Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 15 bản án tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản

Tổng hợp 15 bản án tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 Bản án tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 15 bản án tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án số: 07/2021/DS-ST ngày: 13-01-2021 của TAND huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long về việc: “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản”

Nội dung:

Vào ngày 30/02/2019, ông H, bà L có đến nhà của bà T để cầm 01 chiếc xe tải biển số: 64C – 05674 số tiền là 60.000.000đồng, có làm giấy tay, có thỏa thuận lãi suất là 5%/tháng. Đến tháng 05/2019 có trả được số tiền vốn là 24.000.000đồng, không đóng lãi, số tiền lãi từ tháng 02/2019 đến tháng 05/2019 bà T không yêu cầu ông H, bà L trả. Còn nợ lại 36.000.000đồng, có ghi biên nhận nợ ngày 20/5/2019 nhưng đến nay chưa trả.

Nay bà T yêu cầu ông H, bà L trả số vốn 36.000.000đồng và số tiền lãi tính từ ngày 20/8/2019 đến ngày 20/12/2020 là 16 tháng với lãi suất là 1%/tháng, thành tiền là 5.760.000đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 41.760.240.000đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi cho đến khi trả dứt nợ.

Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm:

[1]      Về trình tự và thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Toà án đã tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự, thủ tục và thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Xét thấy vụ án không có thu thập các tài liệu, chứng cứ do đương sự tự cung cấp nên vụ án không thuộc trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phải tham gia.

[2]      Về nội dung yêu cầu khởi kiện:

Tại phiên tòa bà T vẫn giữ yêu cầu vợ chồng ông H, bà L trả số tiền vốn là 36.000.000đồng và số tiền lãi tính từ ngày 20/8/2019 đến ngày 20/12/2020 là 16 tháng với lãi suất là 1%/tháng, thành tiền là 5.760.000đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 41.760.000đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi cho đến khi trả dứt nợ. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của bà T là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, việc cầm cố tài sản giữa bà T và vợ chồng ông H, bà L đối với số tiền 36.000.000đồng thì giữa các bên có viết giấy nhận nợ và vợ chồng ông H, bà L cũng thừa nhận có nợ bà T số tiền này. Do đó đây là sự việc có thật, các bên đã thừa nhận nên không cần phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với yêu cầu về lãi suất 1%/ tháng của bà T yêu cầu đối với số tiền 36.000.000đồng, yêu cầu tính lãi từ ngày 20/8/2019 đến ngày 20/12/2020 là 16 tháng với lãi suất là 1%/tháng, thành tiền là 5.760.000đồng là có căn cứ chấp nhận.

Tại phiên tòa hôm nay, ông H, bà L có ông H làm đại diện không đồng ý trả vốn và lãi là 41.760.000đồng cho bà T, vì cho rằng đã trả xong nợ cho bà T vào ngày 20/5/2020 nhưng không đưa ra chứng cứ chứng minh cho việc trả nợ.

Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T. Buộc ông Phan Thanh H, bà Nguyễn Thị Mỹ L có trách nhiệm trả cho bà Đinh Thị T số tiền vốn 36.000.000đồng và lãi suất tính từ ngày 20/8/2019 đến ngày 20/12/2020 là 5.760.000đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 41.760.000đồng.

[3]      Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà L, ông H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền 41.760.000đồng x 5% = 2.088.000đồng.

+ Hoàn cho bà T số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.017.000đồng theo biên lai thu số 0010304 ngày 03/7/2020 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình.

[4]      Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

1.       Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị T.

Buộc ông Phan Thanh H, bà Nguyễn Thị Mỹ L có trách nhiệm trả cho bà Đinh Thị T số tiền vốn 36.000.000đồng và lãi suất tính từ ngày 20/8/2019 đến ngày 20/12/2020 là 5.760.000đồng. Tổng cộng vốn và lãi là 41.760.000đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2.       Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông H, bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.088.000đồng.

+ Hoàn cho bà T số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.017.000đồng theo biên lai thu số 0010304 ngày 03/7/2020 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình.

1-4

2

Bản án số: 09/2021/DS-ST ngày: 29-4-2021 của TAND thành phố Hà Tiên, tỉnh Hà Giang về việc: “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản”

Nội dung:

Ngày 03/6/2019, ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK ký kết hợp đồng cầm cố tài sản số QV 805/HĐ để vay số tiền 10.000.000 đồng, lãi suất 1,26%/tháng, thời hạn cầm cố 06 tháng, tài sản cầm cố là 01 chiếc xe môtô, nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, màu sơn đỏ – đen, số máy JA32E0066573, số khung 3221EY066390, biển số 68C1-25180 và giấy chứng nhận đăng ký xe số 003346 mang tên Trần Văn Th do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 29/3/2016.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông Th, bà K đã thanh toán cho Công ty tiền gốc 2.222.000 đồng và tiền lãi 168.000 đồng, còn nợ lại tiền gốc 7.778.000 đồng và tiền lãi 588.000 đồng thì không thanh toán, Công ty đã nhiều lần yêu cầu nhưng ông bà vẫn không thanh toán. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền 8.366.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Đối với tài sản cầm cố trên Công ty đã trả lại cho ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K để làm phương tiện đi lại. Hiện nay, Công ty còn giữ giấy chứng nhận đăng ký xe số 003346 mang tên Trần Văn Th do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 29/3/2016, Công ty đồng ý trả lại cho ông Th, bà K.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K đã bỏ đi khỏi địa phương nên Tòa án đã niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm

[1]      Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày của bị đơn và căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 309 Bộ luật dân sự, vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản. Trong vụ án này bị đơn ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K cư trú tại khu phố N, phường C, thành phố T, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

[2]      Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[3]      Về nội dung vụ án: Vào ngày 03/6/2019 giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK và ông Trần Văn Th, bà Thị Bích K có ký kết hợp đồng cầm cố tài sản để vay số tiền 10.000.000 đồng, lãi suất 1,26%/tháng, thời hạn cầm cố 06 tháng, ông Th, bà K đã thanh toán cho Công ty tiền gốc và lãi 2.390.000 đồng, còn nợ 8.366.000 đồng thì không thanh toán nữa nên phát sinh tranh chấp.

[4]      Xét hợp đồng cầm cố tài sản số QV 805/HĐ ngày 03/6/2019 giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK và ông Trần Văn Th, bà Thị Bích K là sự tự nguyện thỏa thuận và phù hợp với quy định tại Điều 309 Bộ luật dân sự, lãi suất các bên thỏa thuận phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty đã giao đủ tiền cho ông Th, bà K nhưng ông bà không thực hiện nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết, cần buộc ông Th, bà K thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền là

8.366.000 đồng, trong đó tiền gốc 7.778.000 đồng và tiền lãi 588.000 đồng, ghi nhận ý kiến của Công ty không yêu cầu tính lãi và ghi nhận ý kiến của Công ty trả lại giấy tờ xe cho ông Th, bà K.

[5]      Về án phí sơ thẩm: Buộc ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

1. Buộc ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền 8.366.000 đồng (Tám triệu ba trăm sáu mươi sáu nghìn đồng), trong đó tiền gốc 7.778.000 đồng và tiền lãi 588.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Ghi nhận ý kiến của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK không yêu cầu tính lãi.

3. Ghi nhận ý kiến của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK trả lại cho ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 003346 do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 29/3/2016.

4. Về án phí sơ thẩm: Buộc ông Trần Văn Th và bà Thị Bích K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 418.300 đồng (Bốn trăm mười tám nghìn ba trăm đồng).

Trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0009277 ngày 03 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

5-8

3

Bản án số: 10/2021/DS-ST ngày: 29-4-2021 của TAND thành phố Hà Tiên, tỉnh Hà Giang về việc: “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản”

Nội dung:

Ngày 30/5/2019, ông Trần Văn C và bà Lê Thanh Th đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK ký kết hợp đồng cầm cố tài sản số QV 801/HĐ để vay số tiền 60.000.000 đồng, lãi suất 1,26%/tháng, thời hạn cầm cố 06 tháng, tài sản cầm cố là 01 chiếc xe môtô, nhãn hiệu Yamaha, loại Nozza, màu sơn đen, số máy 1DR1-081788, số khung DR10DY081772, biển số 68N1-06333, giấy chứng nhận đăng ký xe số 007935 mang tên Lê Thanh Th do Công an huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 20/5/2013 và 01 chiếc xe môtô, nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu sơn trắng đen, số máy G3D4E-010202, số khung 0610FY010204, biển số 68N1-11501, giấy chứng nhận đăng ký xe số 002539 mang tên Lê Thanh Th do Công an huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/02/2015.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông C, bà Th đã thanh toán cho Công ty tiền gốc 13.332.000 đồng và tiền lãi 1.008.000 đồng, còn nợ lại tiền gốc

46.668.000 đồng và tiền lãi 3.528.000 đồng thì không thanh toán, Công ty đã nhiều lần yêu cầu nhưng ông bà vẫn không thanh toán. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Văn C và bà Lê Thanh Th thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền 50.196.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Đối với các tài sản cầm cố trên Công ty đã trả lại cho ông Trần Văn C và bà Lê Thanh Th để làm phương tiện đi lại. Hiện nay, Công ty còn giữ giấy chứng nhận đăng ký xe 007935 mang tên Lê Thanh Th do Công an huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 20/5/2013 và giấy chứng nhận đăng ký xe số 002539 mang tên Lê Thanh Th do Công an huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/02/2015, Công ty đồng ý trả lại cho ông C, bà Th.

Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm:

[1]      Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày của bị đơn và căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 309 Bộ luật dân sự, vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản. Trong vụ án này bị đơn ông Trần Văn C và bà Lê Thanh Th cư trú tại khu phố N, phường C, thành phố T, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

[2]      Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Văn C và bà Lê Thanh Th đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[3]      Về nội dung vụ án: Vào ngày 30/5/2019 giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK và ông Trần Văn C, bà Lê Thanh Th có ký kết hợp đồng cầm cố tài sản để vay số tiền 60.000.000 đồng, lãi suất 1,26%/tháng, thời hạn cầm cố 06 tháng, ông C, bà Th đã thanh toán cho Công ty gốc và lãi 14.340.000 đồng, còn nợ 50.196.000 đồng thì không thanh toán nữa nên phát sinh tranh chấp.

[4]      Xét hợp đồng cầm cố tài sản số QV 801/HĐ ngày 30/5/2019 giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK và ông Trần Văn C, bà Lê Thanh Th là sự tự nguyện thỏa thuận và phù hợp với quy định tại Điều 309 Bộ luật dân sự, lãi suất các bên thỏa thuận phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty đã giao đủ tiền cho ông C, bà Th nhưng ông bà không thực hiện nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết, cần buộc ông C, bà Th thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền là

50.196.000 đồng, trong đó tiền gốc 46.668.000 đồng và tiền lãi 3.528.000 đồng, ghi nhận ý kiến của Công ty không yêu cầu tính lãi và ghi nhận ý kiến của Công ty trả lại các giấy tờ xe cho ông C, bà Th.

[5]      Về án phí sơ thẩm: Buộc ông Trần Văn C và bà Lê Thanh Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

1. Buộc ông Trần Văn C và bà Lê Thanh Th thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền 50.196.000 đồng (Năm mươi triệu một trăm chín mươi sáu nghìn đồng), trong đó tiền gốc 46.668.000 đồng và tiền lãi 3.528.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án cònphải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quyđịnh tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Ghi nhận ý kiến của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK không yêu cầu tính lãi.

3. Ghi nhận ý kiến của Công tyTrách nhiệm hữu hạn một thành viên QK trả lại cho ông Trần Văn C, bà Lê Thanh Th giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 007935 do Công an huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 20/5/2013 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 002539 do Công an huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/02/2015.

9-12

4

Bản án số: 30/2020/DS-ST ngày: 16-10-2020 của TAND thành phố Hà Tiên, tỉnh Hà Giang về việc: “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản”

Nội dung:

Ngày 28/5/2018, ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK ký kết hợp đồng cầm cố tài sản số QA 443/HĐ để vay số tiền 40.000.000 đồng, lãi suất 1,66%/tháng, thời hạn cầm cố 06 tháng, tài sản cầm cố là 01 chiếc xe môtô, nhãn hiệu Honda, loại SH Mode, màu sơn trắng nâu, số máy JF51E0921052, số khung 5140GZ118248, biển số 68H1-13108 và giấy chứng nhận đăng ký xe số 009865 mang tên Nguyễn Văn D do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 22/5/2018.

Ngày 25/8/2018, ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh tiếp tục ký hợp đồng cầm cố tài sản số VH 1019/HĐ để vay số tiền 20.000.000 đồng, lãi suất 1,66%/tháng, thời hạn cầm cố 03 tháng, tài sản cầm cố là 01 chiếc xe môtô, nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu sơn đen bạc, số máy HC12E2548078, số khung 1201AY047974, biển số 68H1-02840 và giấy chứng nhận đăng ký xe số 007980 mang tên Nguyễn Văn D do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 12/10/2017.

Ngày 30/8/2018, ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh tiếp tục ký hợp đồng cầm cố tài sản số QA 566/HĐ để vay số tiền 20.000.000 đồng, lãi suất 1,66%/tháng, thời hạn cầm cố 03 tháng, tài sản cầm cố là 01 chiếc xe môtô, nhãn hiệu Piaggio, loại Liberty12, màu sơn trắng, số máy M731M4033616, số khung 3100CV033816, biển số 68H1-12699 và giấy chứng nhận đăng ký xe số 009280 mang tên Nguyễn Văn D do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/3/2018.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông D, bà Nh đã thanh toán cho Công ty được tiền gốc 19.149.000 đồng và tiền lãi 1.430.000 đồng, còn nợ lại tiền gốc 60.851.000 đồng và tiền lãi 4.546.000 đồng. Nay ông yêu cầu ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền là 65.397.000 đồng, ông không yêu cầu tính lãi.

Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm:

[1]      Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày của bị đơn và căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 309 Bộ luật dân sự, vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản. Trong vụ án này bị đơn ông Nguyễn Văn D và bà Trần Thị Nh cư trú tại ấp T, xã Y, thành phố T, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

[2]      Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Trần Thị Nh đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; bị đơn ông Nguyễn Văn D, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn H, bà Giang Thị Quí A có đơn xin vắng mặt nên căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[3]      Về nội dung vụ án: Vào các ngày 28/5/2018, ngày 25/8/2018 và ngày 30/8/2018 giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK và ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh có ký kết hợp đồng cầm cố tài sản để vay số tiền 80.000.000 đồng, ông D bà Nh đã thanh toán cho Công ty 20.579.000 đồng, còn nợ 65.397.000 đồng thì không thanh toán nữa nên phát sinh tranh chấp.

[4]      Xét hợp đồng cầm cố tài sản ngày 28/5/2018, ngày 25/8/2018 và ngày 30/8/2018 giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK và ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh là sự tự nguyện thỏa thuận và phù hợp với quy định tại Điều 309 Bộ luật dân sự và lãi suất các bên thỏa thuận là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Trong quá trình thực hiện hợp đồng Công ty đã giao đủ số tiền vay nhưng khi ông D, bà Nh nhận đủ tiền thì không thanh toán nợ cho Công ty. Tại biên bản ghi lời khai ngày 13/3/2020 (BL 49, 50) ông D thừa nhận nợ và xin khi nào chấp hành án xong thì thanh toán số tiền trên cho Công ty nên cần buộc ông D, bà Nh thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền là 65.397.000 đồng, trong đó tiền gốc 60.851.000 đồng và tiền lãi 4.546.000 đồng, ghi nhận ý kiến của Công ty không yêu cầu tính lãi và ghi nhận ý kiến của Công ty trả lại cho ông D, bà Nh các giấy tờ xe. Tại các bản tự khai của ông H, bà Quí A (BL 59, 64) ông bà khai không yêu cầu ông D, bà Nh trả nợ bảo lãnh trong cùng vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5]      Về án phí sơ thẩm: Buộc ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

1.       Buộc ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK số tiền 65.397.000đ (Sáu mươi lăm triệu ba trăm chín mươi bảy nghìn đồng), trong đó tiền gốc 60.851.000 đồng và tiền lãi

4.546.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2.       Ghi nhận ý kiến của Công ty không yêu cầu tính lãi.

3.       Ghi nhận ý kiến của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên QK trả lại cho ông Nguyễn Văn D, bà Trần Thị Nh giấy chứng nhận đăng ký xe số 009865 mang tên Nguyễn Văn D do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 22/5/2018; giấy chứng nhận đăng ký xe số 007980 mang tên Nguyễn Văn D do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 12/10/2017 và giấy chứng nhận đăng ký xe số 009280 mang tên Nguyễn Văn D do Công an thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/3/2018.

13-18

LINK TẢI PDF: Tổng hợp 15 Bản án tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản

……………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan