FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 18 BẢN ÁN CỦA TÒA ÁN CÓ ÁP DỤNG NGHỊ QUYẾT 03/2020-HĐTP TRONG XÉT XỬ TỘI PHẠM THAM NHŨNG VÀ TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 18 BẢN ÁN CỦA TÒA ÁN CÓ ÁP DỤNG
NGHỊ QUYẾT 03/2020-HĐTP TRONG XÉT XỬ TỘI PHẠM THAM NHŨNG VÀ TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG VỤ ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2021/HS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2021 của Tòa án Quân sự Quân khu 9.
Về tội: “Nhận hối lộ” Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 18/6/2012, F4 ký hợp đồng giám sát với Công ty Cổ phần tư vấn xây dựng KG với nội dung giám sát công trình xây dựng công trình doanh trại F4 và đến ngày 30/6/2015 hai bên tiếp tục ký hợp đồng giám sát với nội dung là giám sát thi công xây dựng công trình doanh trại D4, E10, F4. Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng KG đã ra quyết định phân công cán bộ gồm: Chung Quốc T, Nguyễn Văn T4 và Nguyễn Thế H1 giám sát hai công trình trên, trong đó Chung Quốc T là người giám sát trực tiếp tại công trình. Trong quá trình giám sát, Chung Quốc T thấy đơn vị thi công không thực hiện đúng theo dự toán thiết kế nên đã nói với Tạ Thanh H là những nội dung không thi công sẽ không được ký xác nhận quyết toán với chủ đầu tư. Nên H đã báo với Nguyễn Văn A, A chỉ đạo H là trực tiếp gặp để trao đổi và nhờ T bỏ qua, sau đó sẽ gửi chi phí (hối lộ) cho T và T đồng ý. Theo sự chỉ đạo của Nguyễn Văn A, H đã 07 lần chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của Chung Quốc T và Dương Hồng L1, là vợ của T với tổng số tiền là 100.000.000 đồng. Tòa án Quân sự Quân khu 9 nhận định: Tại phiên Tòa, bị cáo Chung Quốc T khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp như nội dung bản Cáo trạng và lơi khai của những người làm chứng, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa. Hành vi của bị cáo Chung Quốc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Nhận hối lộ”. Hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 4 năm 2016 nhưng đến năm 2020 mới bị phát hiện. Do đó, để đảm bảo có lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, áp dụng Điều 354 BLHS năm 2015 đối với bị cáo. Bị cáo Chung Quốc T đã có 07 lần nhận của Nguyễn Văn A mà mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm và tổng số tiền nhận hối lộ là 100.000.000 đồng. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn một số quy định của Bộ luật hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ thì hành vi của bị cáo đã phạm vào các điểm c, đ khoản 2 Điều 354 BLHS với tình tiết là: “Tiền nhận hối lộ có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” và “Phạm tội 02 lần trở lên”. Tòa án Quân sự Quân khu 9 xét xử sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Chung Quốc T phạm tội “Nhận hối lộ”. Áp dụng các điểm c, đ khoản 2 Điều 354; các điểm s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 54 BLHS; xử phạt bị cáo Chung Quốc T 04 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam. Áp dụng Điều 41, khoản 5 Điều 354 BLHS, cấm bị cáo Chung Quốc T hành nghề giám sát công trình trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù. |
1 – 9 |
2 |
Bản án hình sự phúc thẩm số 109/2021/HS-PT ngày 02 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Về tội: “Tham ô tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 25 tháng 9 năm 2009 Nguyễn Thị Thanh T nhận công tác tại Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện GĐ với nhiệm vụ nhân viên Thủ quỹ-Văn Thư. Tháng 12/2011, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện GD truy thu tiền bảo hiểm thất nghiệp 01% trên địa bàn huyện GD. Bà Trần Thị Kim P được điều động đến hỗ trợ ông Phạm Đức V là người phụ trách kế toán của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện GĐ, tỉnh Tây Ninh. Bà P được phân công nhiệm lập bảng tổng hợp số tiền bảo hiểm thất nghiệp 01% của giáo viên 47 trường học phải nộp là 349.354.585 đồng và giao lại bảng tổng hợp cho bị cáo T thu tiền. Khi thủ quỹ của 47 trường học nhận tiền lương tháng 12/2011 của giáo viên và đóng số tiền bảo hiểm thất nghiệp 01% năm 2011 thì bị cáo T không làm phiếu thu mà lấy bảng tổng hợp của bà P đưa cho thủ quỹ của 47 trường ký xác nhận vào cột “ký nhận” sau khi thu xong bị cáo T không báo cáo cho lãnh đạo, Kế toán của Phòng Giáo dục và Đào tạo để lên phiếu chi và thực hiện các thủ tục tiếp theo và không đem nộp số tiền trên cho Bảo hiểm xã hội huyện GD, tỉnh Tây Ninh. Quá trình điều tra, ngày 02/11/2018 bị cáo Nguyễn Thị Thanh T đã có đơn xin khắc phục hậu quả và nộp số tiền 349.355.000 đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T phạm tội “Tham ô tài sản”. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 59 của BLHS; căn cứ Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP miễn hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh T. Bản án sơ thẩm bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh kháng nghị. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy: Tại bản kết luận điều tra, Cáo trạng xác định bị cáo T chiếm đoạt số tiền 349.354.585 đồng nhưng thực tế cộng các bảng tổng hợp thuộc đối tượng 1 (có 6 bảng tổng hợp) do bị cáo T thu với số tiền 347.571.936 đồng, phù hợp với báo cáo giải trình của T, còn lại số tiền 1.712.288 đồng là truy thu của giáo viên thuộc đối tượng thứ hai, không thuộc trường hợp của bị cáo T thu. Trong khi tại biên bản xác nhận số liệu bảo hiểm thất nghiệp giữa Phòng Giáo dục huyện GD và Bảo hiểm xã hội huyện GD là số tiền 350.720.143 đồng. Như vậy, cấp sơ thẩm chưa làm rõ được số tiền truy tố, xét xử bị cáo T. Chưa làm rõ ai là người trực tiếp thu số tiền bảo hiểm thất nghiệp 1% đối với giáo viên đã chuyển công tác ra ngoài huyện và giáo viên về hưu để đánh giá chính xác, khách quan vụ án. Bị cáo không có điều kiện để áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt. Không đủ các điều kiện quy định tại điểm a, b, c, d khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Để đảm bảo chứng cứ vững chắc khi xét xử vụ án, xét thấy cần thiết phải giám định tài chính. Do đó, cấp sơ thẩm điều tra chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định: Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HSST ngày 30/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện GD, tỉnh Tây Ninh. Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện GD, tỉnh Tây Ninh để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung. |
10 – 16 |
3 |
Bản án hình sự phúc thẩm số 13/2021/HS-PT ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
Về tội: “Tham ô tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án: Năm 2016 Đinh Thị L được giao nhiệm vụ thủ kho vật tư hành chính văn phòng phẩm của Công ty Cổ phần Xi măng T. Ngày 11/3/2020, Công ty T có đơn đặt hàng mua của Công ty P 60 hộp mực máy phô tô loại MP3055 với giá 1.620.000 đồng/01 hộp; ngày 13/3/2020 tiếp tục đặt mua 30 hộp mực máy phô tô Fuji V4070 với giá 1.680.000 đồng/01 hộp. Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên Đinh Thị L nảy sinh ý định chiếm đoạt một số hộp mực trong đơn đặt hàng để hưởng lợi. Sau khi có đơn đặt hàng của Công ty T, trong quá trình trao đổi thỏa thuận với P qua điện thoại, L nói với P “cho chị gửi lại 20 hộp, có gì nói chuyện sau”. Hiểu ý L bảo P bớt lại 20 hộp mực khi giao hàng, xong trong phiếu giao hành vẫn ghi đủ số lượng như trong đơn đặt hàng, do nể L là người đại diện của khách hàng nên P đồng ý. Ngày 19/3/2020, Công ty T&D chuyển 30 hộp mực máy phô tô loại Fuji V4070 cho P. Sau khi nhận được hàng, P đóng 20 hộp mực máy phô tô loại Fuji V4070 có dán tem của Công ty T&D vào trong một thùng catton dán kín, còn lại 10 hộp mực P bớt lại cất giấu trong kho của Công ty P. Sau đó P thuê xe ô tô tải vận chuyển số mực này đến Công ty T. Tại kho vật tư hành chính tầng 2 khu văn phòng Công ty T, do đã bàn bạc với P từ trước, biết trong thùng catton không đủ số lượng hộp mực như trong phiếu giao hàng. Sau đó, L lập biên bản giao nhận, nghiệm thu hàng hóa với số lượng 30 hộp mực loại Fuji V4070 đủ theo phiếu giao hàng của Công ty P với nhân viên kỹ thuật của Công ty T. 10 hộp mực bớt lại, theo P khai bán cho một số người, P không nhớ tên tuổi địa chỉ. Ngày 30/3/2020, Công ty T&D tiếp tục chuyển cho P 50 hộp mực loại MP3055 có dán tem của Công ty T&D. Sau khi nhận được hàng, P để lại 05 hộp mực ra cất giấu trong kho của Công ty P, còn lại 45 hộp mực P đóng gói giao cho Công ty T. Cũng như những thủ đoạn trước do đã thỏa thuận trước, biết P đã rút bớt số hộp mực loại MP3055 ra, xong L vẫn ký xác nhận vào 02 phiếu giao hàng rồi đưa lại cho P 01 phiếu để sau này thanh toán với Công ty T. Khoảng 8 giờ 45 phút ngày 11/5/2020, Công ty T tiến hành kiểm tra vật tư kho văn phòng hành chính và kho nhà 8 tầng, phát hiện 10 hộp mực V4070 và 10 hộp mực loại MP3055 không đúng với thông số kỹ thuật khi đặt hàng và số lượng nhập, xuất kho, hàng tồn không phù hợp, nên Công ty T đã trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Căn cứ vào khoản 1 Điều 353, các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 54, Điều 65, Điều 47 của BLHS; Tuyên bố các bị cáo Đinh Thị L và Trịnh Thế P phạm tội “Tham ô tài sản”. Xử phạt bị cáo Đinh Thị L 21 tháng tù, cho hưởng án treo. Xử phạt bị cáo Trịnh Thế P 18 tháng tù, cho hưởng án treo. Bản án sơ thẩm bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam kháng nghị về việc thay đổi tội danh thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm xác định. Điều 2 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ quy định: “1. Cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 352 của BLHS bao gồm cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.” Căn cứ khoản 6 Điều 353 BLHS, Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng và Điều 2 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 thì hành vi nêu trên của các bị cáo Đinh Thị L và Trịnh Thế P đã phạm vào tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 353 BLHS. Toà án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS. Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Hà Nam; giữ nguyên phần quyết định về tội danh của Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Nam. Áp dụng khoản 1 Điều 353, Điều 136 BLHS. Tuyên bố các bị cáo Đinh Thị L và Trịnh Thế P phạm tội “Tham ô tài sản” |
17 – 26 |
4 |
Bản án hình sự phúc thẩm số 223/2021/HS-PT ngày 22 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Về tội: “Tham ô tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 01/7/2018, Trung tâm Kinh doanh VNPT thành phố Hồ Chí Minh có ký hợp đồng thu cước dịch vụ viễn thông tại địa chỉ khách hàng 453/HĐ-TTKD-NVC, Phụ lục 1 thù lao thu cước với Lê Trọng H. Từ ngày 01/9/2018 đến ngày 01/11/2018, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu cước điện thoại, internet của khách hàng, sau khi thu được cước phí bằng tiền mặt và tiến hành thao tác gạch nợ trên máy Pos để in biên nhận đã thanh toán cho khách hàng, H nhiều lần thực hiện hủy trên hệ thống máy Pos nhưng không hủy trên hệ thống thu cước của VNPT và không nộp biên nhận thanh toán đã hủy về cho nhân viên quản lý để Ngân hàng BIDV không khấu trừ số tiền trong tài khoản ký quỹ của H về cho Trung tâm Kinh doanh VNPT thành phố Hồ Chí Minh, với mục đích trong tài khoản ký quỹ còn tiền để H tiếp tục thu tiền cước của khách hàng khác. Số tiền mặt thu được của khách hàng, H giữ lại 01 phần, còn lại H nộp vào tài khoản ngân hàng của H, để H có thể rút tiền mặt ra được. Với thủ đọan và cách thức trên, H đã thu cước phí internet, điện thoại của 46 khách hàng, tổng số tiền 124.776.009 đồng nhưng không giao nộp cho Trung tâm Kinh doanh VNPT thành phố Hồ Chí Minh mà chiếm đoạt cho mục đích cá nhân. Quá trình điều tra. Tại Bản kết luận giám định pháp y về sức khỏe số 24/SK.20 ngày 28/7/2020 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh đối với Trần Lê Trọng H, xác định: “Hiện tỷ lệ tổn thương về cơ thể do bệnh là 95%” Bị cáo Trần Lê Trọng H đã tự nguyện hoàn trả toàn bộ 124.776.009 đồng cho Trung tâm Kinh doanh VNPT thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Lê Trọng H phạm tội “Tham ô tài sản”. Xử bị cáo 04 (bốn) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Ngày 22/02/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 14/QĐ-VKS với nội dung: Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng áp dụng thêm điểm g khoản 1 Điều 51, Điều 59 của BLHS; điểm d khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/1/2020 để xét miễn hình phạt đối với bị cáo Trần Lê Trọng H. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Xét nội dung kháng nghị: Bị cáo lợi dụng việc được giao nhiệm vụ thu cước điện thoại, chiếm đoạt của 46 khách hàng số tiền 124.776.009 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H về tội “Tham ô tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan, sai. Hoàn cảnh bị cáo tại thời điểm phạm tội muốn có tiền chữa bệnh ung thư nên quẫn bách chiếm đoạt tiền của Trung tâm Kinh doanh VNPT thành phố Hồ Chí Minh. Đối với nội dung kháng nghị cho rằng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình gây ra” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 51 của BLHS là thiếu sót, Hội đồng xét xử xét thấy: Như đã phân tích trên, hành vi của bị cáo phạm tội do cần tiền để chữa bệnh ung thư, không phải do thiên tai, địch họa, dịch bệnh… nên cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo là có cơ sở. Mặt khác đối với tội tham ô tài sản cần phải xử lý nghiêm để răn đe, phòng ngừa tội phạm. Không có cơ sở để chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc áp dụng Điều 59 BLHS và điểm d khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 để cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 BLHS. Tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, hoàn cảnh đặc biệt nên cần giảm một phần hình phạt và do bị cáo được hưởng án treo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận Quyết định Kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án hình sự sơ thẩm: Xử phạt bị cáo Trần Lê Trọng H 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Tham ô tài sản” |
27 – 33 |
5 |
Bản án hình sự phúc thẩm số: 12/2022/HS-PT ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
Về tội: “Tham ô tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án Sau khi Ủy ban nhân dân xã được cấp kinh phí, các bị cáo Lò Văn Th, Sùng A Páo nguyên là Kế toán UBND xã Tủa Thàng, bị can Sùng A Dì nguyên là Thủ quỹ của UBND xã Tủa Thàng, huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên phải thực hiện chi trả số tiền nêu trên cho các hộ được thụ hưởng và các tổ chức của xã, cán bộ công chức của xã được truy lĩnh lương nhưng khi thực hiện rút tiền tại kho bạc, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tủa Chùa, Kế toán, Thủ quỹ xã đã không thực hiện chi trả đầy đủ số tiền cho người thụ hưởng; ông Mùa A H nguyên là Chủ tịch UBND xã Tủa Thàng đã lơi lỏng trong quản lý nguồn kinh phí được cấp nên kế toán và thủ quỹ xã đã có hành vi chiếm đoạt số tiền đó để chi dùng cá nhân và cho các cá nhân khác vay mượn nhưng không đòi lại, gây thất thoát nhiều khoản tiền cho UBND xã quản lý. Tổng số tiền điện hỗ trợ hộ nghèo và hộ chính sách từ năm 2014 đến năm 2017 Sùng A Dì đã chiếm đoạt để chi tiêu cá nhân là 90.854.996 đồng; Tổng số tiền điện hỗ trợ hộ nghèo, hộ chính sách Sùng A Dì đã làm thất thoát là 141.147.000 đồng. Tổng cộng Th đã chiếm đoạt của UBND xã Tủa Thàng 237.914.000 đồng. Đối với bị cáo Mùa A H do không thường xuyên kiểm tra, quản lý quá trình rút và chi các khoản tiền điện năm 2014, 2015, 2016, 2017; tiền diễn tập phòng thủ, tiền truy lĩnh của cán bộ xã, tiền hỗ trợ các chi bộ,… dẫn đến Lò Văn Th, Sùng A Páo, Sùng A Dì đã lợi dụng để chiếm đoạt và làm thất thoát các khoản tiền trên gây thiệt hại cho UBND xã Tủa Thàng tổng số tiền 551.540.996 đồng. Trong quá trình trình thanh tra và điều tra, truy tố, bị cáo Lò Văn Th đã nộp 286.993.000 đồng; Sùng A Páo đã nộp trả 107.625.000 đồng; Sùng A Dì nộp trả 37.000.000 đồng số tiền chiếm đoạt; Mùa A H tự nguyện nộp 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Th và bị cáo Sùng A Páo phạm tội “Tham ô tài sản”. Bị cáo Mùa A H phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Lò Văn Th 05 năm tù; bị cáo Sùng A Páo 1 năm 2 tháng 20 ngày tù; bị cáo Mùa A H 2 năm tù. Mùa A H và Lò Văn Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Bị cáo Lò Văn T đã chủ động tích cực giúp Cơ quan cảnh sát điều tra trong việc tìm kiếm, giao nộp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ kế toán, khai báo những người liên quan giúp xác định chính xác số tiền bị cáo đã chiếm đoạt và những người khác có liên quan để kịp thời kết thúc điều tra vụ án. Xét thấy cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS để đảm bảo tính khách quan, toàn diện. Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Th theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS, Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ. Người bào chữa cho bị cáo Mùa A H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét số tiền Sùng A Dì chi cho công chức ứng để chi cho các hoạt động của xã thì không được tính vào tổng số tiền thất thoát, xem xét áp dụng các quy định tại Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP và thực tế bị cáo phạm tội trong thời gian thường xuyên phải đi viện điều trị bệnh. Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lò Văn Th, Mùa A H, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm. Tuyên bị cáo Lò Văn Th phạm tội “Tham ô tài sản” xử phạt 04 năm tù. Tuyên bị cáo Mùa A H phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xử phạt 18 tháng tù. |
34 – 49 |
6 |
Bản án hình sự phúc thẩm số 78/2021/HS-PT ngày 17 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Về tội: “Tham ô tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án Công ty W ký hợp đồng mua ngô hạt của Công ty C có trụ sở tại Singapore. Công ty W ký hợp đồng vận chuyển với Công ty P. Phạm Thị O X là thủ kho nguyên liệu của Công ty W. X đã nảy sinh ý định cấu kết với lái xe và bảo vệ nhập khống trọng lượng hàng trên phiếu cân, chiếm đoạt hàng trên xe. Đầu tháng 7/2019, X gọi cho L bàn bạc với L về việc kết nối với lái xe chở hàng vào công ty và chiếm đoạt hàng trên xe mang bán lấy tiền chia nhau. L đồng ý. L gọi điện thoại cho H, bảo H nếu chở hàng vào công ty W thì L sẽ hướng dẫn H để H cùng với X và L chiếm đoạt hàng trên xe mang ra ngoài bán. H đồng ý. Ngày 25/7/2019 Công ty W sẽ nhập kho nguyên liệu hàng ngô (hàng rời). X gọi điện báo cho L, L gọi điện báo cho H, H gọi điện báo cho T. Sau khi nhận hàng H gọi điện báo cho L, L hướng dẫn H dừng xe ở ngoài công ty rồi đi bộ vào công ty làm thủ tục trả hàng. Khoảng 16 giờ X ra phòng bảo vệ của công ty gặp Nguyễn Đình C, X trao đổi với C không cân trọng tải của xe mà chỉ ghi vào sổ cân trọng lượng hàng trên xe vào máy tính của kho thì X sẽ chia cho C 30 triệu đồng, C đồng ý. Sau đó X nhắn tin cho L, L hiểu là X đã nhập khống hàng trên xe thành công nên đã chuyển tiếp tin nhắn cho H, H chuyển cho T. Sau đó, L gọi điện thoại cho H bàn bạc về việc mang ngô trên xe đi bán. H bán 32,56 tấn ngô với số tiền 172.600.000 đồng. X nhận số tiền 74.000.000 đồng, H nhận số tiền 30.000.000 đồng, L được hưởng 68.600.000 đồng. Sau khi nhận tiền, H giữ lại 10.000.000 đồng, đưa cho T 20.000.000 đồng, còn X đưa tiền cho C như thỏa thuận. Số tiền trên các bị cáo đã chi tiêu hết. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Xử phạt X 07 năm 05 tháng tù; L 05 năm 06 tháng tù; C 05 năm 4 tháng tù, H 05 năm 06 tháng tù, T 05 năm tù đều về tội tham ô tài sản. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 146.864.000 đồng (theo Kết luận định giá của cơ quan chức năng). Do vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tham ô tài sản, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 353 BLHS. Như vậy, cấp sơ thẩm đã xét xử X và các bị cáo khác về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nên kháng cáo kêu oan của bị cáo X và kháng cáo xem xét lại tội danh của bị cáo L là không có căn cứ chấp nhận. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo T thấy rằng: Bị cáo T tiếp nhận ý chí khi được H trao đổi về việc chiếm đoạt tài sản của W, bị cáo T không tham gia bàn bạc, không trực tiếp tham gia thực hiện tội phạm nhưng đồng ý dùng xe do mình quản lý để cho H đi chở hàng, là đồng phạm với vai trò giúp sức. Tại bản án sơ thẩm đánh giá T giữ vai trò sau cùng trong vụ án là chính xác. Xét bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi hành vi phạm tội của các bị cáo bị Công ty phát hiện, T đã tích cực đứng ra cùng các bị cáo khác bồi thường, khắc phục hậu quả theo yêu cầu của Công ty; bị hại có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo T giữ vai trò đồng phạm giúp sức, thứ yếu, vai trò không đáng kể trong vụ án, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt nên cần áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS, Điều 5 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, giảm một phần hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định: Tuyên bố: Các bị cáo X, L, T phạm tội Tham ô tài sản. Xử phạt: bị cáo X 07 năm 05 tháng tù; bị cáo L 05 năm 6 tháng tù; bị cáo T 36 tháng tù, cho hưởng án treo. |
50 – 62 |
LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 18 BẢN ÁN CỦA TÒA ÁN CÓ ÁP DỤNG NGHỊ QUYẾT 03/2020-HĐTP TRONG XÉT XỬ TỘI PHẠM THAM NHŨNG VÀ TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn