FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 16 bản án toà án nhận định liên quan đến việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng hình thức phong tỏa tài sản” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT | BẢN ÁN | TRANG |
1. |
Bản án số 103/2023/DS-PT ngày 30/5/2023 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng Tóm tắt nội dung: Vợ chồng ông VH và chị NY bà là chủ sử dụng diện tích 2.322,1m2 đất trồng cây lâu năm thuộc thửa đất số 173, tờ bản đồ số 76 toạ lạc tại thị trấn LT, huyện X theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CV 091712 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 19/03/2020. Ngày 10/4/2020 vợ chồng ông, bà thế chấp toàn bộ tài sản trên để vay vốn tại Ngân hàng QĐ – Chi nhánh thành phố Y với số tiền 500.000.000đ, đồng thời do làm ăn thua lỗ nên có vay của ông TL số tiền 840.000.000đ. Do đó, vợ chồng ông, bà đồng ý trả nợ cho ông TL bằng cách sang tên toàn bộ thửa đất trên với giá 1.340.000.000đ để cấn trừ nợ và ông TL phải trả nợ thay số tiền nợ của Ngân hàng của vợ chồng ông, bà. Sau khi ông TL trả nợ cho Ngân hàng xong thì lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về, ngày 28/5/2020 hai bên đã đến Văn phòng công chứng TTT lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Sau đó hồ sơ không sang tên được vì bị Tòa án nhân dân huyện X áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vì vậy, vợ chồng ông, bà khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất nói trên và đồng ý trả lại cho ông TL số tiền 1.340.000.000đ Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Nguyễn Bạch VH, bà Trần Thị NY đối với ông Hoàng TL về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. – Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hoàng TL về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 28/5/2020. Toà án phúc thẩm nhận định: – Nguyên đơn cho rằng do có nợ của ông TL số tiền 840.000.000đ, vì vậy đồng ý cấn trừ nợ bằng quyền sử dụng đất thuộc thửa số 173, tờ bản đồ số 76 và do còn nợ tại Ngân hàng nên đồng ý để ông TL trả nợ và rút Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp để sau đó làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định. Tuy nhiên, quá trình thực hiện việc sang tên thì tài sản bị Tòa án nhân dân huyện X ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 25/2020/QĐ- BPKCTT ngày 05/6/2020 về việc “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” quy định tại Điều 126 Bộ luật Tố tụng Dân sự. – Bị đơn cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được chứng nhận theo đúng quy định, hai bên đã thanh toán đủ tiền và đã bàn giao đất nên việc chuyển nhượng đã hoàn thành là không đúng quy định của pháp luật nên không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. – Qua xem xét thì thấy rằng, khi giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của vợ chồng ông ĐN, bà TH thì Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định giá trị tài sản bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (các thửa đất 960 và 173) để xác định các tài sản bị yêu cầu phong tỏa có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện hay không? Đồng thời, việc xác định biện pháp bảo đảm để buộc người yêu cầu thực hiện cũng chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật. Sau khi có Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì cũng không làm rõ tại sao vợ chồng ông VH, bà NY cũng không có khiếu nại, thắc mắc gì? Điều này là mâu thuẫn khi tài sản nói trên đã được ông VH chuyển nhượng cho ông TL, bên chuyển nhượng đã nhận đủ tiền đã thỏa thuận trước đó. Cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm; giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật. Do hủy án nên chưa xét đến kháng cáo của ông Hoàng TL. Toà án phúc thẩm tuyên: – Hủy toàn bộ Bản án Dân sự sơ thẩm số 33/2022/DS-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện X, tỉnh Lâm Đồng về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa vợ chồng ông Nguyễn Bạch VH, bà Trần Thị NY với ông Hoàng TL |
01 – 08 |
2. | Bản án số 202/2023/DS-PT ngày 25/09/2023 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
Tóm tắt nội dung: Vào ngày 20/9/2018 nguyên đơn là bà Đào Thị Kim L có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất với bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Bích P đối với nhà, đất tại số E8 – 21 khu quy hoạch lấn biển (nay là số 130 đường T), khu phố 5, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Theo hợp đồng thỏa thuận với giá chuyển nhượng là 2.200.000.000 đồng nhưng giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là 800.000.000 đồng, giá hợp đồng ghi thấp hơn giá thực tế nhằm mục đích giảm nộp các khoản chi phí chuyển nhượng. Khoảng tháng 01 năm 2019 bà L được Tòa án nhân dân thành phố R mời đến thông báo về việc ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 04/01/2019 phong tỏa tài sản mà bà L nhận chuyển nhượng từ ông T, bà P dẫn đến việc bà L không thể làm thủ tục biến động sang tên. Sau đó, các bên tiến hành thủ tục chuyển nhượng theo quy định pháp luật tại Phòng công chứng A. Cho nên, bà L là người chủ sở hữu hợp pháp đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại Lô E8 – 21 khu quy hoạch lấn biển, khu phố 5, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Ông T, bà P đã giao nhà, giấy tờ nhà đất cho bà L, căn nhà này đã được bà L sửa chữa và đang quản lý, giữ gìn trông coi quét dọn thường xuyên để bảo quản tài sản chờ phán quyết của Tòa án. Do đó, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bà L được pháp luật bảo vệ và thừa nhận, bà L làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất, diện tích 124,9m2 tại thửa số E8 Lô 21 đường T, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang (hiện nay là 130 T, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang) ngày 20/9/2018 giữa bà Đào Thị Kim L với ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Bích P. Đồng thời, yêu cầu hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2019/QĐ-BPKCTT ngày 04/01/2019 phong tỏa tài sản đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại Lô E8 – 21 khu quy hoạch lấn biển, khu phố 5, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Tòa án sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn- bà Đào Thị Kim L về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” với bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Bích P. – Bác khởi kiện yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Hủy bỏ Quyết định khẩn cấp tạm thời số 01/2019/QĐ-BPKCTT ngày 04/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố R phong tỏa tài sản của ông T, bà P đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại Lô E8 – 21 khu quy hoạch lấn biển (nay là số 130 đường T), khu phố 5, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang của Tòa án nhân dân thành phố R. Toà án phúc thẩm nhận định: – Kháng cáo của ông M yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất ngày 20/9/2018 giữa bà Đào Thị Kim L với ông Nguyễn Văn T, bà nguyễn Thị Bích P là không có căn cứ. – Đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2019/QĐ- BPKCTT ngày 04/01/2019 do căn cứ của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của ông T, bà P do tài sản hiện nay thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bà L là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật. Toà án phúc thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đào Thị Kim L về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” với bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Bích P. – Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 20/9/2018 giữa bà Đào Thị Kim L với ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Bích P đối với nhà đất tọa lạc tại số E8 – 21 khu quy hoạch lấn biển (nay là số 130 đường T), khu phố 5, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. – Bác yêu cầu khởi kiện độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh M về việc “Yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Bích P với bà Đào Kim L. – Hủy bỏ Quyết định khẩn cấp tạm thời số 01/2019/QĐ-BPKCTT ngày 04/01/2019 phong tỏa tài sản của ông T, bà P đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tọa lạc tại Lô E8 – 21 khu quy hoạch lấn biển (nay là số 130 đường T), khu phố 5, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang. |
09 – 18 |
3. | Bản án số 21/2021/DS-PT ngày 04/03/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng góp hụi – Tranh chấp yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
Tóm tắt nội dung: Do có quan hệ làm ăn, tin tưởng nhau nên nguyên đơn là bà Đinh Thị Kim T, bà Mai Thị Thúy P có cho vợ chồng ông Lê Văn N2, bà Nguyễn Thị Phương D vay tiền, cụ thể như sau: – Ông Lê Văn N2, bà Nguyễn Thị Phương D nợ bà Đinh Thị Kim T số tiền vay gốc là 1.000.000.000 đồng, lãi tạm tính từ ngày 29/9/2018 đến khi xét xử sơ thẩm là 67.500.000 đồng, nợ hụi là 400.000.000 đồng. Tổng cộng là 1.467.500.000 đồng. – Ông Lê Văn N2, bà Nguyễn Thị Phương D nợ bà Mai Thị Thúy P số tiền vay gốc là 1.400.000.000 đồng, lãi tạm tính từ 03/3/2019 đến khi xét xử sơ thẩm là 15.750.000 đồng, tiền nợ hụi là 100.000.000 đồng. Tổng cộng là 1.515.750.000 đồng. Bà T và bà P đã nhiều lần yêu cầu ông N2, bà D trả nợ, nhưng ông N2 và bà D chỉ hứa hẹn, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó, các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Văn N2 và bà Nguyễn Thị Phương D có nghĩa vụ liên đới như sau: – Trả cho bà Đinh Thị Kim T số tiền vay gốc là 1.000.000.000 đồng, lãi tính từ ngày 29/9/2018 cho đến ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất quy định là 20%/năm và tiền nợ hụi là 400.000.000 đồng. – Trả cho bà Mai Thị Thúy P số tiền vay gốc là 1.400.000.000 đồng, lãi tính từ ngày 03/3/2019 cho đến ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất quy định là 20%/năm và tiền nợ hụi là 100.000.000 đồng. – Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2019/QĐ-BPKCTT, ngày 17/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố LX, tỉnh An Giang để đảm bảo thi hành án. Tòa án sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị Kim T, bà Mai Thị Thúy P đối với ông Lê Văn N2, bà Nguyễn Thị Phương D yêu cầu trả tiền vay và tiền nợ hụi – Không chấp nhận đối với yêu cầu tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2019/QĐ-BPKCTT ngày 17/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố LX. – Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Hồ Văn Tiền G, bà Tống Thị D3, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 212, quyển số 01.TP/CC-SCC/HĐGD ngày 11/4/2019 giữa ông Lê Văn N2, bà Nguyễn Thị Phương D với ông Hồ Văn Tiền G, bà Tống Thị D3 có hiệu lực. – Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ – Hủy bỏ Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 04/2019/QĐ- BPBĐ ngày 17/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố LX. Toà án phúc thẩm nhận định: Về nội dung kháng cáo, kháng nghị: các bà: Đinh Thị Kim T và Mai Thị Thúy P kháng cáo; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố LX kháng nghị có cùng nội dung yêu cầu tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 04/2019/QĐ-BPKCTT, ngày 17/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố LX. Ngày 18/6/2019, ông G, bà D3 đã thực hiện xong việc chuyển tên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của 03 thửa đất số: 267, 292, 295, tờ bản đồ số 13. Qua đó cho thấy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông N2, bà D và ông G, bà D3 diễn ra trước khi bà T và bà P khởi kiện và yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, khi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (trong đó có thửa đất số 345) ngày 11/4/2019 giữa ông N2, bà D và ông G, bà D3 được công nhận thì căn cứ của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn, nên phải được hủy bỏ theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 138 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Bản án sơ thẩm hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 04/2019/QĐ-BPKCTT, ngày 17/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố LX, tỉnh An Giang là có căn cứ pháp luật. Toà án phúc thẩm tuyên: – Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 53/QĐKNPT-VKS-DS, ngày 14/10/2020 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố LX, tỉnh An Giang; – Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của Đinh Thị Kim T và Mai Thị Thúy P; – Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 106/2020/DS-ST, ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố LX |
19 – 35 |
4. |
Bản án số 110/2020/ DS-PT ngày 26/10/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản; Yêu cầu công nhận hợp đồng của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang Tóm tắt nội dung: Do mối quan hệ hàng xóm nên anh đã cho anh Lương Ngọc T vay tiền hai lần, cụ thể: Ngày 25/01/2019, anh T vay số tiền vay 700.000.000 đồng (bẩy trăm triệu đồng) và hẹn đến ngày 25/02/2019 thì trả, nên anh đã đồng ý cho vay. Ngày 03/2/2019, anh T lại sang nói cần vay 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) để kinh doanh thêm và hẹn ngày 03/3/2019 sẽ trả, nên anh đồng ý cho vay. Anh đã giao tiền cho anh T đầy đủ, anh T viết giấy nhận nợ. Về tiền lãi, hai bên thỏa thuận tính mức lãi bằng 1.500 đồng/01 triệu/01 ngày và trả cùng với khi thanh toán tiền vay gốc, nhưng không ghi trong giấy vay. Hết thời hạn thanh toán, anh đã đòi nhiều lần, song anh T không trả. Nay anh xác định, anh T vay để làm ăn, phát triển kinh tế gia đình,chị L là vợ anh T có biết khoản vay trên. Do đó anh yêu cầu anh T, chị L phải liên đới chịu trách nhiệm trả anh số tiền vay gốc là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) và tiền lãi tính theo mức 2%/tháng kể từ ngày vay cho đến ngày thực hiện xong nghĩa vụ và yêu cầu Tòa án tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản” là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền đất tại thửa đất số 81, tờ bản đồ số 27, diện tích 54,6m2 cùng ngôi nhà xây trên đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của vợ chồng anh Lương Ngọc T, chị Vũ Thị L để đảm bảo thi hành án. Tòa án sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Văn B về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Văn Tr về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền đất được ký kết giữa anh T, chị L với anh Tr, chị L ngày 12/3/2019 có hiệu lực pháp luật và không chấp nhận yêu cầu tuyên hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 03/2019/QD-BPKCTT ngày 14/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện L. – Tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với thửa đất số 81, tờ bản đồ số 27, diện tích 54,6m2 cùng tài sản trên đất tại Thôn S, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang thuộc quyền sở hữu, sử dụng của anh Lương Ngọc T, chị Vũ Thị L theo quyết định số 03/2019/QĐ- BPKCTT ngày 14/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện L để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án. Toà án phúc thẩm nhận định: Anh Nguyễn Công B, chị Phạm Thị Th khai đã cho anh Lương Văn Tuyến, chị Vũ Thị L vay 700.000.000 đồng ngày 25/01/2019, thời hạn thanh toán ngày 25/02/2019 và cho vay 300.000.000 đồng ngày 03/2/2019, thời hạn thanh toán ngày 03/3/2019. Tổng cộng là 1.000.000.000 đồng. Anh T là người nhận tiền, viết giấy nhận nợ và nói rõ vay để kinh doanh phát triển kinh tế gia đình, chị L có biết. Do anh T, chị L chưa trả nợ gốc và lãi nên yêu cầu anh T, chị L cùng có trách nhiệm thanh toán trả cho vợ chồng anh, chị số tiền gốc trên và tiền lãi theo mức 15%/năm kể từ ngày vay đến ngày thanh toán xong. Anh B xuất trình hai giấy biên nhận vay nợ gốc do anh T viết và ký nhận người vay. Tổng số tiền gốc và lãi anh T, chị L phải thanh toán trả anh B, chị Th là 1.159.958.300 đồng. Những lý do căn cứ đề nghị hủy án sơ thẩm, HĐXX thấy không có căn cứ chấp nhận bởi lẽ tại cấp sơ thẩm đã giải thích về quyền yêu cầu giải quyết hậu quả Hợp đồng vô hiệu nhưng anh Tr chị L không yêu cầu do vậy án sơ thẩm không giải quyết là đúng. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cần thiết để đảm bảo cho việc thi hành án, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh Tr cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Toà án phúc thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Văn B về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Văn Tr và không chấp nhận yêu cầu tuyên hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 03/2019/QD-BPKCTT ngày 14/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện L. – Tiếp tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với thửa đất số 81, tờ bản đồ số 27, diện tích 54,6m2 cùng tài sản trên đất tại Thôn S, xã T (nay là tổ dân phố S, thị trấn K), huyện L, tỉnh Bắc Giang thuộc quyền sở hữu, sử dụng của anh Lương Ngọc T, chị Vũ Thị L theo quyết định số 03/2019/QĐ-BPKCTT ngày 14/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện L để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án. |
36 – 45 |
……………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn