FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 15 bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
STT |
NỘI DUNG BẢN ÁN |
Trang |
1 | Bản án số: 58/2017/DS–ST ngày 14/12/2017 của tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai
V/v: “Tranh chấp về hợp đồng gửi giữ tài sản” Tóm tắt nội dung vụ vệc: Ngày 01/01/2013, bà Hoàng Thị H có gửi cho bà Kiều Thị Đ và anh Lê Hoàng V (Chủ Cơ sở xay xát Hoàng V) số lượng lượng cà phê là 2000 kg (2 tấn) cà phê rô nhân xô để khi nào cần tiền thì sẽ đến cắt giá bán cho Cơ sở xay xát Hoàng V và lấy tiền. Từ đó đến nay, bà Hoàng Thị H đã nhiều lần yêu cầu bà Đvà anh V cắt giá để bán số lượng cà phê trên để lấy tiền nhưng bà Kiều Thị Đ và anh Lê Hoàng V không chịu cắt giá và cũng không trả lại số lượng cà phê mà bà Hoàng Thị H đã gửi. Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Kiều Thị Đ và anh Lê Hoàng V phải trả cho bà H số lượng cà phê rô nhân xô là 2000kg nhưng trả bằng tiền theo giá thị trường tại thời điểm xét xử và trừ đi số tiền 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) mà bà H đã ứng của bà Đ trước đây, số tiền còn lại yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Đ và anh V phả trả cho bà H. Tòa án sơ thẩm nhận định: Xét yêu cầu của bà Đ về việc đề nghị Tòa án nhân dân thành phố P thu thập lời khai của ông A và ông V thì thấy rằng: ông A và ông V là nhừng người đi cùng ông T đến nhà bà Đ để nhận tiền thay cho bà H, bà Đ đã đưa tiền trực tiếp cho ông T thì ông V và ông A đều nhìn thấy, tuy nhiên bà Đ không cung cấp được địa chỉ của ông T. Do vậy, yêu cầu của bà Đ là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận và tiếp tục đưa vụ án ra xét xử. Xét yêu cầu của nguyên đơn thì nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số lượng cà phê rô nhân xô là 2000kg nhưng trả bằng tiền theo giá thị trường tại thời điểm hiện nay và trừ đi số tiền 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) mà bà H đã ứng của bà Đ trước đây, số tiền còn lại yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Đ và anh V phả trả cho bà H. Căn cứ biên bản xác minh thì tại thời điểm ngày 14/12/2017, giá cà phê rô nhân xô là 36.400đ/kg. Như vậy, đối với 2000kg x 36.400đ bằng 72.800.000đ (Bảy mươi hai triệu,tám trăm nghìn đồng) trừ đi 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) mà nguyên đơn đã tạm ứng trước đó thì còn lại bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 58.800.000đ Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị H đối với bị đơn bà Kiều Thị Đ và anh Lê Hoàng V. Buộc bị đơn bị đơn bà Kiều Thị Đ và anh Lê Hoàng V có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn Hoàng Thị H số lượng cà phê rô nhân xô là 2000kg nhưng trả bằng tiền theo giá thị trường tại thời điểm xét xử là 72.800.000đ (Bảy mươi hai triệu,tám trăm nghìn đồng) trừ đi 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) mà nguyên đơn đã tạm ứng trước đó thì còn lại bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 58.800.000đ (Năm mươi tám triệu, tám trăm nghìn đồng). |
1 – 7 |
2 | Bản án số: 83/2017/DS-ST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân huyện V, tỉnh Đồng Tháp
V/v: “Tranh chấp về hợp đồng dân sự gửi giữ tài sản và đòi lại tài sản”. Tóm tắt nội dung vụ việc: Vào tháng 5/2015 ông N và bà N1 có gửi cho anh Bùi Văn L giữ giùm 30 chỉ vàng 24k (Vàng 9999), nay ông N, bà N1 cần sử dụng 30 chỉ vàng trên nên yêu cầu anh L trả lại nhưng anh Nô không đồng ý trả. Ngoài 30 chỉ vàng trên ông N, bà N1 còn có 01 dàn âm thanh mua cách nay khoảng 5 năm với giá là 35.000.000 đồng. Nay trị giá là 30.000.000 đồng, anh L tự ý lấy dàn âm thanh này của ông N, bà N1 sử dụng đến nay. Từ trước đến nay ông N, bà N1 không kêu anh L bán vàng gì cho anh L1 và cũng không hứa cho đất gì cho anh L. Việc anh L cho tiền L1 như thế nào ông N bà N1 không biết, còn đất của ông N, bà N1 cho người khác thuê là đất của ông N, bà N1 chứ không có đất nào là của anh L cả. Tòa án sơ thẩm nhận định: Về quan hệ tranh chấp: Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông N, bà N1 yêu cầu anh L trả lại vàng gửi giữ là 30 chỉ vàng 24k vàng 9999 và dàn âm thanh, nên yêu cầu của ông N và bà N1 là tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản và Đòi lại tài sản được Tòa án xem xét giải quyết theo quy định tại Điều 166, 554, 556, 557 của Bộ luật Dân sự. Anh L không cung cấp được chứng cứ gì để chứng minh là bà N1 có kêu anh L bán 20 chỉ vàng 24k của bà N1 và ông N trong số 30 chỉ vàng 24k bà N1, ông N gửi anh L giữ để cho anh L1. Nên ông N bà N1 yêu cầu anh L trả lại 30 chỉ vàng 24k vàng 9999 là có cơ sở và phù hợp với Điều 559 Bộ luật dân sự. Do ông N, bà N1 và anh L thống nhất giá trị dàn âm thanh là 30.000.000 đồng. Hội đồng xét xử giao cho anh L tiếp tục quản lý sử dụng, anh L có nghĩa vụ trả lại ½ giá trị dàn âm thanh cho ông N, bà N1 là 15.000.000 đồng. Về án phí: anh L trả lại cho ông N, bà N1 30 chỉ vàng 24k vàng 9999 và 15.000.000 đồng (½ giá trị dàn âm thanh) nên buộc anh L phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản anh L phải trả và ông N, bà N1 phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền 15.000.000 đồng. Tòa án sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông N, bà N1 đối với anh L. 2. Buộc anh L hoàn trả cho ông N, bà N1 30 (Ba mươi) chỉ vàng 24k, vàng 9999 và 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng). 3. Công nhận anh Bùi Văn L được quyền sở dàn âm thanh. 4. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh L nộp 6.090.000 đồng (Sáu triệu, không trăm chín chục ngàn đồng), ông N và bà N1 nộp 750.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. |
8–13 |
3 | Bản án số: 06/2018/DS-PT ngày 11/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
V/v: “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”. Tóm tắt nội dung vụ việc: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 23 tháng 02 năm 2016 ông D có vào quán cà phê QH để uống cà phê. Khi đến đây ông D có sử dụng chiếc xe nhãn hiệu Honda, loại AIRBLADE, màu đỏ, đen, trắng, biển đăng ký 62H1-080.63. Khi đến quán cà phê ông D giao xe cho nhân viên bảo vệ của quán trông giữ, do quán này gửi xe không có vé xe giao cho khách nên ông D chủ động khóa cổ xe lại, nhưng bảo vệ của quán đề nghị ông D là không được khóa cổ xe, để bảo vệ có thể dắt xe cho gọn. Sau khi ngồi quán cà phê ông D ra về thì phát hiện xe bị mất, lúc đó người bảo vệ không có ở đó. Ông D có trình báo với ông Q về viêc̣ mất xe , sau đó , ông Q có trình báo cho Công an phường TH lập biên bản sự việc. Nay ông D yêu cầu ông Q bồi thường số tiền 30.000.000đ theo như chứng thư thẩm định giá. Tòa án sơ thẩm tuyên: Tại bản án dân sự sơ thẩm số 177/2017/DS –ST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố BH tuyên: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông D. Buộc ông Q bồi thường cho ông D số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) Về đường lối giải quyết vụ án: Vào ngày 23/02/2016 ông D gửi xe AIRBLADE biển số 62H1 080.63 (do ông D đứng tên sở hữu) tại quán cà phê QH do ông Q làm chủ để uống cà phê, thời gian mất xe vào 14 giờ 20 phút, khung giờ ông Q có trách nhiệm giữ xe của khách. Sau khi ông D báo mất xe, ông Q có báo cho Công an phường và tuần tra giao thông để hỗ trợ tìm xe, nhưng không thấy. Do đó, cấp sơ thẩm buộc ông Q có trách nhiệm bồi thường 2/3 giá trị tài sản theo giá của chứng thu thẩm định là có căn cứ, đề nghị bác kháng cáo của ông Q. Tòa án phúc thẩm nhận định: Ông Q kháng cáo cho rằng không có căn cứ xác định ông D gửi xe ở quán cà phê QH do ông làm chủ để uống cà phê vì sau khi báo mất xe, ông D không cung cấp được giấy tờ xe, nên ông không có trách nhiệm bồi 4 thường giá trị xe cho ông D. Tuy nhiên, thơ lời khai của ông Q trong biên bản làm việc của Công an phường TH ngày 22/02/2016 , có cơ sở xác định ông D có gửi xe honda AIRBLADE biển số 62H1-08063 (xe do anh Diếp đứng tên sở hữu) tại quán cà phê QH. Ông Q kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh, nên không có căn cứ chấp nhận. Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông D. Buộc ông Q phải bồi thường cho ông D số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng). Ông Q phải thanh toán cho ông D 2.000.000đ chi phí thẩm định giá. |
14-18 |
4 | Bản án số: 153/2020/SS-PT ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
V/v: “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”. Tóm tắt nội dung vụ việc: Ông N và ông Trần H.T có thỏa thuận miệng hùn vốn làm ăn chung là nuôi cá. Trong quá trình nuôi thì ông H.T. và ông có nợ tiền thức ăn của ông M. Ngày 19/7/2010 các bên có làm: 2 “ Tờ cam kết” là ông Lâm Văn M. đứng ra bán cá và giữ tiền này, tiền lãi là 1%/tháng. Ông M. bán cá được 1.624.293.000 đồng nhưng không hoàn lại số tiền cho Ông N. sau khi trả tiền thức ăn cá là 230.000.000 đồng. Ông N. có ứng tiền 03 đợt là 133.000.000 đồng. Nay, Ông N. kiện yêu cầu Ông M. phải trả số tiền 1.261.930.000 đồng cho ông và tính lãi suất 1% /tháng đối với số tiền này từ ngày 21/10/2010 đến ngày giải quyết xong vụ kiện. Do việc sợ Ông N đứng ra ngăn cản việc Ông M bán cá nên Ông M làm tờ cam kết ngày 19/7/2010 với nội dung ông H.T. và cả Ông N hứa sau khi bán cá xong sẽ cấn trừ tiền nợ thức ăn và đợi khi ông H.T và Ông N quyết toán sổ sách xong sẽ hoàn trả lại số tiền còn lại. Ông M đồng ý trả lãi 1% trong thời gian ông giữ số tiền này. Trong cam kết, Ông M không nói cụ thể là trả cho Ông N.. Do đó, việc Ông N. kiện Ông M. thì Ông M. không đồng ý. Ông M trả cho ông H.T vì ông H.T. chỉ giao dịch mua bán với nhau, không có có bán thức ăn cho Ông N. Tòa án sơ thẩm tuyên: Tại bản án số 27/2020/DSST ngày 12/6/2020 của Tòa án nhân dân quận N.K. đã tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông N về việc yêu cầu bị đơn ông M phải giao tổng số tiền vốn là 1.261.293.000 đồng và tiền lãi 12.613.000.000 vì chưa đủ cơ sở. Tòa án phúc thẩm nhận định: [1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu đòi lại số tiền mà bị đơn đang giữ nên xác định vụ kiện: “ Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản ” theo quy định tại Khoản 3, Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn cư ngụ tại quận N.K., thành phố Cần Thơ nên Tòa án nhân dân quận N.K. thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền. [2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn N., ông kháng cáo trong hạn luật định, do ông là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm Xét đơn khởi kiện và kháng cáo: Ngày 02/5/2013, có Ông N và ông H.T thì hai ông cũng thừa nhận Ông M đã giao số tiền bán cá cho hai ông sau khi cấn trừ tiền bán thức ăn cá. Cũng cần lưu ý trong trường hợp này là mặc dù nguyên đơn, bị đơn có “Tờ cam kết” nhưng tờ cam kết này diễn ra trước ngày các bên có biên bản thanh toán nên tờ cam kết này không còn giá trị Do đó, Tòa án nhân dân quận N.K tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của Ông N là có cơ sở. Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông N. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm. Bác yêu cầu khởi kiện của ông N. về việc yêu cầu bị đơn ông Lâm Văn M. phải giao trả tổng số tiền vốn là 1.261.293.000 đồng (Một tỷ hai trăm sáu mươi mốt triệu, hai trăm chín mươi ba triệu đồng) và tiền lãi là 12.613.000.000 đồng (Mười hai tỷ, sáu trăm mười ba triệu đồng) vì chưa đủ cơ sở. |
19-23 |
5
|
Bản án số: 391/2020/DSPT ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
V/v: “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”. Tóm tắt nội dung vụ việc: Ngày 07/01/2017, ông P có mượn của ông T1 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 đến tiệm Internet tại địa chỉ: 715 đường LLQ, Phường M, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh do Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT là chủ sở hữu để chơi game. Khi đến tiệm Internet, ông P có gửi xe cho nhân viên giữ xe của tiệm Internet (ông N1) và nhận vé giữ xe số 0073967 do Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ HVG phát hành. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, ông P ra về và đưa thẻ xe cho bảo vệ lấy xe, lúc này không phải là ông N1 mà là một bảo vệ khác nhưng không tìm thấy xe, do hai bên không tự giải quyết thương lượng được nên ông P có đến Công an Phường M, quận TB trình báo sự việc mất xe. Vì thỏa thuận không được nên ông P khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải bồi thường giá trị chiếc xe bị mất với số tiền là 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng và yêu cầu Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT hoàn trả lại cho ông P tiền chi phí định giá tài sản là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn) đồng, yêu cầu trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Tòa án sơ thẩm tuyên: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 487/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 của Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Trần P. Buộc Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải bồi thường cho ông Hoàng Trần P số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng là giá trị chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 bị mất, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Tòa án phúc thẩm nhận định: Theo kháng cáo của phía bị đơn thì bị đơn không đồng ý bồi thường do không có cơ sở để cho rằng nguyên đơn có gửi xe tại điểm internet của Công ty NT. Mặc dù, bị đơn không thừa nhận có việc gửi giữ tài sản là chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 nhưng theo chứng cứ nguyên đơn giao nộp cùng các tài liệu, chứng cứ do Tòa án xác minh thu thập thì có đủ cơ sở xác định giữa ông Hoàng Trần P và Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT đã xác lập hợp đồng gửi giữ tài sản. Tại phiên tòa Phúc thẩm phía bị đơn không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh cho việc phía bị đơn không phải chịu trách nhiệm đối với việc gửi giữ tài sản đã bị mất của nguyên đơn hiện nay, lý do kháng cáo đưa ra rằng thẻ xe không có chữ ký, không ghi ngày tháng, không có camera an ninh ghi lại hình ảnh gửi xe và cơ quan điều tra đã tạm đình chỉ điều tra vụ án là không có cơ sở. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT không có căn cứ để chấp nhận. Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tòa án phúc thẩm tuyên: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 487/2019/DS-ST ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông P. Buộc Công ty TNHH Công nghệ Thông tin NT phải bồi thường cho ông Hoàng Trần P số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu) đồng là giá trị chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 47M1-353.06 bị mất, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật |
24-31 |
6 | Bản án số: 112/2021/DS-PT ngày 27/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
V/v: “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”. Tóm tắt nội dung vụ việc: Ông Tr là cư dân của chung cư A có địa chỉ tại số X đường Y, phường Z, Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 30/11/2018, ông Tr làm thủ tục gửi chiếc xe Hon đa SH 150I (nhập khẩu) biển số 59S1-615-49; Số máy: KF08E-110877; Số khung: KF10BCF-151759 tại chung cư A, chung cư này do Công ty cổ phần quản lý bất động sản N.T quản lý. Ngày 30/12/2018 ông Tr được ban quản lý chung cư gọi điện thông báo xe của ông Tr bị mất. Ngày 04/01/2019, ông Tr đến Công an phường Z, Quận W cung cấp thẻ từ cho Công an xác minh điều tra. Vụ việc được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận W khởi tố vụ án hình sự. Sau nhiều lần ông Tr liên hệ bị đơn để đàm phán cụ thể ngày 07/5/2019 hai bên có cuộc họp và lập biên bản tại trụ sở Công ty cổ phần quản lý bất động sản N.T nhưng không có kết quả. Nên ông Tr khởi kiện, yêu cầu bị đơn bồi thường giá trị xe SH 150I bị mất tạm tính là 230.000.000 đồng. Tòa án sơ thẩm tuyên: Tại bản án dân sự sơ thẩm số 77/2020/DSST ngày 12/06/2020 của Tòa án nhân dân Quận W , Thành phố Hồ Chí Minh đã xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Chí Tr. Buộc bị đơn Công ty cổ phần quản lý bất động sản N.T có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Chí Tr giá trị chiếc xe bị mất với số tiền là 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng). Tòa án phúc thẩm nhận định: Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, theo yêu cầu của bị đơn và do hai bên không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản nên Tòa án đã quyết định định giá tài sản, thành lập Hội đồng định giá. Tuy nhiên, Hội đồng định giá tiến hành định giá và xác định tài sản cần định giá không còn, không có giấy tờ hóa đơn khi mua bán nên không thể tiến hành định giá được. Như vậy, yêu cầu của bị đơn về việc định giá lại không có cơ sở để tiến hành nên không được chấp nhận. Ngày 25 tháng 6 năm 2020, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án 77/2020/DS-ST ngày 12 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị đơn không đưa ra được chúng cứ gì mới chúng minh cho yêu cầu của mình. Từ những nhận định trên, xét kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận. Tòa án phúc thẩm tuyên: 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần quản lý bất động sản N.T. Tuyên xử: 2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Chí Tr. Buộc bị đơn Công ty cổ phần quản lý bất động sản N.T có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Chí Tr giá trị chiếc xe bị mất với số tiền là 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng). |
32-38 |
7 | Bản án số: 274/2021/DS-PT ngày 26/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
V/v: “ Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản Tóm tắt nội dung vụ việc: Vào lúc 17h30 ngày 31/12/2019, ông có điều khiển chiếc xe mô tô SH 150 biển số: 59F1-513.98 do ông là chủ sở hữu, vào gửi tại bãi xe Bệnh viện 115 Thành phố Hồ Chí Minh để nuôi người nhà đang điều trị tại bệnh viện. Khi gửi xe ông được nhân viên giao phiếu giữ xe gắn máy, phiếu giữ xe do Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ công nghiệp HG phát hành (sau đây gọi tắt là Công ty HG) và là chủ thể thực hiện việc trông giữ xe của ông. Khoảng 19h30 phút cùng ngày ông ra lấy xe thì phát hiện chiếc xe của ông đã bị kẻ gian lấy cắp. Sau khi ông bị mất xe, Công ty HG đã nhiều lần mời ông đến làm việc về vụ chiếc xe bị mất nhưng không có kết quả. Công ty HG không đưa ra được phương án cụ thể để bồi thường chiếc xe cho ông. Chính vì vậy, ông đã khởi kiện Công ty HG đến Tòa án nhân dân Quận Y để yêu cầu Công ty phải bồi thường chiếc xe cho ông. Tại phiên tòa ngày hôm nay, ông C xác định Công ty HG là chủ thể trực tiếp thực hiện việc trông giữ xe cho ông nên Công ty HG phải bồi thường giá trị chiếc xe của ông tại thời điểm bị mất là 120.000.000 đồng. Ngoài ra, ông không có yêu cầu hay ý kiến gì khác. Tòa án sơ thẩm tuyên: Tại Bản án sơ thẩm số 440/2020/DS – ST ngày 18/11/2020, Tòa án nhân dân Quận Y tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: 1/ Buộc Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG phải trả cho ông Phan Minh C 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng tiền bồi thường giá trị còn lại của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 bị mất, thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền. 2/ Về án phí: Buộc Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG phải chịu 6.000.000 (sáu triệu) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ông Phan Minh C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho ông C số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.750.000 (ba triệu, bảy trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/0014506 ngày 06/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Y. Tòa án phúc thẩm nhận định: Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và đại diện theo uỷ quyền của bị đơn cùng thống nhất và thoả thuận như sau: Bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đồng ý trả cho ông Phan Minh C số tiền 80.000.000đồng (tám mươi triệu) là tiền bồi thường giá trị của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 đã bị mất, thời gian giao tiền là vào ngày 29/03/2021, việc giao – nhận tiền do hai bên tự thực hiện. Về án phí do phía bị đơn chịu. Xét thấy, các đương sự đã đưa ra được sự thoả thuận về việc giải quyết toàn bộ vụ án, sự thoả thuận này là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên HĐXX ghi nhận sự tự nguyện giữa các đương sự về việc thoả thuận như trên. Do đó đề nghị của đại diện VKS về việc sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận các đương sự tại phiên toà phúc thẩm là có căn cứ nên chấp nhận. Về án phí: Do các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, HĐXX phúc thẩm sửa bản án, do đó đương sự chịu án phí theo quy định pháp luật. Tòa án phúc thẩm tuyên: 1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 440/2020/DS – ST ngày 18/11/2020, Tòa án nhân dân Quận Y Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại phiên toà phúc thẩm như sau: Bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đồng ý trả cho ông Phan Minh C số tiền 80.000.000đồng (tám mươi triệu) là tiền bồi thường giá trị của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 đã bị mất, thời gian giao tiền vào ngày 29/03/2021, việc giao – nhận tiền do hai bên tự thực hiện. |
39-43 |
8 | Bản án số: 09/2021/DSPT ngày 16/122/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh BN
V/v: “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài san” Tóm tắt nội dung vụ việc: Cuối năm 2018 bà có mang 201kg khoai tây giống đến gửi tại kho lạnh nhà ông T với giá gửi 1kg khoai là 2.400đ. Đến khoảng tháng 9 năm 2019, bà đến lấy và bà đã thanh toán đầy đủ với số tiền là 482.000đ. Sau khi nhận lại khoai khoảng một tuần bà phát hiện toàn bộ số khoai giống bà gửi ở kho nhà ông T bị hỏng với đặc điểm củ khoai bị rắn, cứng, đen bên trong không thể trồng được. Khi gửi khoai tại kho nhà ông T hai bên có kiểm tra sơ qua khoai giống thấy khoai vàng và không bị thối thì ông T, bà D cho vào kho lạnh. Sau khi nhận lại khoai giữa hai bên không kiểm tra lại khoai mà bà mang khoai về ngay đến khoảng một tuần sau bà mới kiểm tra lại. Nay bà yêu cầu ông T, bà D phải bồi thường cho bà giá trị số khoai giống bà phải mua ở ngoài là 201kg x 16.000đ/kg = 3.216.000.000đ. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà rút một phần yêu cầu khởi kiện, bà chỉ yêu cầu ông T bồi thường cho bà số tiền 1.608.000đ tương đương 100,5kg khoai tây bị hỏng. Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận việc rút một phần hai yêu cầu khởi kiện về việc buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 3.216.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ. Chấp nhận toàn bộ phần yêu cầu khởi kiện còn lại của Bà Nguyễn Thị T. Buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 1.608.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ. Tòa án phúc thẩm nhận định: Theo nôi dung kháng cáo và lời tình bày của nguyên đơn để xác định lỗi hoàn toàn thuộc về nguyên đơn hay bị đơn là không có cơ sở nên cần xác định lỗi của nguyên đơn và bị đơn là như nhau nên mỗi bên phải chịu trách nhiệm với ½ số khoai tây hỏng. Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn rút ½ yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông T phải bồi thường cho nguyên đơn một nửa số khoai tây hỏng. Do đó, bản án sơ thẩm xử buộc bị đơn có trách nhiệm bồi thường cho nguyên đơn số tiền 5 1.608.000đ tương đương với ½ số khoai tây giống hỏng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Đơn kháng cáo toàn bộ bản án của ông T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới nên kháng cáo của ông T không có căn cứ chấp nhận, bác toàn bộ kháng cáo của ông T. Tòa án phúc thẩm tuyên : Giữ nguyên bản án sơ thẩm xử: 1. Chấp nhận việc rút ½ yêu cầu khởi kiện về việc buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 3.216.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ. 2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện còn lại của Bà Nguyễn Thị T. Buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 1.608.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ. |
44-49 |
LINK PDF: Tổng hợp 15 bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn