Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / Tổng hợp 15 bản án tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

Tổng hợp 15 bản án tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 15 bản án tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

STT

NỘI DUNG

TRANG

Bản án số: 09/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ về Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

Nội dung bản án:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân, Nguyễn Lê Thanh T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của các doanh nghiệp để sử dụng chi tiêu cá nhân.

Khoảng tháng 09/2019, Thanh T nói với Đoàn Lê Trí V muốn mua thông tin về tài khoản ngân hàng của các doanh nghiệp, V nhận lời. V dùng User cá nhân do Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam cấp để truy cập vào mạng nội bộ của ngân hàng bằng máy tính tra cứu thông tin tài khoản của các công ty mở tại các chi nhánh Ngân hàng. Sau đó V dùng điện thoại di động chụp lại màn hình máy tính rồi gửi cho Thanh T qua mạng xã hội “Telegram”. Từ tháng 10/2019 – 11/2019, Thanh T đã mua của V tổng số thông tin về 54 tài khoản ngân hàng của 50 công ty mở tại 06 ngân hàng gồm các thông tin về mẫu hình dấu; mẫu hình chữ ký của chủ tài khoản; mẫu hình chữ ký của kế toán trưởng; số tài khoản; số điện thoại theo dõi biến động số dư tài khoản; sao kê tài khoản. T đã thanh toán cho V số tiền 742.000.000 đồng. Trong tổng số thông tin 54 tài khoản ngân hàng, V trực tiếp lấy thông tin 12 tài khoản, còn lại thông tin 42 tài khoản, V mua của 3 nhân viên ngân hàng là bạn của V, gồm:

– Mua của Nguyễn Thái T 30 tài khoản với tổng số tiền là 106.000.000 đồng, trong số thông tin 30 tài khoản T trực tiếp lấy thông tin 29 tài khoản và 01 tài khoản mua của Nguyễn Vũ Trường An với số tiền 2.000.000 đồng;

– Mua của Lê Thái N 11 tài khoản với tổng số tiền 38.000.000 đồng, trong số 11 tài khoản, N mua của Huỳnh Công D 07 tài khoản với số tiền 5.800.000 đồng, mua của Nguyễn Văn Đ 04 tài khoản với số tiền 2.800.000 đồng.

– Mua của Mai Quốc H 01 tài khoản với số tiền 3.000.000 đồng, H đã mua của Hoàng Đình Nguyên với số tiền theo thỏa thuận là 1.000.000 đồng, tuy nhiên Nguyên chưa nhận được số tiền này.

Như vậy, từ việc bán thông tin tài khoản ngân hàng (sau khi trừ đi số tiền mua thông tin tài khoản) các cá nhân trên được hưởng lợi số tiền như sau: V được 595.000.000 đồng; N được 29.400.000 đồng; Thái T được 104.000.000 đồng; D được 5.800.000 đồng. Đ được 2.800.000 đồng; H được 3.000.000 đồng; An được 2.000.000 đồng.

Sau khi mua được thông tin tài khoản nêu trên, Nguyễn Lê Thanh T đặt mua chứng minh thư, thẻ căn cước giả mang tên giả (nhưng dùng ảnh của các đối tượng trong nhóm của T) để mở tài khoản ngân hàng và đặt mua dấu giả để làm giấy tờ giả như: giấy đăng ký thay đổi số điện thoại theo dõi biến động số dư tài khoản, ủy nhiệm chi, giấy giới thiệu, giấy rút tiền mặt. Sau đó, chỉ đạo Nguyễn Tiến Z, Mạc Đăng K, Nền Ngọc T và Phạm Xuân X thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 3.140.000.000 đồng là số tiền thuộc tài khoản của Công ty CPTM Thép Đông Hưng từ tài khoản tại Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam – Chi nhánh Đền Z.

Tại Cáo trạng số 80/CT-VKS-P2ngày 18/11/2020 truy tố:

– Nguyễn Lê Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” và tội “Làm giả tài liệu của tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a khoản 2 Điều 291 và điểm a, b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự;

– Nguyễn Tiến Z và Mạc Đăng K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Làm giả tài liệu của tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 4 Điều 174 và điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự;

– Phạm Xuân X và Nền Ngọc T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự;

– Đoàn Lê Trí V về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 291 BLHS.

– Nguyễn Thái T về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 291 BLHS.

– Lê Thái N về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” theo quy định tại khoản 1 Điều 291 Bộ luật Hình sự.

Nhận định của Tòa án:

– Hành vi của các bị cáo Nguyễn Lê Thanh T, Nguyễn Tiến Z, Mạc Đăng K, Phạm Xuân X và Nền Ngọc T đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.

– Hành vi của Nguyễn Lê Thanh T, Đoàn Lê Trí V, Nguyễn Thái T, Lê

Thái N đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép thông tin tài khoản ngân hàng” theo quy định tại Điều 291 BLHS.

– Về hành vi Nguyễn Lê Thanh T đã đặt mua các con dấu giả, tự làm ra các tài liệu giả: ủy nhiệm chi, giấy giới thiệu của doanh nghiệp khác. Nguyễn Tiến Z tự điền các thông tin giả vào ủy nhiệm chi, giấy giới thiệu và sử dụng để chuyển tiền từ Công ty CPTM Thép Đông Hưng và tài khoản cá nhân do T chỉ đạo và Mạc Đăng K đã sử dụng CCCD giả để vào Ngân hàng rút khoản tiền do Z làm thủ tục chuyển đến theo sự chỉ đạo của T để cùng chiếm đoạt. Do đó, hành vi của Nguyễn Lê Thanh T đã phạm vào tội “Làm giả tài liệu của tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và hành vi của Nguyễn Tiến Z và Mạc Đăng K đã phạm vào tội “sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điều 341 BLHS.

Vì vậy, có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc truy tố, xét xử đối với các bị cáo với các tội nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

– Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 52 đối với các bị cáo T, Z, Khoa, X và T. Các bị cáo Đoàn Lê Trí V, Nguyễn Thái T và Lê Thái N không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

– Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với bị cáo Nguyễn Lê Thanh T áp dụng khoản 1 Điều 54 để xử bị cáo với mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định; Đối với bị cáo Nguyễn Tiến Z và Mạc Đăng K  áp dụng Điều 54 để xử bị cáo với mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định; Đối với bị cáo Phạm Xuân X và Nền Ngọc T áp dụng khoản 2 Điều 54; Đối với Đoàn Lê Trí V áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; Đối với bị cáo Nguyễn Thái T áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS và Lê Thái N áp dụng điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Bị cáo Nguyễn Lê Thanh T: 11 năm 06 tháng tù, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” và tội “Làm giả tài liệu của tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

– Bị cáo Nguyễn Tiến Z và Mạc Đăng K:10 năm tù, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

– Bị cáo Phạm Xuân X và Nền Ngọc T: 03 năm tù, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

– Bị cáo Đoàn Lê Trí V:  Xử phạt 200.000.000 đồng, tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”;

– Bị cáo Nguyễn Thái T: Xử phạt 100.000.000 đồng, tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”;

– Bị cáo Lê Thái N: Xử phạt 20.000.000 đồng, tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”.

01 – 31

Bản án số: 128/2021/HS-ST ngày 01/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

Nội dung bản án:

Ngày 15/6/2020 bà Phùng Thị T đặt mua 03 cây hoa phong lan với giá 3.700.000 đồng, sau khi bà T chuyển tiền vào tài khoản BIDV mang tên “ VU VAN2 CUONG”, thì không liên lạc được với bên bán, và bên bán cũng không thực hiện như cam cam kết. Quá trình điều tra xác minh, Vũ Văn C là chủ tài khoản mà bà Phùng Thị T chuyển tiền, C khai C mở tài khoản trên tại ngân hàng BIDV theo gợi ý của Phạm Thị N, C mở 9 tài khoản tại các Ngân hàng, bán cho Phạm Thị N với giá 5.000.000 đồng.

Phạm Thị N khai nhận: Khoảng tháng 4/2020 N được bạn là Trần Thị H gợi ý mở tài khoản tại các Ngân hàng bán lại cho H, N dùng căn cước công dân của mình mở 06 tài khoản tại các ngân hàng BIDV, MBbank, Agribank, Techcom bank, Sacombank và TPBank cùng với 02 tài khoản N đã mở trước đó tại Ngân hàng Viettinbak và Vietcombank bán cho Trần Thị H được 5.000.000 đồng, sau đó N gặp Vũ Văn C, Lê Văn L, hướng dẫn những người này mở tài khoản bán cho N. C mở 9 tài khoản, Phạm Thu H mở 8 tài khoản bán cho N được 3.000.000 đồng, Lê Văn L mở 9 tài khoản bán cho N được 5.000.000 đồng. Tổng số 26 tài khoản trên, Phạm Thị N đưa cho Trần Thị H, N được H trả 1.500.000 đồng tiền công.

Trần Thị H khai: Cuối tháng 3/2020, thông qua mạng XH Facebook, H quen một người có nick name “A.Tôm”, người này hướng dẫn H tải phần mềm ứng dụng Telegram để liên lạc, trao đổi cách mở tài khoản tại các Ngân hàng bằng thẻ căn cước công dân của mình đồng thời gửi cho H 01 số điện thoại di động để đăng ký nhận mã OTP từ Ngân hàng, người này sẽ mua lại các tài khoản đó. Trần Thị H mở 06 tài khoản tại các ngân hàng Techcombank, Vietcombank, Viettinbank, MBBank, Sacombank và Agribank sau đó bán lại cho người này tại khu vực ngã tư thị trấn Hậu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa được 5.000.000 đồng, ngoài ra H mua của Phạm Thị N 8 tài khoản bán được 6.500.000 đồng, H đưa cho N 5.000.000 đồng, H được lợi 1.500.000 đồng. Đến đầu tháng 4/2020, H tiếp tục nhận từ N 26 tài khoản thẻ mang tên Vũ Văn C, Lê văn L và Phạm Thu H, Trần Thị H bán số thẻ trên được 19.500.000 đồng cho một người đàn ông không quen biết mà H đã liên hệ như các lần trước, H đưa cho N 15.000.000 đồng để thanh toán cho C, L và Thu H. 1.500.000 đồng tiền công cho N, H được hưởng lợi 1.500.000 đồng. Tổng cộng H được hưởng lợi 3.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số 45/CTr–VKSTP ngày 21/01/2021 truy tố bị cáo Trần Thị H và Phạm Thị Nh về tội “ Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” theo khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự 2015.

Nhận định của Tòa án:

Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 3/2020 đến tháng 4/2020, Trần Thị H và Phạm Thị N gợi ý một số người quen trên địa bàn huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa mở tài khoản tại các Ngân hàng sau đó bán lại kiếm lời.Tổng số tài khoản Trần Thị H đã mua là 34 tài khoản, sau đó H bán cho một người đàn ông không quen biết, số tiền Hà được hưởng lợi là 3.000.000đồng. Phạm Thị N mở 6 tài khoản bán cho Trần Thị H được 5.000.000 đồng, ngoài ra N mua 26 tài khoản của Lê Văn L, Vũ Văn C và Phạm Thu H bán lại cho4 Trần Thị H, tổng số tiền N được hưởng lợi đối với 26 tài khoản là 3.000.000 đồng. Bị cáo H là người khởi xướng việc thu mua tài khoản ngân hàng và hướng dẫn cho N mở tài khoản, thu mua của người khác để bán lại cho H, sau đó H bán lại cho người khác nhằm thu lợi bất chính, H trực tiếp thu mua 34 tài khoản, N thu mua 26 tài khoản. Do đó bị cáo H có vai trò chính và cao hơn bị cáo N là phù hợp.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Bị cáo Trần Thị H và bị cáo Phạm Thị N phạm tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”.

Xử phạt: Trần Thị H 30 tháng cải tạo không giam giữ.  Khấu trừ thu nhập của bị cáo Trần Thị H trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, với số tiền khấu trừ mỗi tháng là 488.700 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

Phạm Thị N 27 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thu nhập của bị cáo Phạm Thị N trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, với số tiền khấu trừ mỗi tháng là 550.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

32 – 37

Bản án số: 134/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

Nội dung bản án:

Khoảng tháng 02/2020 chị Nguyễn Thị M nhận được tin nhắn trên mạng XH Facebook có nick “Desmond lkechi” với nội dung sẽ chuyển cho chị một món quà từ nước Anh, đến cuối tháng 02/2020 chị nhận được điện thoại với nội dung chị có quà gửi từ nước Anh gồm sách và tiền mặt, yêu cầu chị chuyển tiền phí vận chuyển, do tin tưởng chị M đã chuyển 5 lần với tổng số tiền 234.000.000 đồng vào các tài khoản mang tên Nguyễn Văn T2 và Phạm Minh H. Quá trình điều tra xác minh, anh H và T2 khai mở tài khoản ngân hàng theo gợi ý của Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị N, sau khi mở tài khoản T2, H bán cho L và N; L và N sử dụng vào mục đích gì các anh không biết. Ngày 17/03/2020 Nguyễn Thị T và Phạm Thị Phương T đến cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận: vào giữa năm 2019 Phạm Thị Phương T, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị N đi thu mua các tài khoản ngân hàng tại Long An, TP Hồ Chí Minh sau đó đem sang Campuchia bán kiếm lời, cụ thể như sau:

  • Đối với Nguyễn Thị L:

– Bán 01 tài khoản ngân hàng của Nguyễn Văn S (chồng của L) cho Phạm Thị Phương T được 4.600.000 đồng;

– Mua 07 tài khoản ngân hàng của Lê Huỳnh Hoàng A, L trả cho A 2.300.000 đồng/1 tài khoản, các tài khoản này L bán cho T tài khoản A được 3.450.000 đồng, các tài khoản còn lại được 4.600.000 đồng;

– Mua 02 tài khoản ngân hàng qua Lê Huỳnh Hoàng A, L trả cho A 1.500.000 đồng/1 tài khoản. Trong đó L bán cho T tài khoản A được 3.450.000 đồng, còn tài khoản V bán cho Mike được 6.900.000 đồng.

– Mua 04 tài khoản ngân hàng mang tên Nguyễn Văn T2, L trả cho T2 2.300.000 đồng/1 tài khoản. Trong đó L bán cho T tài khoản A và V, được 3.450.000 đồng/tài khoản A và 4.600.000 đồng/tài khoản V; tài khoản V và S L tự bán sang Camphuchia được 6.900.000 đồng/mỗi tài khoản.

– Mua 06 tài khoản ngân hàng mang tên Phan Thế H. L trả cho H 2.000.000 đồng mỗi tài khoản. Trong đó L bán cho T 3 tài khoản được

4.600.000 đồng mỗi tài khoản, còn lại L tự bán sang Camphuchia, 1 tài khoản được 4.600.000 đồng, 2 tài khoản còn lại được 6.900.000 đồng.

– Mua 02 tài khoản ngân hàng mang tên Nguyễn Thị Kim Hằng. Các tài khoản này L tự bán sang Camphuchia được 6.900.000 đồng mỗi tài khoản.

– Mua 04 tài khoản ngân hàng mang tên Đặng Hoàng XuA Trúc. L trả cho Trúc 1.500.000 đồng mỗi tài khoản. Các tài khoản này L chưa kịp bán.

– Mua 03 tài khoản ngA hàng của Nguyễn Thị N. L trả cho N 2.300.000 đồng mỗi tài khoản. Các tài khoản này L bán cho T được 3.450.000 đồng/tài khoản A và 4.600.000 đồng đối với các tài khoản còn lại.

Tổng số tài khoản Nguyễn Thị L đã thu thập và mua là 29 tài khoản. Sau đó đã bán cho Phạm Thị Phương T và các đối tượng người nước ngoài, trong đó có IGBONEKWU/UCHENNA VINCEN mang quốc tịch Nigeria. Hưởng lợi số tiền 68.700.000 đồng.

  • Đối với Nguyễn Thị N:

– N đứng tên mở 3 tài khoản, sau đó bán cho L được 6.900.000 đồng. Ngoài ra N mua 06 tài khoản ngân hàng của Đỗ Thị Kim Hồng. Các tài khoản này bà N bán cho T 1 tài khoản được 1.150.000 đồng và

2.300.000 đồng với các tài khoản còn lại.

– Mua 03 tài khoản ngân hàng của Võ Thị Thủy Tiên. Các tài khoản này N bán cho T 1 tài khoản được 1.950.000 đồng và 3.100.000 đồng đối với các tài khoản còn lại.

– Mua 03 tài khoản ngân hàng của Nguyễn Thị Thanh Hoa. Các tài khoản này bà N thu lời 1.950.000 đồng đối với tài khoản A và 3.100.000 đồng đối với các tài khoản còn lại.

– Mua 03 tài khoản ngân hàng của Phạm Minh H. N trả cho H 1.500.000 đồng mỗi tài khoản. Các tài khoản này bán cho T 1 tài khoản được 3.450.000 đồng và 4.600.000 đồng đối với các tài khoản còn lại.

– Mua 02 tài khoản ngân hàng của Lâm Lê XuA. N trả cho XuA 1.500.000 đồng mỗi tài khoản. Các tài khoản này bán cho T 1 tài khoản được 3.450.000 đồng và 4.600.000 đồng đối với các tài khoản còn lại.

Tổng số tài khoản ngân hàng Nguyễn Thị N đã thu thập, mua bán là 17 tài khoản, hưởng lợi số tiền 42.150.000 đồng.

  • Đối với Phạm Thị Phương T:

– Mua 17 tài khoản của Nguyễn Thị L gồm: 04 tài khoản A và 13 tài khoản khác, thu lời 34.500.000 đồng.

– 17 tài khoản ngân hàng trên của Nguyễn Thị N thu lời 33.350.000 đồng.

– 03 tài khoản ngân hàng của Lâm Lê XuA; và 02 tài khoản ngân hàng của Phạm Hồng Bắc, T trả cho XuA 3.000.000 đồng/1 tài khoản, thu lời 19.500.000 đồng.

– 01 tài khoản của Võ Thị Thủy Tiên, T trả cho bà Tiên 2.500.000 đồng (tài khoản này T chưa kịp bán).

– 03 tài khoản ngân hàng của Nguyễn Thị L, T trả cho L 2.000.000 đồng/1 tài khoản, các tài khoản này bán được 3.000.000 đồng/1 tài khoản, thu lời 3.000.000 đồng.

Tổng số tài khoản Phạm Thị Phương T đã thu thập, mua bán là 43 tài khoản, sau đó T đã bán cho các đối tượng có quốc tịch nước ngoài trong đó có đối tượng ITA ESENI OKORO mang quốc tịch Nigeria, hưởng lợi số tiền 87.850.000 đồng.

Đối với vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” cơ quan điều tra đã có quyết định tách vụ án để điều tra xử L sau.

Tại bản cáo trạng số 368/CT-VKSTP ngày 26/11/2020 của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo Phạm Thị Phương T, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị N về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”.

Nhận định của Tòa án:

Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2019 đến cuối năm 2019, Nguyễn Thị L, Phạm Thị Phương T và Nguyễn Thị N gợi ý một số người quen trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, mở tài khoản

tại các ngân hàng sau đó bán lại cho T, L và N. Tổng số tài khoản Nguyễn Thị L đã mua là 29 tài khoản, sau đó L bán cho Phạm Thị Phương T và các dối tượng nước ngoài, số tiền L được hưởng lợi là 68.700.000 đồng; Phạm Thị Phương T mua 43 tài khoản (trong đó mua lại của Nguyễn Thị L là 17 tài khoản; Mua của N 17 tài khoản), sau đó T bán lại cho các đối tượng người nước ngoài, tổng số tiền T được hưởng lợi là 87.850.000 đồng; Nguyễn Thị N mở 03 tài khoản bán cho Nguyễn Thị L được 6.900.000 đồng; ngoài ra Nguyệt mua 17 tài khoản của những người khác bán cho Phạm Thị Phương T, tổng số tiền Nguyệt được hưởng lợi là 42.150.000 đồng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đối với bị cáo T áp dụng điểm s,i khoản 1, 2 Điều 51 BLHS; khoản 1,2,5 Điều 65 BLHS. Đối với bị cáo L áp dụng điểm s,i khoản 1, 2 Điều 51 BLHS; khoản 1,2,5 Điều 65 BLHS. Đối với bị cáo N áp dụng điểm s,i khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 36 BLHS.

Hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo T, L mỗi bị cáo 20.000.000 đồng, bị cáo N 10.000.000 đồng.

Truy thu bị cáo Phạm Thị Phương T số tiền 87.850.000 đồng, Nguyễn Thị L số tiền 68.700.000 đồng, Nguyễn Thị N số tiền 42.150.000 đồng là tiền do các bị cáo phạm tội mà có để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Các bị cáo Phạm Thị Phương T; Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị N phạm tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngA hàng”

Xử phạt:

Phạm Thị Phương T 15 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguyễn Thị L 12 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguyễn Thị N 30 tháng cải tạo không giam giữ.

Phạt bổ sung đối với các bị cáo T, L mỗi bị cáo 20.000.000 đồng, bị cáo Nguyệt 10.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước

38 – 48

Bản án số: 52/2021/HS-ST ngày 22/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Đinh, tỉnh Nam Định về Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

Nội dung bản án:

Khoảng tháng 02/2020 có một người sử dụng số điện thoại lạ gọi đến số điện thoại của Hoàng Thị X để nhờ X mở tài khoản ngân hàng và bán lại cho họ. Các tài khoản ngân hàng này được đăng ký Internet Banking bằng các số điện thoại do họ cung cấp. Sau khi X bán một số tài khoản ngân hàng của mình cho người này được số tiền 1.200.000 đồng, X thấy lợi nhuận cao nên đi tìm người mở tài khoản ngân hàng để thu mua về và bán lại cho bên thứ ba hưởng tiền chênh lệch. Khoảng tháng 4/2020, X từ thành phố Hà Nội về gặp 19 người chủ yếu là học sinh, sinh viên tại cổng Thư viện tỉnh Nam Định, tại đây, X nói dối mình là nhân viên ngân hàng tại Hà Nội đang cần thu mua nhiều tài khoản ngân hàng khác nhau để chạy chỉ tiêu công tác. X thống nhất cách thức mở tài khoản ngân hàng như sau: Người đi mở tài khoản ngân hàng phải đăng ký mở tài khoản bằng số chứng minh thư nhân dân hoặc số căn cước công dân của bản thân, còn số điện thoại để đăng ký dịch vụ Internet Banking là số điện thoại mà X cung cấp. X trả cho người mở tài khoản ngân hàng với giá 150.000 đồng/01 tài khoản. Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2020 đến tháng 5/2020, X đã thu mua được 60 tài khoản ngân hàng của 19 người này.

Bản cáo trạng số 43/CT-VKS-TP.NĐ ngày 01/02/2021 của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Hoàng Thị X về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” theo điểm a khoản 2 Điều 291 Bộ luật Hình sự.

Nhận định của Tòa án:

Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2020 đến tháng 5/2020, tại khu vực cổng Thư viện tỉnh Nam Định, bị cáo Hoàng Thị X đã có hành vi vận động, thuyết phục 19 người khác mở tài khoản và đăng ký dịch vụ Internet Banking tại 07 ngân hàng khác nhau. Sau đó mua lại thông

tin các tài khoản ngân hàng đó với giá từ 100.000 đồng/01 tài khoản đến 150.000 đồng/01 tài khoản. Tổng số tài khoản ngân hàng mà bị cáo X đã mua là 60 tài khoản, với số tiền bị cáo đã trả cho những người mở tài khoản ngân hàng là 7.900.000 đồng. Sau đó bị cáo Hoàng Thị X đã bán lại thông tin của 39 tài khoản ngân hàng cho người khác, được số tiền 25.800.000 đồng, thu lợi bất chính 17.900.000 đồng.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị X phạm tội “Mua bán trái phép thông tin

về tài khoản ngân hàng của người khác”. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị X 03 tháng tù.

49 – 63

Bản án số: 69/2021/HS-ST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang về Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

Nội dung bản án:

Khoảng tháng 5/2020 thông qua mạng xã hội Wechat, Vàng A N có quen người đàn ông Trung Quốc tên XX. Đến tháng 11/2020 XX có

sử dụng mạng xã hội Wechat gọi cho Vàng A N hỏi và đặt vấn đề: XX nói: “Mở tài khoản ngân hàng để bán cho ông chủ người Trung Quốc”, “sẽ trả 2.500 NDT trên một tài khoản nhưng giữ lại 500 NDT là tiền công giới thiệu và lấy hộ tiền”, N đồng ý. Sau đó N nhận được cuộc gọi từ một phụ nữ đặt vấn đề mua tài khoản ngân hàng với giá 2.500NDT/tài khoản, N đồng ý. Đến tháng 12/2020 N có rủ bạn là Đinh Văn B, đi mở tài khoản ngân hàng để bán cho khách người Trung Quốc với giá 2.000 NDT/tài khoản và chia nhau mỗi người 1.000NDT thì B đồng ý. N tiếp tục gọi điện thoại cho cháu ruột là Hoàng A P đi Hà Nội mở tài khoản cùng với B. N yêu cầu P kết bạn với tài khoản Zalo tên “Na Na” để sau khi mở tài khoản thì chụp ảnh và gửi các thông tin cho Na Na. Đến khoảng tháng 01/2021, N có gọi qua Wechat hỏi XX về số tiền bán tài khoản ngân hàng thì được XX nói là nhận được 05 tài khoản và sẽ đưa cho N 10.000 NDT. Sau khi nhận được tiền, N mang đi đổi được 35.000.000 đồng và trừ chi phí đưa cho P 4.000.000 đồng từ trước, B được 7.000.000 đồng còn N được 24.000.000 đồng. Số tiền này N đã sử dụng vào việc chi tiêu cá nhân hết.

Cáo trạng số 18/CT-VKS-P1 ngày 07/10/2021 của Viện Kiểm sát truy tố bị cáo Vàng A N về tội “Tội mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” theo quy định tại khoản 1 Điều 291 của Bộ luật Hình sự.

Nhận định của Tòa án:

Bị cáo Vàng A N là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi Mua bán tài khoản ngân hàng chưa được phép của cơ quan tổ chức có thẩm quyền là vi phạm pháp luật; song vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã bất chấp pháp luật; bị cáo đã trao đổi với Hoàng A P, Nguyễn Văn Q1, Hoàng Văn C mở tài khoản tại ngân hàng để bán cho các đối tượng ở nước ngoài thu lợi bất chính với số tiền 35.000.000 đồng. Sau khi N bán thông tin các số tài khoản trên cho các đối tượng người Trung Quốc thì đến ngày 29/01/2021, các đối tượng đã sử dụng 03 tài khoản để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 1.450.000.000 đồng của bà Trần Thị Kim M. Hành vi của bị cáo Vàng A N là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” quy định tại khoản 1 Điều 291 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố: Bị cáo Vàng A N phạm tội “Mua bán trái phép thông tin về

tài khoản ngân hàng”. xử phạt bị cáo Vàng A N 18 tháng cải tạo không giam giữ.

64 – 73

Bản án số: 02/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang về Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

Nội dung bản án:

Khoảng tháng 11/2020, Nguyễn Trọng Q sử dụng tài khoản Zalo kết bạn với 01 tài khoản có tên là K. Q được K đặt vấn đề mua tài khoản ngân hàng của Q với giá 3.000.000 đồng/01 tài khoản. Q đồng ý, sau đó Q rủ Lương Tuấn V, V đồng ý, Q đưa V đến Ngân hàng mở tài khoản. Sau đó Q trả V 500.000 đồng tiền thuê tài khoản, rồi bán 02 tài khoản và thẻ ngân hàng của V và Q cho K được 6.000.000 đồng. Sau khi trừ chi phí V thu lợi 400.000 đồng, Q thu lợi 5.000.000 đồng. Đến tháng 3/2021, Q tìm được 03 người mở 03 tài khoản gồm: Hoàng Thị C, Nguyễn Văn Hoàng N, Trần Văn T. Sau khi bán 03 tài khoản ngân hàng cho K được 9.000.000 đồng, trừ số tiền 4.000.000 trả cho những người mở tài khoản và chi phí mở thẻ 350.000 đồng, Q thu lợi 4.650.000 đồng. Ngoài ra, Q bảo Lương Tuấn V và 03 người khác đi thu thập tài khoản gồm: Nguyễn Hoàng T, Hoàng Thế V, Phạm Văn T.

– Đối với Nguyễn Hoàng T, T tìm được 07 người mở tài khoản, tổng số T chuyển cho Q 08 tài khoản và 08 thẻ ngân hàng, Q trả 16.000.000 đồng, trong đó chi phí mở 08 thẻ ngân hàng là 2.650.000 đồng và đưa cho 07 người mở tài khoản và thẻ ngân hàng là 3.250.000 đồng. T thu lợi 10.100.000 đồng. Tổng số tiền Q bán 08 tài khoản và thẻ ngân hàng cho K là 24.000.000 đồng, trừ đi 16.000.000 đồng đã trả cho T, Q thu lợi 8.000.000 đồng.

– Đối với Hoàng Thế V: V bảo Nguyễn Văn Hoàng N tìm người mở tài khoản ngân hàng. Sau đó N tìm được 08 người, mở được 08 tài

khoản và 08 thẻ ngân hàng VietinBank và đưa cho V. Sau đó V đưa lại cho Q. Tổng số V chuyển cho Q 09 tài khoản và 09 thẻ ngân hàng, Q trả 22.500.000 đồng. Số tiền V đưa cho N là 16.000.000 đồng/ 08 tài khoản và 08 thẻ ngân hàng. Trừ chi phí, V thu lợi 6.150.000 đồng. Tổng số tiền Q bán 09 tài khoản và thẻ ngân hàng cho K là 27.000.000 đồng, trừ đi 22.500.000 đồng đã trả cho V, Q thu lợi 4.500.000 đồng. N nhận tổng số 18.000.000 đồng từ V và Q, đã trả cho 08 người mở tài khoản tổng số 9.800.000 đồng, N thu lợi 5.200.000 đồng.

– Đối với Lương Tuấn V: V tìm được 02 người, mỗi người mở 01 tài khoản và 02 thẻ. Tổng số V chuyển cho Q 02 tài khoản/04 thẻ ngân hàng, Q trả cho V 4.000.000 đồng. V trả cho 02 người mở tài khoản là 1.500.000 đồng. Tính cả số tiền 400.000 đồng thu lợi từ việc bán thẻ ngân hàng riêng cho Q, tổng V thu lợi từ việc bán thẻ ngân hàng là 2.200.000 đồng. Sau đó Q bán 02 tài khoản và thẻ ngân hàng cho K là 6.000.000 đồng, trừ đi 4.000.000 đồng đã trả cho V, Q thu lợi 2.000.000 đồng.

– Đối với Phạm Văn T: T đã rủ Khổng Văn T cùng mở thẻ ngân hàng. T chuyển cho Q 02 tài khoản và 02 thẻ ngân hàng, Q trả 2.000.000 đồng. T trả cho T 400.000 đồng, T thu lợi 1.250.000 đồng. Tổng số

tiền T thu lợi sau khi chuyển tài khoản và thẻ cho Q và V là 1.950.000 đồng. Tổng số tiền Q bán 02 tài khoản và thẻ ngân hàng cho K là 6.000.000 đồng, trừ đi 2.000.000 đồng đã trả cho T, Q thu lợi 4.000.000 đồng.

Sau khi thu thập được những tài khoản nêu trên, Nguyễn Trọng Q đã bán cho “K” 26 tài khoản ngân hàng, Q nhận được từ “K” số tiền 78.000.000 đồng, sau khi trừ chi phí mở tài khoản ngân hàng và chi phí mua các tài khoản ngân hàng, Nguyễn Trọng Q thu lợi bất chính 28.150.000 đồng, toàn bộ số tiền này Q đã sử dụng tiêu sài cá nhân hết.

Tại Cáo trạng số 77/CT-VKSHY ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát đã truy tố Nguyễn Trọng Q về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” theo quy định tại khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự.

Nhận định của Tòa án:

Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2020 đến 5/2021, Nguyễn Trọng Q đã có hành vi thu thập 26 tài khoản ngân hàng sau đó bán tổng số 26 tài khoản ngân hàng cho người có tài khoản Zalo tên “K” thu lợi bất chính 28.150.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng Q, phạm tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Q 9 tháng cải tạo không giam giữ.

74 – 85

LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 15 bản án tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan