗ Hồng P 09 (chín) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2020. Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng 18 (mười tám)
ngày tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 26/12/2020, Căn cứ Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố trả tự do cho bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V1 ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về tội phạm khác.. Bị cáo Nguyễn Trọng T1 04 (bốn) năm tù về tội “Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn từ tính từ ngày 25/5/2022.

13

4

Bản án số  54/2022/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2022 Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

Nội dung:

Vào khoảng tháng 6/2020, Võ Thanh T chung sống như vợ chồng với Bùi Thị B, sinh năm 1987, nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Trong khoảng thời gian chung sống với B, T làm nghề đi ghe biển. Đến khoảng tháng 09/2021, T và B cãi nhau, nên T bỏ đi ghe biển. Đến ngày 10/01/2022, khi ghe vô bờ, T nghe nói B đã có chồng khác, nên đến tìm gặp B nhưng không gặp. Đến ngày 11/01/2022, sau khi uống rượu với bạn, T nhớ đến việc B có chồng khác nên mua một con dao Thái Lan (dao dài khoảng 20cm, cán bằng nhựa, lưỡi dao sắc, mũi nhọn) đến tìm gặp B để nói chuyện riêng với B. Đến khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, T đến nhà trọ Quỳnh Anh nơi B đang ở thuộc Trú tại: ấp VB, xã VHH, huyện CT, tỉnh KG. Khi đến trước dãy phòng trọ, nhìn thấy B, T để dao Thái cán vàng sau lưng, B hỏi T đi đâu thì T nói đến để đâm mày. Lúc này, B vừa chạy thì bị T đâm trúng vào tay trái, T rút dao ra và tiếp tục rượt theo B. B chạy vào phòng trọ của
người khác, thấy có người can ngăn nên T bỏ đi. Sau đó, T ném dao xuống sông gần Ủy ban nhân dân xã VHH. Đến ngày 12/01/2022, Võ Thanh T đến đầu thú tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành.

Nhận định của Toà án:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi bị cáo nhận thức được sức khỏe của con người là vô cùng quý giá không gì thay thế được nên mọi hành vi xâm hại trái luật điều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mặc dù nhận thức được hậu quả gây ra thế nhưng chỉ vì tính hung hãn xem thường pháp luật bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình. Trong vụ án này cho thấy bị cáo là người có đủ năng lực và biết rõ cây dao là hung khí sắc bén vô cùng nguy hiểm nếu như sử dụng vào mục đích gây thương tích thì sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng cũng như sức khỏe của người bị hại.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Võ Thanh T (Huỳnh Văn H) phạm tội: “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo Võ Thanh T (Huỳnh Văn H), 06 (sáu) tháng 02 (hai) ngày tù, thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam (Từ ngày 12/01/2022 đến ngày 14/7/2022). Tuyên bố trả tự do cho bị cáo Võ Thanh T tại phiên tòa

28

5

Bản án số 72/2022/HS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2022 Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng.

Nội dung:

Ngày 02/3/2022, Tạ Thanh M được trao đổi qua Wechat với một người đàn ông Trung Quốc và một người đàn ông Việt Nam về việc đến thị trấn K, huyện K, tỉnh Cao Bằng đón 02 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép và đưa về thành phố Hà Nội, M đồng ý và rủ Bùi Văn H cùng thực hiện. Khoảng 22 giờ cùng ngày, M đón được 02 người Trung Quốc tại cổng Bệnh viện đa khoa huyện K và đưa lên xe của H,
khi xe ô tô của H đang di chuyển đến khu vực tổ dân phố 8, thị trấn K, huyện K thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt giữ.

Nhận định của Toà án:

Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo là do ý thức pháp luật của bị cáo kém hiểu biết, mặc dù biết hành vi của bản thân vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi nên các bị cáo vẫn cố ý phạm tội. Do các công dân Trung Quốc có nhu cầu tìm kiếm việc làm, kiếm thêm thu nhập nên đã thông qua mạng xã hội để tìm hiểu, móc nối với các đối tượng môi giới, giới thiệu việc làm và tổ chức nhập cảnh trái phép vào Việt Nam sau đó xuất cảnh trái phép sang nước thứ ba. Mặt khác, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, điều kiện kinh tế khó
khăn, các đối tượng không có thu nhập ổn định nên đã thực hiện hành vi phạm tội.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố: Các bị cáo Tạ Thanh M, Bùi Văn H phạm tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”. xử phạt Bùi Văn H 15 tháng tù,
nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 19/7/2022. Trả tự do cho bị cáo Bùi Văn H tại phiên tòa.

34

6

Bản án số 39/2022/HS-ST ngày 21 tháng 7 năm 2022 Toà án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Nội dung:

Tối ngày 15/01/2018 tại khu vực vườn cà phê ông Cao Xuân T ở tại thôn E, xã E, huyện K, Ma Thị V đã cùng các đối tượng Ma Văn B, Ma Văn V, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn G và Nguyễn Văn T thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa thắng thua
bằng tiền, đến 21 giờ 20 phút ngày 15/01/2018 thì bị bắt quả tang, thu giữ tổng cộng số tiền 11.710.000 đồng, trong đó thu trên chiếu bạc số tiền 9.300.000 đồng, thu trên người các bị đối tượng tổng số tiền 2.410.000 đồng mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.

Nhận định của Toà án:

Hành vi của bị cáo Ma Thị V đã cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 51 Bộ luật hình sự nên HĐXX xét thấy có căn cứ cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Ma Thị Việt phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Ma Thị V 03 ( Ba) tháng 10 ( Mười ) ngày tù. Thời hạn phạt tù tính
từ ngày bắt, ngày 11/4/2022. Áp dụng khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên trả tự do cho bị cáo Ma Thị V ngay tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị giam giữ về một tội phạm khác.

45

7

Bản án số 13/2022/HS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2022 Toà án nhân dân thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang.

Nội dung:

Khoảng 10 giờ ngày 17/3/2022 bị cáo Đỗ Văn D đã có hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc máy in, nhãn hiệu Canon LBP 2900 có giá trị là 3.600.000 đồng (Ba triệu sáu trăm ngàn đồng) của chị Nguyễn Thị Nga tại tổ A, phường N, thành phố H. Sau khi trộm cắp được tài sản bị cáo mang bán cho anh Nguyễn Xuân H được số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng), mang đi tiêu xài cá nhân hết số tiền trên.

Nhận định của Toà án:

Hành vi Trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, được pháp luật hình sự bảo vệ và cần phải được xử lý bằng hình sự, tội phạm và hình
phạt được quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 03 năm:….” Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo với tội danh và điều luật viện
dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Toà án tuyên xử:

Bị cáo Đỗ Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn D 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho UBND phường N, thành phố H, tỉnh Y và gia đình nơi bị cáo cư trú theo dõi, giám sát và giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Áp dụng Điều 125, 328 Bộ luật Tố tụng hình sự hủy bỏ biện pháp tạm giam và trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

49

8

Bản án số 50/2022/HS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2022 Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Nội dung:

Ngày 19/01/2022, do mâu thuẫn trong quá trình sinh hoạt, Nguyễn Anh Q đã có hành vi dùng tay phải đấm vào vùng trán, má phải, cằm dưới của anh Lò Văn L. Hành vi trên của bị cáo đã gây tổn hại sức khỏe cho anh Lò Văn L là 33%

Nhận định của Toà án: 

Hành vi trên của bị cáo đã gây tổn hại sức khỏe cho anh Lò Văn L là 33% đã đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích, theo điểm a khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự, quy định mức hình phạt tù từ 02 năm đến 06 năm.

Toà án tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh Q phạm tội Cố ý gây thương tích. Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh Q 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (Năm) năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

54

9

Bản án số 22/2022/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Yên Bái.

Nội dung:

Do có quen biết từ trước với Thào A S, sinh năm 2005, trú tại bản S, xã M, huyện M, nên khoảng 22 giờ ngày 09/6/2022 sau khi cùng nhau chơi game tại khu vực tổ 2, thị trấn M, Lờ A S cùng Thào A S về phòng trọ tại tổ 3, thị trấn M để ngủ qua đêm. Thào A S nhờ Phàng A T, sinh năm 2009, trú tại bản C, xã L dùng xe mô tô nhãn hiệu HONDA
Wave RSX màu đỏ đen BKS: 88G1-020.81 của Sang đưa Sủng về phòng ngủ. Đến khoảng 06 giờ ngày 10/6/2022, Sủng nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của Sang nên lấy lý do đi cầm cố chiếc điện thoại của T rồi lấy chìa khóa xe máy của Sang để trên bàn và cùng T đi ra ngoài. Sủng điều khiển chiếc xe mô tô chở T đến xã M, huyện V, tỉnh Lào Cai và cầm cố chiếc xe cho ông Phạm Văn H, sinh năm 1985 trú
tại thôn 3 M, xã M, huyện V, tỉnh Lào Cai là chủ cửa hàng cầm đồ “Vàng Hà” với số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Toàn bộ số tiền này S và T đã cùng nhau tiêu xài hết.

Nhận định của Toà án: 

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi tội phạm. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội
“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Lờ A S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: bị cáo Lờ A S 03 (Ba) tháng 11 (mười một) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 18/6/2022; bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

60

10

Bản án số 15/2022/HS-ST ngày 15 tháng 4 năm 2022 Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang.

Nội dung:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 05/7/2021, do muốn có tiền để tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng nên bị cáo Trương Văn C thuê chiếc xe ô tô 07 chỗ hiệu Fortuner màu trắng, biển kiểm soát 68A-087.43 của anh Trần Minh P (nói với anh P là chở khách) chạy từ thành phố R , Kiên Giang đến phà Năng Gù thuộc huyện C , tỉnh An Giang chở thuê, vận chuyển hàng cấm là thuốc lá nhập lậu cho người phụ nữ lạ mặt không rõ tên và địa chỉ với số lượng 4.230 bao thuốc lá, trong đó: có
3.730 bao nhãn hiệu HERO, 500 bao thuốc lá nhãn hiệu JET về khu vực cây xăng Nam Hưng thuộc phường R , thành phố R , tỉnh Kiên Giang để lấy tiền công vận chuyển là 2.000.000 đồng. Khi xe về đến chốt soát liên ngành phòng, chống dịch bệnh Covid-19 tại ấp Đ , xã T , huyện T , tỉnh Kiên Giang, thì bị lực lượng chốt kiểm tra bắt quả tang.

Nhận định của Toà án:

Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý thuốc lá điếu nhập khẩu, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội và trật tự quản lý kinh tế tại địa phương. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn C phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Xử phạt: Bị cáo Trương Văn C 06 (sáu) tháng 20 (hai mƣơi) ngày tù giam. Thời hạn tù bằng thời hạn tạm giữ, tạm giam (kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/7/2021 đến ngày 21/01/2022).
Áp dụng khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

… XEM TOÀN VĂN TẠI FILE PDF>>

65

LINK TẢI PDF: Tổng hợp 18 bản án hình sự về các trường hợp toà án tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên toà

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan