Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 15 bản án tranh chấp về hợp đồng hợp tác, góp vốn có yêu cầu phản tố

Tổng hợp 15 bản án tranh chấp về hợp đồng hợp tác, góp vốn có yêu cầu phản tố

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án tranh chấp về hợp đồng hợp tác, góp vốn có yêu cầu phản tố” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 15 bản án tranh chấp về hợp đồng hợp tác, góp vốn có yêu cầu phản tố

STT

BẢN ÁN

TRANG

1 Bản án số: 264/2022/DS -PT Ngày: 31 – 10 – 2022 Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ

V/v “tranh chấp hợp đồng hợp tác trồng cây lâu năm”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn M trình bày:

Vào tháng 2 năm 2019, ông M và bà L có thỏa thuận về việc hợp tác trồng cây ăn trái, bà L góp 2.084 m2 , ông M góp công và cây trồng. Đến năm 2020, ông M và bà L ký hợp đồng bằng văn bản nhưng thực chất các cây trồng đã được trồng từ tháng 2 năm 2019. Đến ngày 20/01/2021, bà L đơn phương chấm dứt hợp đồng hợp tác với ông M. Nay ông M yêu cầu bà L bồi thường thiệt hại cho ông M với số tiền là 100.000.000 đồng bao gồm tiền giống cây trồng, tiền vật tư, phân bón và ngày công lao động là 120.000/ngày trong 680 ngày.

Bị đơn bà Võ Thị Trúc L có yêu cầu phản tố như sau:

yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại do trong thời gian 20 tháng không cho thuê đất được với số tiền là 8.300.000đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn M

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Võ Thị Trúc L

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Cấp sơ thẩm nhận định hợp đồng hợp tác trồng cây lâu năm giữa ông Nguyễn Văn M và bà Võ Thị Trúc L vô hiệu kể từ thời điểm giao kết hợp đồng theo quy định tại Điều 117 và 122 Bộ luật Dân sự 2015 là có căn cứ.

– Việc cây trồng của ông M bị chết thì chưa có văn bản xác nhận giữa ông M, ông T và bà L về việc các cây trồng đã chết nên cấp sơ thẩm không xem xét là là có cơ sở.

– Đối với yêu cầu phản tố của bà Võ Thị Trúc L buộc ông Nguyễn Văn M bồi thường thiệt hại thời gian 20 tháng không cho thuê đất được với số tiền là 8.300.000 đồng, bà L có nộp cho Tòa án 01 hợp đồng thuê đất làm rẫy ngày 01/6/2019 để chứng minh. Tuy nhiên, như đã phân tích phần đất mà bà L và ông Mèo thỏa thuận hợp tác không thuộc quyền sử dụng của bà L, nên bà L không có quyền thỏa thuận, giao kết hợp đồng cho thuê quyền sử đụng đất đối với phần đất dùng để góp vốn hợp tác với ông M. Do vậy, bà L không có thiệt hại gì nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Võ Thị Trúc L là có cơ sở.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Tuyên bố “Thỏa thuận trồng cây lâu năm lập năm 2020” giữa ông Nguyễn Văn Mèo và bà Võ Thị Trúc L bị vô hiệu.

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn M. 3. – Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Võ Thị Trúc L.

1 – 8
2 Bản án số: 06/2023/DS-PT Ngày 03 – 02 – 2023 Tòa án nhân dân dân tỉnh Sơn La

V/v: Tranh chấp việc phân chia lợi nhuận trong hợp đồng hợp tác kinh doanh

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn ông Nguyễn Như H trình bày:

Năm 2019, khi ông đang ở Yên Bái thì có ông Nguyễn Đức H gọi điện rủ ông lên Sơn La để làm gỗ cùng. Đến ngày 15/9/2021, ông cùng ông H cộng sổ vào thì có bất đồng chênh lệch về tiền, ông đã yêu cầu ông H sao kê tài khoản ngân hàng về số tiền trong sổ ông thì đủ mà trong tài khoản ông H lại thiếu. Ông H không ghi vào sổ 03 xe gỗ ông bán mà ông đã bán và báo cho ông H, 03 xe gỗ này ông bán và đã lấy tiền mặt để đi thanh toán tiền trong dân, còn thừa 8.000.000đ chủ 3 hàng đã chuyển vào tài khoản của ông H. Trong sổ của ông và cháu T đều có 03 xe gỗ đó, giữa ông và ông H đã xảy ra mâu thuẫn và không thỏa thuận được với nhau do ông H không trả ông số tiền 450.000.000đ (là ½ số tiền lợi nhuận các ông làm ăn có được sau khi kết thúc vụ gỗ). Nay ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết buộc ông H phải trả cho ông số tiền lợi nhuận từ việc làm gỗ là 450.000.000đ.

Bị đơn ông Nguyên Đức H có yêu cầu phản tố như sau:

Nguyễn Đức H đề nghị Tòa án yêu cầu ông Nguyễn Như H phải trả số tiền 297.538.000đ và lãi suất theo quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, căn cứ vào kết quả đối chất ngày 30/6/2022, ông H xác định lại yêu cầu khởi kiện đề nghị ông H phải trả số tiền làm gỗ ông H cầm chưa chi trả hết là 138.000.000đ và số tiền chênh lệch bán gỗ khai thác tại rừng ông T với số gỗ là 288,7m3 với số tiền là 85.785.000đ; đề nghị xem xét chi phí ăn ở của ông H trong thời gian ông H ở nhà ông thời gian 1 năm là 36.000.000đ.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Buộc ông Nguyễn Đức H phải trả cho ông Nguyễn Như H số tiền lợi nhuận có được từ việc hợp tác kinh doanh khai thác gỗ khu vực địa bàn xã Nà Ớt và Chiềng Kheo là 336.635.000đ.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Đức H buộc ông Nguyễn Như H phải trả số tiền lợi nhuận chênh lệch trong việc mua bán gỗ nhà ông Hoàng Huy T là 85.785.000đ.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Như H về việc xác định hợp đồng hợp tác và yêu cầu phân chia lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh khai thác gỗ.

– Xét yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Đức H đề nghị ông Nguyễn Như H phải trả ông số tiền 138.000.000đ ông H đang cầm chưa chi trả hết, tiền chênh lệch bán gỗ khai thác tại rừng ông T số tiền 85.785.000đ, chi phí ăn ở của ông Hải trong thời gian 1 năm là 36.000.000đ như đã phân tích ở mục do không có cơ sở xem xét số tiền bán gỗ nên không chấp nhận yêu cầu của ông H đối với số tiền 85.785.000đ. Đối với số tiền 138.000.000đ được ông H thừa nhận, phù hợp với biên nhận tiền ông H đã ký; đối với số tiền 36.000.000đ chi phí ăn ở của ông H các bên đều thống nhất nên cần chấp nhận. Ông H phải trả cho ông H số tiền là 174.000.000đ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Như H buộc bị đơn ông Nguyễn Đức H phải thanh toán số tiền lợi nhuận từ việc làm gỗ số tiền 690.740.000đ.

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Đức H buộc ông Nguyễn Như H phải thanh toán số tiền 129.000.000đ.

9 – 18
3 Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: 28-03-2023 Tòa án nhân thành phố Cần Thơ

V/v: “Tranh chấp hợp đồng góp vốn”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn trình bày:

Vào năm 2019, ông C và vợ chồng ông H, bà L có thỏa thuận với nhau về việc hợp tác kinh doanh cây kiểng không có lập hợp đồng, theo đó: Ông C góp vốn và vợ chồng ông H góp sức, sau mỗi đợt thì hai bên tiến hành đối chiếu với nhau, lợi nhuận chia mỗi bên hưởng 50%. Ông C đã góp nhiều lần tổng số tiền 3.242.087.000 đồng. 2 Trong quá trình hợp tác bị đơn không chia lợi nhuận từ việc làm công trình cây kiểng cho ông C nên ông Cường ngưng hợp tác với bị đơn và gom cây về. Đến ngày 27/5/2021 hai bên đối chiếu lại số vốn góp còn lại của ông Cường mà bà Linh ký xác nhận là 474.587.000 đồng và cam kết một tháng sau trả toàn bộ tiền vốn nêu trên. Tuy nhiên bị đơn cố tình trốn tránh không chịu trả tiền vốn còn lại cho ông Cường. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn trả số tiền là 533.672.200 đồng.

Bị đơn có yêu cầu phản tố như sau:

Yêu cầu ông C trừ khoản tiền mua cây khắc phục cây chết theo xác nhận của chủ vườn ông Nguyễn Hoàng Th 299.000.000 đồng và chủ vườn ông Trần Đ 187.500.000 đồng. Tổng cộng số tiền yêu cầu ông C trừ ra là 299.000.000 đồng + 187.500.000 đồng = 486.500.000 đồng. Đối 3 với số tiền sau khi trừ ra mà ông Cường phải trả lại là 486.500.000 đồng – 474.587.000 đồng = 11.913.000 đồng, bị đơn không yêu cầu ông C phải hoàn lại.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về trả tiền lãi chậm trả 59.085.200 đồng.

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Lê Quốc H, bà Nguyễn Thị M đối với nguyên đơn ông Lê Chí C về cấn trừ số tiền mua cây.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Tại phiên tòa, các đương sự thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án, thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần 4 Thơ đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 300 Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Ông Lê Quốc H và bà Nguyễn Thị Mỹ có trách nhiệm trả cho ông Lê Chí C 300.000.000đ

19 – 23
4 Bản án số:184/2023/DS-PT Ngày 19/5/2023 Tòa Án Nhân Dân Tỉnh Đắk Lắk

V/v:”Tranh chấp hợp đồng góp vốn”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn bà Đỗ Thị H trình bày:

Năm 2019, bà và ông Quách Xuân Đ góp vốn để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đối với thửa đất số 210, tờ bản đồ số 31, với giá chuyển nhượng 230.000.000đ. Bà góp 200.000.000 đồng, ông Đ góp 30.000.000 đồng. Tuy nhiên sau đó ông Đ đã làm thủ tục đứng tên ông. Bà biết việc này và không đồng ý, bà yêu cầu ông Đ ký kết hợp đồng góp vốn; Ngày 20/02/2020, bà và ông Đ ký kết hợp đồng góp vốn số:01/HĐGV với nội dung: Bà góp 200.000.000đ, ông Đ góp 30.000.000đ để nhận chuyển nhượng chung thửa đất số 210. Bà đã nhiều lần yêu cầu ông Đ chuyển nhượng thửa đất số 210 cho bà hoặc cho người khác với giá 500.000.000đ và chia lợi nhuận theo thỏa thuận nhưng ông Đ không đồng ý. Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Quách Xuân Đ phải trả lại cho bà 200.000.000đ tiền góp vốn và chia lợi nhuận thửa đất số 210 theo thỏa thuận.

Bị đơn ông Quách Xuân Đ:

Yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà H phải thanh toán cho ông khoản tiền chuyển nhượng phần vốn góp 80.000.000đ.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H. Buộc ông Quách Xuân Đ phải trả cho bà Đỗ Thị H số tiền góp vốn 200.000.000 đồng và 135.000.000 đồng tiền lợi nhuận từ tiền góp vốn. Tổng cộng là 335.000.000 đồng.

– Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Quách Xuân Đ Buộc bà Đỗ Thị H phải trả cho ông Quách Xuân Đ và bà Nguyễn Thị Ph số tiền nợ sang nhượng quán là 80.000.000 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của H, buộc ông Đ phải thanh toán cho bà H 200.000.000đ tiền góp vốn và 135.000.000 đồng tiền lợi nhuận từ góp vốn kinh doanh thửa đất số 210 là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Đ, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

– Cấp sơ sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn nhưng không bù trừ nghĩa vụ đối với yêu cầu của nguyên đơn là không đúng với điểm a khoản 2 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần tuyên bù trừ nghĩa vụ cho nhau, đúng với quy định của pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H. Buộc ông Quách Xuân Đ phải thanh toán cho bà Đỗ Thị H số tiền góp vốn 200.000.000 đồng và 135.000.000 đồng tiền lợi nhuận từ tiền góp vốn, tổng cộng 335.000.000 đồng.

– Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Quách Xuân Đ. Buộc bà Đỗ Thị H phải thanh toán cho ông Quách Xuân Đ và bà Nguyễn Thị Ph khoản tiền chuyển nhượng phần vốn góp kinh doanh quán Cà Phê là 80.000.000 đồng

24 – 28
5 Bản án số: 175/2022/DS-PT Ngày 20-7-2022 Tòa án nhân dân tỉnh Long An

V/v tranh chấp hợp đồng hợp tác

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn ông Bùi Đức Huỳnh P trình bày:

Ngày 23/11/2015 hai bên ký hợp đồng để đầu tư và thỏa thuận việc thu mua lúa vụ Đông – Xuân năm 2016. Trong vụ Đông – Xuân này, ông đã tạm ứng tiền từ ông C tổng cộng là 42.618.359.000đồng. Ngoài ra khi thực hiện việc thu mua lúa, do thiếu tiền nên ông có vay thêm của ông Nguyễn Anh T 1.000.000.000đồng để nhập vào vốn chung. Số tiền 1.000.000.000đồng này đã được ông C thừa nhận khi ông C viết vào giấy quyết toán cho ông. Như vậy tổng số tiền ông đi mua lúa là 43.618.359.000đồng.

Sau vụ Đông – Xuân 2016, ông với ông C vẫn có ý định tiếp tục hợp tác với nhau để đầu tư. Khi ông với ông C về đến Long An thì ông có đề nghị ông C cho ông rút vốn đầu tư, yêu cầu của ông được ông C đồng ý. Tuy nhiên ông C nói do gặp khó khăn về vốn nên tạm thời không chia vốn và tiền lợi nhuận vụ Đông – Xuân cho ông. Đồng thời, ông C cũng đề nghị ông giúp ông C việc thu mua lúa vì ông C cho rằng ông đã quen thuộc với công việc này. Đến tháng 8 năm 2017, ông C có trả tiền góp vốn ban đầu cho cho ông 02 lần tổng cộng là 600.000.000đ nên số tiền vốn góp của ông còn lại là 1.100.000.000đ – 600.000.000đ = 500.000.000đồng. Nay ông khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết.

Bị đơn ông Trương Hùng C có yêu cầu phản tố như sau:

– yêu cầu ông P phải trả cho ông ½ số tiền lỗ lúa là 1.703.886.800đ : 2 = 851.943.400đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đức Huỳnh P về việc “tranh chấp hợp đồng hợp tác” với ông Trương Hùng C.

– Không chấp nhận yêu cầu của ông P yêu cầu ông C trả số tiền vốn và lãi ông P vay của ông T là 872.286.000đồng, tiền bù là 1.400.000đồng, tổng cộng là 873.686.000đồng.

– Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đức Huỳnh P về việc yêu ông Trương Hùng C hoàn trả số tiền giao hàng chênh lệch 818.189.000đồng, tiền mua băng tải là 17.500.000đồng, tiền lãi chênh lệch là 66.000.000đồng.

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Trương Hùng C đối với ông Bùi Đức Huỳnh P.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Đối với số tiền bao bì và chênh lệch lúa do bị hao hụt theo thỏa thuận của các bên thì ông P phải chịu, ông C yêu cầu ông P phải trả số tiền này là có căn cứ. Ông P cho rằng số tiền này là tiền riêng của ông P là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

– Trong quá trình giải quyết vụ án ông C cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh toàn bộ số lượng lúa mua vào và bán ra tại các nhà máy nên số tiền lỗ ông C yêu cầu là có căn cứ chấp nhận.

– Đối với số tiền lãi 450.000.000đồng, ông C trình bày vay của ông H1 để làm vốn thu mua lúa số tiền 20.000.000.000đồng, lãi suất 0,9%/tháng x 2,5 tháng là phù hợp. Ông H1 cũng đã có văn bản xác nhận cho ông C vay số tiền trên và trả lãi đầy đủ. Do đó, ông C yêu cầu số tiền lãi này là có căn cứ chấp nhận.

– ông C có yêu cầu phản tố yêu cầu ông P trả số tiền lỗ vụ Hè Thu tổng cộng là 851.943.400đồng. Tuy thực tế ông C lỗ vụ Hè Thu 2.503.886.800đồng nhưng ông C chỉ yêu cầu ông P phải trả tiền lỗ 851.943.400đồng, nên Tòa án chỉ chấp nhận theo yêu cầu phản tố trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của ông C. Do đó, chấp nhận một phần kháng cáo của ông P, sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đức Huỳnh P về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác” với ông Trương Hùng C.

– Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đức Huỳnh P về việc yêu cầu ông Trương Hùng C trả số tiền 292.720.000đồng.

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Trương Hùng C về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác” với ông Bùi Đức Huỳnh P.

29 – 42
6 Bản án số: 685 /2021/DS – PT Ngày: 10-12-2021 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

V/v “Tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh”.

Tóm tắt nội dung vụ án:

Nguyên đơn bà Vũ Thị L trình bày:

Bà L là người đứng tên quyền sử dụng đất tại Số 873 đường H, Phường Q, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 20/6/2018, bà L và Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng B có ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 06/HĐHTKD.18 về việc hợp tác khai thác khu đất để kinh doanh nhà hàng ăn uống. Đến ngày 26/7/2018, giữa hai bên ký phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ.2018 để điều chỉnh lại thời gian hợp tác và tiền đặt cọc. Theo đó, giữa hai bên thỏa thuận thời gian hợp tác là 02 năm, tiền đặt cọc là 2.000.000.000 đồng và Công ty B thanh toán lợi nhuận cho bà L là 280.000.000 đồng/tháng. Tuy nhiên Công ty B chỉ đặt cọc được 1.600.000.000 đồng và chưa thanh toán lợi nhuận cho bà L. Nay bà L có yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn có ông Lê Văn Huyện có yêu cầu phản tố như sau:

buộc bà L thanh toán: Tiền đặt cọc đã nhận là 1.600.000.000 đồng; Chi phí đầu tư xây dựng công trình tại khu đất là 3.828.000.000 đồng. Tổng cộng 5.428.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị L

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng B.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng B về việc buộc bà Vũ Thị L bồi thường chi phí đầu tư xây dựng công trình tại Số 873 đường H, Phường Q, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 2.479.195.000 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Việc bị đơn cho rằng, vì là hợp đồng hợp tác kinh doanh, nên việc kinh doanh được tính từ thời điểm khu đất được cấp GCN, cơ sở kinh doanh được cấp phép, lợi nhuận phát sinh và chia cho các bên khi có đầy đủ hồ sơ pháp lý và đi vào kinh doanh thực tế. Như đã nhận định, lời trình bày này không có cơ sở.

– Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 20/6/2018 vô hiệu do vi phạm điều cấm nhưng bản chất của hợp đồng thực chất là thuê mặt bằng (thuê đất). Bị đơn đã được nguyên đơn bàn giao khu đất từ tháng 7/2018 nhưng chưa thanh toán tiền thuê cho nguyên đơn; Cấp sơ thẩm xác định thiệt hại của nguyên đơn là tiền cho thuê đất và chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán 2.399.400.000 đồng là có cơ sở; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

– Hợp đồng bị vô hiệu, phía nguyên đơn đồng ý hoàn trả lại khoản tiền cọc 1.600.000.000 đồng đã nhận cho bị đơn. Phía bị đơn có nghĩa vụ khôi phục lại hiện trạng ban đầu của khu đất và trả lại khu đất theo hiện trạng thực tế cho nguyên đơn. Vì vậy, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự là có cơ sở.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị L

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng B: – Buộc bà Vũ Thị L trả số tiền cọc đã nhận là 1.600.000.000 đồng cho Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng B.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng B về việc buộc bà Vũ Thị L bồi thường chi phí đầu tư xây dựng công trình tại Số 873 đường H, Phường Q, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 2.479.195.000 đồng

43 – 63

LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 15 bản án tranh chấp về hợp đồng hợp tác, góp vốn có yêu cầu phản tố

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan