Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 15 BẢN ÁN TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM TUYÊN HUỶ ÁN SƠ THẨM DO XUẤT HIỆN TÌNH TIẾT MỚI

TỔNG HỢP 15 BẢN ÁN TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM TUYÊN HUỶ ÁN SƠ THẨM DO XUẤT HIỆN TÌNH TIẾT MỚI

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 15 BẢN ÁN TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM TUYÊN HUỶ ÁN SƠ THẨM DO XUẤT HIỆN TÌNH TIẾT MỚI” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 15 BẢN ÁN TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM TUYÊN HUỶ ÁN SƠ THẨM DO XUẤT HIỆN TÌNH TIẾT MỚI

STT

NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án số: 142/2017/DS-PT ngày 31 tháng 8 năm 2017 Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

V/v: “Tranh chấp quyền về lối đi qua bất động sản liền kề”.

Nội dung vụ án:

Bà T yêu cầu được mở lối đi qua bất động sản liền kề có chiều ngang 1,5m x chiều dài 5m (vị trị bất kỳ) tại địa chỉ 858/7 đường N, Khu phố A, phường H, Tp. G, Kiên Giang thuộc quyền sở hửu nhà gắn liền quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Ngọc T, phía bà T đồng ý trả tiền đất cho ông Ngọc T theo giá thị trường. Ông T không đồng ý, diện tích đất ông đang sử dụng là 8,65m x 5 m  có nguồn gốc nhận chuyển nhượng từ bà NLQ1 cho 05 hộ dân trong đó có ông, hiện nay ông đã cất nhà trên phần diện tích đất bà T xin mở lối đi. Do diện tích nhận chuyển nhượng của từng hộ quá nhỏ không đủ điều kiện để tách thửa riêng cho từng hộ nên giữa bà NLQ3 và 05 hộ nêu trên có lập giấy thỏa thuận về việc chuyển nhượng QSD đất ngày 17/9/2011 (có xác nhận của đại diện Khu phố A, phường H), các bên thống nhất giao giấy chứng nhận QSD đất bản chính cho bà NLQ4 giữ  Nếu bà T có nhu cầu về lối đi thì ông đồng ý chuyển nhượng lại toàn bộ căn nhà chứ không thể đập nhà để tạo lối đi ngang 1,5m như yêu cầu khởi kiện của bà T.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Kim T về việc yêu cầu: “Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề” đối với bị đơn ông Nguyễn Ngọc T.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Xét nội dung kháng cáo của bà T, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, phía ông Nguyễn Ngọc T có lời khai ngày 21/8/2017 về phần đất ông đang sử dụng tọa lạc tại số 858/7 đường N, Khu phố A, phường H, Tp. G, Kiên Giang ông đã làm thủ tục chuyển nhượng và giao toàn bộ hồ sơ xong cho bà Bé T làm ở Văn phòng Tỉnh uỷ và đã nhận tiền đủ, do đất có diện tích nhỏ không đủ điều kiện tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên vẫn còn nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà NLQ4, hiện nay ông không còn chủ sở hửu nhà gắn liền quyển sử dụng đất tọa lạc tại số 858/7 đường N, Khu phố A, phường H, Tp. G, Kiên Giang .

Xét đây là tình tiết mới phát sinh tại giai đoạn phúc thẩm, nếu giải quyết chấp nhận yêu cầu của bà T thì sẽ không thi hành án được, mặt khác trong biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 12/11/2015 do Tòa án cấp sơ thẩm lập không thể hiện rỏ hiện trạng các phần đất phía trước giáp ranh nhà của ông Ngọc T có cất nhà ở hay đất trống không nên cần làm rõ thêm ngoài quyền sử dụng đất của ông Ngọc T gắn liền căn nhà ở nay đã chuyển nhượng cho bà Bé T thì còn phần đất nào khác nào còn trống thuận lợi để mở lối đi khác theo yêu cầu của bà T hay không vì yêu cầu hiện nay của bà T xin mở lối đi qua bất động liền kề đã có căn nhà của ông Ngọc T.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 18/2017/DS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung.

1

2

Bản án số: 156/2017/DS-PT ngày 29 tháng 9 năm 2017 Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và Xin hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Nội dung vụ án:

Bà Lâm Thị X khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn T trả lại phần diện tích đất 91,3m2 là di sản thừa kế do cha mẹ Bà Lâm Thị X để lại cho các chị em bà X1, ông U, bà X2. Đồng thời yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AM 611505 ngày 25/4/2008, Ủy ban nhân dân thành phố B đã cấp cho ông Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Kim A đối với phần diện tích đất đất 91,3m2 thửa đất số 73, tờ bản đồ số 17, tọa lạc tại phường T, Thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Bà X cho rằng, năm 1980 baø Trương Thị H là người quen của gia đình, có xin bà P (Mẹ bà X) cho che tạm một căn chòi nhỏ trên phần đất để sinh sống. Căn nhà tạm bà H sinh sống được giao lại cho người cháu là ông Nguyễn Văn T trông giữ. Ông T cho biết ông mua diện tích đất đang tranh chấp từ bà H và không đồng ý yêu cầu của bà X

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lâm Thị X đối với ông Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Kim A trả lại diện tích đất 91,3m2, tại thửa số 73, tờ bản đồ số 17, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 611505 Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp cho ông Nguyễn Văn T và bà Hồ Thị Kim A ngày 25/4/2008.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Nguyên đơn chưa chứng minh được đất cho bà H mượn nhưng bị đơn đã ở trên đất từ năm 1993, bà H đã chuyển đi nơi khác ở, có nhà, đất ở nơi khác tại sao khi còn sống, cha mẹ nguyên đơn không tranh chấp, không đòi lại.

– Bị đơn khai đất tranh chấp là đất bồi, do bà Trương Thị H khai phá năm 1978, làm nhà ở đến năm 1993 bán nhà cho bị đơn ở đến nay không ai tranh chấp. Bị đơn cũng chưa thu thập chứng cứ chứng minh khu vực đất tranh chấp có đất bồi không, nếu có thì ngoài đất bị đơn còn có những hộ khác sử dụng không?

– Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn khai rằng ngoài đất được cấp trong Trích lục địa bộ thì gia đình nguyên đơn còn khai phá thêm năm 1967 là 2.705m2 việc này ở sơ thẩm nguyên đơn chưa khai, chưa được làm rõ. Nguyên đơn còn cho rằng năm 1994, cháu là Lâm Tấn Đạt khiếu nại ra phường tranh chấp đất với bị đơn. Điều này tại cấp phúc thẩm nguyên đơn mới trình bày, chưa được làm rõ có hay không?

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 66/2017/DS–ST ngày
16/6/2017của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa giải quyết Tranh chấp quyền sử dụng đất và X2ủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn Lâm Thị X1 với ông Nguyễn Văn T bà Hồ Thị Kim A.

Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

7

3

Bản án số: 43/2021/DS-PT ngày 28 tháng 10 năm 2021 Toà án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất.

Nội dung vụ án:

Ông Hoàng Văn L và ông Hoàng Văn A tranh chấp diện tích 5145,8m tọa lạc tại bon P, xã T, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông có tứ cận: Phía Đông giáp đất ông Nguyễn Đăng L, phía Tây giáp rừng cảnh quan QL14, phía Nam giáp đường đi và đất ông O, phía Bắc giáp đất ông Trịnh Văn P và ông Nguyễn Quang S. Ông L cho rằng đây là diện tích đất ông khai hoang năm 1993 và canh tác, sau đó cho ông Phạm Quang R mượn đến 2005, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đo đạc thuộc thửa đất số 109, tờ bản đồ số 16 đứng tên ông. Khoảng tháng 5-2014, khi gia đình ông đang canh tác thì ông Hoàng Văn A và ông Nguyễn Phi T đến tranh chấp, sau đó dựng nhà và trồng cây trên đất. Ông L khởi kiện yêu cầu ông A, ông Th, bà B phải trả lại diện tích đất này, di dời tài sản trên đất, tài sản nào không di dời được ông đồng ý bồi thường theo kết quả định giá. Ông A cho rằng, năm 1995, ông A nhận chuyển nhượng của ông Hoàng Văn H diện tích đất khoảng 01ha (giáp đất tranh chấp). Sau khi nhận chuyển nhượng, ông A thấy phần đất phía trên giáp QL14 là đất rừng nguyên sinh nên đã cùng ông Nguyễn Phi T, ông Nguyễn Đức Th khai hoang thêm khoảng 1,5ha (giáp phần đất mua của ông Hiến). Phần đất khai hoang thêm có tứ cận: Phía Đông giáp đất ông Nguyễn Ngọc D, phía Tây giáp đường QL14, phía Nam giáp đất mua của ông H, phía Bắc giáp đường be. Năm 1997 ông A chuyển nhượng 01ha đất mua của ông H cho ông Lê Viết M. Phần đất khai hoang thêm 1,5ha các ông tiếp tục canh tác đến năm 2000 thì xảy ra tranh chấp với ông Nguyễn Long C. Hai bên thỏa thuận ông A, ông T, ông Th được sử dụng 33m mặt đường QL14, chiều dài khoảng 150m; ông C được sử dụng 83m mặt đường QL14. Sau đó do không có điều kiện canh tác nên ông A, ông T, ông Th để đất trống, đến năm 2013 thì phát hiện ông L làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai số: 987/QĐ-UBND ngày 22-9-2016 của Chủ tịch UBND huyện Đ nêu trên do giải quyết sai thẩm quyền nên đã bị hủy vào ngày 31-5-2017 theo Quyết định số: 705/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện Đ, nhưng quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm không xác minh làm rõ vị trí, diện tích đất các bên đang tranh chấp có thuộc các tiểu khu mà Nhà nước giao cho Lâm trường TX quản lý và đã thu hồi theo Quyết định số: 211/QĐ-UB nêu trên hay không để đánh giá chứng cứ cho chính xác.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông L và ông T cung cấp thêm tình tiết mới là năm 2017, ông T đã chuyển nhượng một phần diện tích đất đang tranh chấp cho ông Trần Kiều G và hiện nay ông G có hành vi san lấp mặt bằng trên đất. Do vậy, trường hợp này cần xác định và đưa ông G vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Văn A, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 60/2021/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

21

4

Bản án số: 648/2018/KDTM-PT ngày 02 tháng 7 năm 2018 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

V/v: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

Nội dung vụ án:

Ngày 22 tháng 11 năm 2014 giữa Công ty THNN ĐP (sau đây gọi tắt là nguyên đơn) và Công ty Cổ phần QT (sau đây gọi tắt là bị đơn) có ký Hợp đồng dịch vụ số 25112014/2RES-IDM và phụ lục 01 (dự toán) với nội dung nguyên đơn nhận thực hiện việc thiết kế, dàn dựng và tổ chức chương trình “Triệu dặm tri ân – sải cánh vươn xa” cho bị đơn với giá trị hợp đồng là 2.642.797.300 đồng. Sau khi ký hợp đồng, bị đơn đã tạm ứng 500.000.000 đồng. Thực hiện hợp đồng, nguyên đơn đã hoàn thành công việc theo đúng thỏa thuận và hai bên đã ký biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng vào ngày 22 tháng 12 năm 2014 với giá trị nghiệm thu là 2.824.407.544 đồng và bị đơn xác nhận còn nợ nguyên đơn số tiền 2.324.407.544 đồng. Sau đó bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn số tiền 1.242.839.190 đồng và còn nợ lại 1.081.568.354 đồng. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn tại Tòa án và buộc bị đơn trả: Nợ gốc: 1.081.568.354 đồng, phạt vi phạm 08%: 86.525.468 đồng, lãi do chậm thanh toán (tạm tính từ ngày 22/2/2015 đến ngày 20/11/2017)là 406.804.897 đồng theo lãi suất cơ bản 0,75%/tháng. Tổng cộng: 1.574.898.719 đồng. Thực hiện trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Bị đơn trình bày đã thanh toán 1.742.839.190 đồng, khi thực hiện hợp đồng, nguyên đơn có vi phạm dẫn đến chất lượng chương trình không đạt. Do đó không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Ngày 28 tháng 6 năm 2018 bị đơn có đơn đề nghị trưng cầu giám định 08 đãi phim mà phía nguyên đơn cung cấp có phải là bản gốc hay không. Xét căn cứ khoản 2 Điều 91, Điều 96, Điêu 102 về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cũng như quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định thì yêu cầu của bị đơn là có cơ sở,. Đồng thời căn cứ vào Khoản 2 Điều 318 Luật Thương mại thì: “Trong thời gian 06 tháng kể từ ngày giao hàng, bên nhận hàng được quyền khiếu nại về chất lượng hàng hóa”. Do đó, để làm sáng tỏ sự thật vụ án, để đánh giá chất lượng dịch vụ có đạt hay không thì ngoài biên bản nghiệm thu thì đĩa gốc cũng là 1 trong những chứng cứ để đánh giá một cách toàn diện vụ án.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn là Công ty Cổ phần QT. Hủy bản án sơ thẩm số Bản án số 149/2018/KDTM-ST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân Quận T. Giao hồ sơ về Tòa án nhân dân Quận T để giải quyết theo thủ tục chung. Hủy án do phát sinh tình tiết mới nên cấp sơ thẩm không có lỗi.

29

5

Bản án số: 163/2018/DS-PT ngày 18 tháng 10 năm 2018 Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

V/v: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Nội dung vụ án:

Ngày 17/9/2015, ông L cho gia đình ông Lê Văn G (chồng) và bà Dương Thị Y (vợ) cùng con gái là chị Lê Thị Hoàng O (sau đây viết tắt là gia đình bà Y) vay số tiền là 476.000.000 đồng, thời gian vay là 01 tháng, tiền lãi là 15.000.000 đồng/tháng. Để làm tin, gia đình bà Y cầm cố 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 900247 ngày 03/11/1999 do Ủy ban nhân dân huyện VC cấp cho ông Nguyễn Văn N và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 900232 ngày 03/11/1999 do Ủy ban nhân dân huyện VC cấp cho hộ bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1945. Hai thửa đất này bà Y nói đã mua nhưng chưa sang tên. Khi vay tiền hai bên có làm “Hợp đồng vay tiền và cầm cố tài sản”, hợp đồng có 02 người làm chứng là ông Hồ Ngọc U và ông Đỗ Quang L1. Đồng thời gia đình bà Y có làm Giấy cam kết trả tiền ngày 17/9/2015 với nội dung ngày 17/10/2015 gia đình bà Y sẽ trả cho ông số tiền là 341.600.000 đồng và ngày 30/5/2016 sẽ trả cho ông số tiền là 150.000.000 đồng. Từ khi làm hợp vay cho đến nay, gia đình bà Y không trả tiền mặc dù ông đã đến nhà để yêu cầu trả tiền rất nhiều lần. Nay ông L yêu cầu gia đình bà Y trả số tiền 476.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất; ông L đồng ý trả lại 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bà Y. Bà y trình bày, có mượn của ông Đỗ Quang L1 số tiền là 290.000.000 đồng và hẹn ông L, ông U đến nhà của anh L (là nơi ông bà thuê tại Biên Hòa để bán quán cơm) để trả tiền và lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi trả số tiền là 290.000.000 đồng thì ông U nói phải trả thêm số tiền lãi là 150.000.000 đồng mới trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Y và ông U tính toán số tiền nợ gốc, lãi còn lại là 476.000.000 đồng. Gia đình bà không đồng ý  trả số tiền 476.000.000 đồng nhưng đồng ý với việc ông L đề nghị trả lại GCNQSDĐ.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Qua lời khai của các nguyên đơn, bị đơn và nhân chứng là anh Đỗ Quang L1 cho thấy: Tại phiên tòa anh L khẳng định bà Y, ông Gvà chị O có vay anh số tiền 476.000.000 đồng. Chứng cứ anh L đưa ra là “hợp đồng vay tiền và cấm cố tài sản” và giấy cam kết trả tiền đề ngày 17/9/2015. Anh đã giao cho bà Y, ông G và chị O số tiền 476.000.000 đồng nên gia đình bà Y đã ký vào giấy vay tiền và giấy cam kết trả tiền. Lời khai của anh L không được bà Y thừa nhận và có nhiều mâu thuẫn, vì trong giấy cam kết có ghi số tiền lãi 15.600.000 đồng, trong khi đó anh L trình bày lãi suất cho vay là 5% một tháng là không trùng khớp. Anh L1 là nhân chứng ký vào hợp đồng vay tiền khai phù hợp với lời trình bày của bà Y. Anh cũng trình bày khi anh đến hai bên đã tính toán số nợ còn lại rồi mới viết giấy vay nợ. Anh có ký làm chứng vào giấy vay tiền, bản thân anh lúc đó đưa cho bà Y 290.000.000 đồng để đưa cho anh U và anh không thấy anh L đưa cho bà Y 476.000.000 đồng.

Mặt khác tại phiên tòa phúc thẩm, ông Gkhai ông và bà Y có chung sống một thời gian và có một con chung là chị Lê Thị Hoàng O sau đó cả hai đã ly thân hơn 20 năm nay, ông và con gái không biết việc làm ăn và nợ tiền của bà Y, ông và chị O ký vào giấy vay tiền và cam kết trả nợ là do bị anh L ép buộc.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 03/2018/DSST ngày 01/02/2018 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của Tòa án nhân dân huyện VC xét xử tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn anh Nguyễn Thanh L vời bị đơn ông Lê Văn G, bà Dương Thị Y, chị Lê Thị Hoàng O; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện VC để xét xử sơ thẩm lại vụ án theo theo đúng quy định của pháp luật.

36

 XEM THÊM TẠI FILE PDF

LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 15 BẢN ÁN TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM TUYÊN HUỶ ÁN SƠ THẨM DO XUẤT HIỆN TÌNH TIẾT MỚI

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan