Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tranh chấp về thỏa thuận, hợp đồng miệng trong dân sự

Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tranh chấp về thỏa thuận, hợp đồng miệng trong dân sự

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tranh chấp về thỏa thuận, hợp đồng miệng trong dân sự” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tranh chấp về thỏa thuận, hợp đồng miệng trong dân sự

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

Bản án số: 64/2018/DSST ngày 21/11/2018 của TAND huyện Châu Thành – tỉnh Đồng Tháp về việc: “V/v Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất”

Nội dung: Vào năm 1985 ông Nguyễn Văn H (NVH) là cha của ông Nguyễn Ngọc D có đến hỏi mẹ ông là bà Nguyễn Thị X (chết năm 2012) chuyển đổi đất để ông H cho ông D cất nhà ở. Phần đất đổi đều là đất trồng lúa, đất của mẹ ông phía ngoài biền, đất của ông NVH nằm phía sau đất của mẹ ông. Phần đất biền của mẹ ông đổi cho ông NVH lúc đổi đo bằng tầm diện tích tương đương 500m2, trong đó đầu biền giáp với kinh thiên nhiên đổi cho ông NVH 3 tầm, tương đương 7,8m (còn chừa lại 5,7m), khoảng giữa đầu biền trở vô đổi 3,5 tầm, tương đương 9,10m (còn chừa lại là 4,40m), khoảng cuối là 4 tầm, tương đương 10,40m (còn chừa lại 3,10m) khi đổi đất chính ông đo đạc giao cho ông H Nh phần đất đổi, ông NVH cũng giao cho ông phần đất tương ứng 500m2 của ông NVH. Việc chuyển đổi đất chỉ thỏa thuận miệng, không có làm giấy tờ, sau khi trao đổi thì hai bên đã sử dụng ổn định từ năm 1985 đến nay.

Năm 1995 ông đi kê khai đăng ký phần đất của ông cùng với phần đất đổi và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận QSD đất và cấp đổi lại vào năm 2008 thuộc thửa số 196, tờ bản đồ số 50, diện tích 5.882m2 loại đất trồng lúa cấp cho hộ ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị NH. Ông Nguyễn Ngọc D cũng được ông NVH cho phần đất đổi của mẹ ông và ông D được cấp giấy vào năm 1995 và cấp đổi vào năm 2014 thửa số 80, tờ bản đồ số 50, diện tích 1.506m2 (trong đó đất ở tại nông thôn 300m2, đất trồng cây lâu năm 1.206m2) và thửa số 115, tờ bản đồ số 50, diện tích 955m2, đất trồng lúa. Ông D san lắp, bồi đắp đất ruộng để cất nhà ở và trồng cây giáp với kênh thiên nhiên sử dụng đất từ năm 1986 cho đến nay. Sau khi chuyển đổi đất thì ông vẫn sử dụng phần đất của ông còn chừa lại để làm lối đi ra thửa đất 196, nhưng đến năm 2008 ông D không cho ông đi trên phần đất đó nên ông mới khởi kiện đến Ủy ban nhân dân xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp hòa giải ông NVH cũng thừa nhận diện tích đổi như ông vừa trình bày thì ông mới phát hiện ông D đã kê khai đăng ký hết phần đất còn lại của ông. Qua đo đạc thực tế thì phần đất ông chừa lại ông D đã kê khai đăng ký: phía đầu biền có diện tích 126m2 thuộc thửa số 80, phía đầu trong diện tích 69m2 thuộc thửa số 115 nên ông khởi kiện yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất phần đất ông đổi còn chừa lại, chứ ông không có tranh chấp phần lối đi. Nay hộ ông Nguyễn Văn H yêu cầu hộ ông Nguyễn Ngọc D giao trả lại cho hộ ông H sử dụng diện tích 126m2 đất trồng cây lâu năm thuộc một phần thửa số 80, 3 tờ bản đồ số 50 vị trí tranh chấp nằm trong phạm vi các mốc 1,2,3,4,5,6,9,10,1, và diện tích 69m2 thuộc một phần thửa số 115, tờ bản đồ số 50 đất trồng lúa vị trí tranh chấp nằm trong phạm vi các mốc 6,7,8,9,6 (theo sơ đồ đo đạc ngày 16/3/2018 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C). Đồng thời Ông Nguyễn Văn H yêu cầu hủy một phần thửa số 80, tờ bản đồ số 50, diện tích 126m2, và hủy một phần thửa số 115, tờ bản đồ số 50, diện tích 69m2 để cấp lại cho ông Nguyễn Văn H được quyền sử dụng đất. Hai thửa đất Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H yêu cầu hộ ông Nguyễn Ngọc D giao trả lại cho hộ ông H sử dụng diện tích 126m2 đất trồng cây lâu năm thuộc một phần thửa số 80, tờ bản đồ số 50 vị trí tranh chấp nằm trong phạm vi các mốc 1,2,3,4,5,6,9,10,1, và diện tích 69m2 thuộc một phần thửa số 115, tờ bản đồ số 50 đất trồng lúa vị trí tranh chấp nằm trong phạm vi các mốc 6,7,8,9,6 (theo sơ đồ đo đạc ngày 16/3/2018 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C). Đồng thời không chấp nhận hộ Ông Nguyễn Văn H yêu cầu hủy một phần thửa số 80, tờ bản đồ số 50, diện tích 126m2, và hủy một phần thửa số 115, tờ bản đồ số 50, diện tích 69m2 để cấp lại cho ông Nguyễn Văn H được quyền sử dụng đất. Hai thửa đất tọa lạc tại ấp P, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

– Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Văn H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 682.500đ, số tiền này được khấu trừ vào tiền tạm ứng án đã nộp 50.000đ theo biên lai thu số 009515 ngày 26/3/2009 và biên lai thu số 03164 ngày 22/6/2018 số tiền là 338.500đ. Như vậy ông Nguyễn Văn H còn phải nộp tiếp số tiền là 294.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

– Về chi phí đo đạc, thẩm định, định giá tài sản tranh chấp với tổng số tiền là 4.901.000đ (trong đó chi phí đo đạc 4.301.000đ, chi phí định giá 600.000 đồng) số tiền này ông Nguyễn Văn H đã tạm ứng và đã chi xong.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai

1-7

Bản án số 96/2017/DS-ST ngày 31 – 5 – 2017 TAND huyện Gò Công Tây tỉnh Tiền Giang về việc: “V/v Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dụng: Trong đơn khởi kiện nhận ngày 06/3/2017 và quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị R và ông Bùi Văn Ph cùng yêu cầu bà Nguyễn Thị T với ông Nguyễn Văn Th có nghĩa vụ trả cho ông bà số tiền còn nợ của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết ngày 08/10/2007 là 10.000.000đ và tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước quy định là 9%/năm của số tiền chậm trả tính từ ngày 08/10/2007 đến ngày xét xử là 8.682.500đ (09 năm 07 tháng 23 ngày). Nguyên đơn đưa ra tình tiết lập luận như sau: Năm 2007, nguyên đơn có chuyển nhượng phần đất diện tích 4.300m2 gồm 4.200m2 đất lúa thửa 1115 và 100m2 đất lối dẫn nước thuộc thửa 1906 (1113 cũ) tọa lạc tại ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang cho bị đơn. Các bên thỏa thuận miệng như sau: Giá chuyển nhượng là 150.000.000đ, bị đơn đưa trước 140.000.000đ, còn 10.000.000đ thỏa thuận sẽ giao ngay khi hoàn tất thủ tục sang tên. Có lập hợp đồng chuyển nhượng lập ngày 08/10/2007, nguyên đơn thừa nhận đúng là chữ ký nhưng số tiền 140.000.000đ là do địa chính xã tự ghi. Sau khi được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay thì bị đơn vẫn không trả tiếp cho nguyên đơn số tiền 10.000.000đ nên nguyên đơn khởi kiện.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

[1] Xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định tại Khoản 3 điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ph đã có đơn xin được vắng mặt tại phiên tòa nên căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[3] Xét nội dung tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2007 giữa nguyên đơn với bị đơn về diện tích đất tranh chấp đã được Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử theo bản án số 88/2015/DS-ST ngày 20/4/2015 và Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm theo bản án số 370/2015/DS-PT ngày 16/9/2015.
[4] Phía nguyên đơn trình bày giá chuyển nhượng 150.000.000đ là thỏa thuận miệng, không có giấy tờ gì chứng minh, bên bị đơn không thừa nhận chỉ thừa nhận giá thỏa thuận là 140.000.000đ. Trong hợp đồng chuyển nhượng có chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã Đ, phía nguyên đơn thừa nhận chữ ký và kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang là đúng chữ ký của nguyên đơn thì có ghi giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 140.000.000đ.

[5] Tòa án có tiến hành xác minh ông NLC2 là địa chính xã thời điểm năm 2007 thì ông NLC2 cho biết chữ viết số tiền 140.000.000đ ghi trong Hợp đồng do các bên tự thỏa thuận và ghi vào Hợp đồng, ông không biết gì. Xác minh đối với ông NLC1 là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ chứng thực Hợp đồng chuyển nhượng thì ông NLC1
4 cho biết giá chuyển nhượng 140.000.000đ là do các bên tự thỏa thuận và được ghi đúng như thỏa thuận của các bên, việc bà R cho rằng giá chuyển nhượng là 150.000.000đ thì ông không rõ.

[6] Theo đơn yêu cầu của bà R, Tòa án có tiến hành xác minh đối với bà NLC3 là thành viên tổ hòa giải ấp T có tham dự buổi hòa giải vào ngày 22/6/2011 giữa các bên, bà NLC3 trình bày khi hòa giải thì bà R với ông Ph có nêu số tiền chuyển nhượng là 150.000.000đ, nói ông Th với bà T còn nợ 10.000.000đ nhưng lúc đó ông Th với bà
T chỉ im lặng, không trả lời. Xác minh đối với ông NLC5 là Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ thì ông NLC5 cho biết năm 2010 ông có chủ trì hòa giải giữa các bên đương sự, tại buổi hòa giải thì bà R có nêu số tiền chuyển nhượng 150.000.000đ, nói ông Th với bà T đưa trước 140.000.000đ còn nợ lại 10.000.000đ; việc ông Th với bà T có thừa
nhận hay không thì do thời gian lâu quá nên không nhớ rõ. Qua xem xét 02 biên bản có sự tham gia của bà NLC3 với ông NLC5 thì hoàn toàn không có nêu đến nội dung số tiền chuyển nhượng giữa các bên.
[7] Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự: Tại khoản 5 Điều 70 về Quyền và nghĩa vụ của đương sự như sau “Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”; tại khoản 1, khoản 4 Điều 91 về Nghĩa vụ chứng minh như sau “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình
phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp” và “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ
án”.
[8] Từ những nhận định nêu trên, giá thỏa thuận chuyển nhượng 140.000.000đ mà phía ông Th với bà T trình bày là có cơ sở. Ông Ph với bà R thừa nhận ông Th với bà T đã giao đủ cho số tiền 140.000.000đ, nên số tiền chuyển nhượng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2007 đã thực hiện xong. Việc ông Ph với bà R trình bày giá 150.000.000đ và nói ông Th với bà T còn nợ 10.000.000đ nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh nên yêu cầu khởi kiện của ông Ph với bà R là không có cơ sở.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên ông Ph với bà R phải chịu 5% án phí với số tiền là 18.682.500đ x 5% = 934.125đ. Tuy nhiên, căn cứ Điều 2, Điều 3 Luật người cao
tuổi thì ông Bùi Văn Ph sinh năm 1946 (71 tuổi) với bà Nguyễn Thị R sinh năm 1951 (66 tuổi) là người cao tuổi và ông, bà có đơn đề nghị miễn, giảm án phí nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Đối với số tiền tạm ứng án phí mà ông bà đã nộp được hoàn lại theo
quy định.

[10] Xét ý kiến Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Tây phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyện:

1. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Bùi Văn Ph với bà Nguyễn Thị R về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Th với bà Nguyễn Thị T trả số tiền còn nợ của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết ngày 08/10/2007 là 10.000.000đ và tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước quy định là 9%/năm của số
tiền chậm trả tính từ ngày 08/10/2007 đến ngày xét xử là 8.682.500đ (09 năm 07 tháng 23 ngày).

2. Veà aùn phí dân sự sơ thẩm: Hoàn lại cho ông Bùi Văn Ph với bà Nguyễn Thị R số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 38461 ngày 06/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện G.

8-13

Bản án số: 165/2022/DS-PT ngày 23-3-2022 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc: “V/v Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất” 

Nội dung:

Thửa đất số 705 của ông Nguyễn Văn Q và thửa 209 của ông Lê Văn H liền kề nhau. Nguồn gốc thửa 209 của ông H do ông H nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị H1. Thửa đất số 705 tờ bản đồ số 6, diện tích 2.100m2, loại đất lúa, tọa lạc tại xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc do ông Q khai hoang và sử dụng canh tác trồng lúa từ năm 1977. Ông Q được Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/12/1997. Năm 1989, ông Q đắp gò giáp thửa 705 và thửa 209. Năm 1999, nhà nước mở đường ấp 1 cắt ngang thửa đất 705 của ông Q nên ông Q đến xây nhà trên gò cùng gia đình sinh sống. Do diện tích đất nhà hẹp, con đông nên ông Q mua thêm của ông Lê Văn H một phần diện tích đất liền kề thuộc thửa 209 có kích thước 05 x 25m, được tính từ mí nhà sau của ông Q (khi đó còn gốc me) kéo xuống thêm 05 mét chiều dài, chiều ngang 25 mét tới mí rạch, với giá 2,7 chỉ vàng (quy ra là 2.500.000 đồng). Việc mua bán hai bên chỉ thỏa thuận miệng, ông Q đã giao đủ tiền và nhận đất sử dụng phần đất này cùng với phần đất của ông Q xây nhà kiên cố bêtông, mái tole, lát gạch, do gia đình ông sinh sống trên đất ở đến nay.

Khi bà V nhận chuyển nhượng thửa 209 của ông Lê Văn H, trong đó có căn  nhà của ông Q có tổng diện tích đo đạc thực tế 705m2, thể hiện tại khu B diện tích  534m2 và khu C diện tích 171m2 mảnh trích đo bản đồ địa chính do Công ty TNHH  đo đạc nhà đất Hưng Phú thực hiện ngày 13/5/2020, được Chi nhánh Văn phòng  đăng ký đất đai tại huyện Cần Giuộc duyệt ngày 13/5/2020 (được phân khu chi  tiết theo mảnh trích đo phân khu ngày 30/9/2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà  đất Hưng Phú thể hiện tại khu B diện tích 430m2, khu D diện tích 85m2, khu E  diện tích 19m2 và khu C diện tích 171m2) là không phù hợp. Đến khi Nhà nước kê biên nhà, tài sản của ông Q để thu hồi đất thì ông Q mới phát hiện phần đất gia đình ông Q sử dụng cất nhà ở nhưng bà V đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thời điểm bà V mua đất của ông H thì đã có nhà của ông Q trên đất nhưng bà V cũng không có ý kiến gì.

Trước đây, bà V khởi kiện yêu cầu ông Q tháo dỡ nhà, trả lại đất cho bà V nhưng sau đó bà V rút yêu cầu khởi kiện và được Tòa án đình chỉ yêu cầu của bà V. Do phần đất này của ông Q đã sử dụng ổn định lâu dài, ông H không sử dụng đất này, giữa ông H và bà V chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên giấy tờ, không đo đạc thực tế nên các bên không phát hiện nhà của ông Q trên đất.

Nay ông Q xác định khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

– Hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 236/quyển  số 02/08/TP/CC-SCT/HĐGD được Ủy ban nhân dân xã Long Hậu chứng thực  ngày 05/8/2008 giữa ông Lê Văn H và bà Trần Vũ Thùy V với tổng diện tích đo  đạc thực tế là 705m2 thể hiện tại khu B diện tích 534m2 và khu C diện tích 171m2  của Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 125-2019 ngày 13/5/2020 của công ty trách  nhiệm hữu hạn đo đạc nhà đất Hưng Phú và được chi nhánh văn phòng đăng ký  đất đai tại huyện Cần Giuộc duyệt ngày 13/5/2020 (nay là khu B diện tích đo đạc thực tế 430m2, khu D diện tích đo đạc thực tế 85m2, khu E diện tích đo đạc thực  tế 19m2 và khu C diện tích 171m2 theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính phân khu  của Công ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc nhà đất Hưng Phú ngày 30/9/2020) thuộc  một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, tọa lạc xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc.

– Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 734459 ngày  10/12/2008 do UBND huyện Cần Giuộc cấp cho bà Trần Vũ Thùy V đối với phần  đất tổng diện tích 705m2 thể hiện tại khu B diện tích 534m2 và khu C diện tích  171m2 của Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 125-2019 ngày 13/5/2020 của Công  ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc nhà đất Hưng Phú và được chi nhánh văn phòng  đăng ký đất đai tại huyện Cần Giuộc duyệt ngày 13/5/2020 (là khu B diện tích đo  đạc thực tế 430m2, khu D diện tích đo đạc thực tế 85m2, khu E diện tích đo đạc  thực tế 19m2 và khu C diện tích 171m2 theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính phân  khu của Công ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc nhà đất Hưng Phú ngày 30/9/2020) thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, tọa lạc xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc  do bị vô hiệu.  Đồng thời xác định ông Q là người được quyền sử dụng phần đất nêu trên để ông Q được hưởng tiền đền bù đất và các chế độ thu hồi đất theo quy định của pháp luật

Tòa án sơ thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Q đối với bà Trần Vũ Thùy V về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

1.1.  Vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 236, quyển số 02/08/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 05/8/2008 giữa ông Lê Văn H và bà Trần Vũ Thùy V đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 705m2 tại khu B diện tích 430m2, khu D diện tích 85m2, khu E diện tích 19m2 và khu C diện tích 171m2 thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An được Ủy ban nhân dân xã Long Hậu chứng thực.

1.2. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 734459 ngày 10/12/2008 do Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc cấp cho bà Trần Vũ Thùy V đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 705m2 tại khu B diện tích 430m2, khu D diện tích 85m2, khu E diện tích 19m2 và khu C diện tích 171m2 thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc,  tỉnh Long An.

1.3. Xác định phần đất tổng diện tích 705 m2 tại các khu B diện tích đo đạc thực tế 430m2, khu D diện tích đo đạc thực tế 85m2, khu E diện tích đo đạc thực tế 19m2 và khu C diện tích 171m2 thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Q.  Bà Trần Vũ Thùy V không được quyền ngăn cản ông Nguyễn Văn Q thực hiện quyền của người được xác lập quyền sử dụng đất. Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc có nghĩa vụ thay đổi, sửa chữa, bổ sung,  điều chỉnh hoặc thu hồi một phần Quyết định 9170/QĐ-UBND ngày 13/11/2018  của Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc về việc thu hồi đất của ông (bà) Trần Vũ  Thùy V để thực hiện dự án khu dân cư do công ty trách nhiệm hữu hạn Hai Thành  L.A đầu tư tại xã Long Hậu để điều chỉnh lại theo đúng tên chủ sử dụng đất, diện  tích đất bị thu hồi, hỗ trợ giá trị bồi thường cho phù hợp với bản án, quyết định  của Tòa án đã xác định tổng diện tích đo đạc thực tế 705 m2 tại các khu B diện  tích 430m2, khu D diện tích 85m2, khu E diện tích 19m2 và khu C diện tích 171m2  8  thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện  Cần Giuộc, tỉnh Long An thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Q. Ông Nguyễn Văn Q được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền  để được giải quyết chế độ bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất đối với phần đất được  xác định nêu trên theo quy định của pháp luật.  Bà Trần Vũ Thùy V có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được điều chỉnh quyết định thu hồi, đền bù đất theo quy định của pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Q đối với bà Trần Vũ Thùy V về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

1.1. Vô hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 236, quyển số 02/08/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 05/8/2008 giữa ông Lê Văn H và bà Trần Vũ Thùy V đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 705m2 tại khu B diện tích 430m2, khu D diện tích 85m2, khu E diện tích 19m2 và khu C diện tích 171m2 thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện  Cần Giuộc, tỉnh Long An được Ủy ban nhân dân xã Long Hậu chứng thực.

1.2. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 734459 ngày 10/12/2008 do Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc cấp cho bà Trần Vũ Thùy V đối với phần đất diện tích đo đạc thực tế 705m2 tại khu B diện tích 430m2, khu D diện tích 85m2, khu E diện tích 19m2 và khu C diện tích 171m2 thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.

1.3. Xác định phần đất tổng diện tích 705 m2 tại các khu B diện tích đo đạc thực tế 430m2, khu D diện tích đo đạc thực tế 85m2, khu E diện tích đo đạc thực tế 19m2 và khu C diện tích 171m2 thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Q.  Bà Trần Vũ Thùy V không được quyền ngăn cản ông Nguyễn Văn Q thực hiện quyền của người được xác lập quyền sử dụng đất.  Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc có nghĩa vụ thay đổi, sửa chữa, bổ sung,  điều chỉnh hoặc thu hồi một phần Quyết định 9170/QĐ-UBND ngày 13/11/2018  của Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc về việc thu hồi đất của ông (bà) Trần Vũ  Thùy V để thực hiện dự án khu dân cư do công ty trách nhiệm hữu hạn Hai Thành  L.A đầu tư tại xã Long Hậu để điều chỉnh lại theo đúng tên chủ sử dụng đất, diện  tích đất bị thu hồi, hỗ trợ giá trị bồi thường cho phù hợp với bản án, quyết định  của Tòa án đã xác định tổng diện tích đo đạc thực tế 705 m2 tại các khu B diện  tích 430m2, khu D diện tích 85m2, khu E diện tích 19m2 và khu C diện tích 171m2  thuộc một phần thửa 209, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp 1, xã Long Hậu, huyện  Cần Giuộc, tỉnh Long An thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Q.  Ông Nguyễn Văn Q được quyền liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được giải quyết chế độ bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất đối với phần đất được xác định nêu trên theo quy định của pháp luật.  Bà Trần Vũ Thùy V có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được điều chỉnh quyết định thu hồi, đền bù đất theo quy định của pháp luật. (Vị trí, tứ cận phần đất tranh chấp diện tích 705m2 theo Mảnh tại khu B  diện tích 534m2 và khu C diện tích 171m2 của Mảnh trích đo bản đồ địa chính số  125-2019 ngày 13/5/2020 của Công ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc nhà đất Hưng  Phú và được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Cần Giuộc duyệt  ngày 13/5/2020 và Mảnh trích đo bản đồ địa chính phân khu ngày 30/9/2020 của  Công ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc nhà đất Hưng Phú được dựa trên mảnh trích  đo ngày 13/5/2020 thể hiện tại khu B diện tích đo đạc thực tế 430m2, khu D diện  tích đo đạc thực tế 85m2, khu E diện tích đo đạc thực tế 19m2 và khu C diện tích  171m2).  2. Các quyết khác về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm có hiệu lực pháp luật  kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

14-29

Bản án số: 03/2022/KDTM-PT ngày: 21 – 02 – 2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về việc “Tranh chấp Hợp đồng nhượng quyền thương mại” 

Nội dung:  Bà Lê Ngọc D và bà Hồ Thị Phương A có “Thỏa thuận kinh doanh” sử dụng nhãn hiệu “Trà sữa và Bánh R-MR R MILKTEA &BAKERY” tại 46 P, phường T, thành phố H.  Vào ngày 25/6/2019, bà Giao có gửi qua email bà Phương A (phuongaxxx@gmail.com) toàn bộ nội dung dự thảo “Hợp đồng nhượng quyền thương mại”, có nội dung: Bên nhượng quyền (Bên A): Cửa hàng trà bánh R.

Bên nhận chuyển nhượng (Bên B): Bà (chưa ghi tên). Phí nhượng quyền: 150.000.000 đồng, thỏa thuận phân chia lợi nhuận (Lợi nhuận 150.000.000 đồng mỗi tháng thì không chia cho Bên A, từ 150.000.000 đồng – 200.000.000 đồng thì chia cho A 5% của lợi nhuận, từ 200.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng thì chia cho A 6% của lợi nhuận…), phương thức thanh toán: Thanh toán theo hình thức chuyển khoản hoặc tiền mặt. Thời hạn thanh toán, phân chia lợi nhuận từ ngày 05 đến ngày 10 mỗi tháng. Hai bên chưa ký kết hợp đồng nhưng giữa bà D và bà Phương A đã thống nhất sử dụng toàn bộ công thức pha chế, quản lý lao động, trang trí địa điểm và quảng bá nhãn hiệu. Bà Phương A đã chuyển khoản cho bà D 100.000.000 đồng. Việc khai trương và chính thức hoạt động nhãn hiệu “Trà sữa và Bánh R tại 46 P, phường T, thành phố H bắt đầu vào ngày 30/6/2019. Tuy nhiên, bà Phương A đã sử dụng không đúng công thức, cố tình gian dối để đạt lợi nhuận. Ngày 29/7/2019, bà Phương A thông báo công khai không kinh doanh nhãn hiệu “Trà sữa và Bánh R” tại 46 P và tháo gỡ biển hiệu kinh doanh mà không thông báo cho bà D biết. Việc bà Phương A không tuân thủ theo các cam kết đã thỏa thuận khi thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương hiệu làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà D.

Vì vậy, bà D khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết:

– Buộc bà Hồ Thị Phương A thanh toán cho bà Lê Ngọc D số tiền chưa thanh toán theo thỏa thuận để sử dụng nhãn hiệu “Trà sữa và Bánh R” tại 46 P, phường T, thành phố H với số tiền: 50.000.000 đồng.

– Buộc bà Hồ Thị Phương A phải thanh toán số tiền phân chia lợi nhuận từ ngày 25/6/2019 đến 29/7/2019 là 8.500.000 đồng. Tổng cộng số tiền bà Lê Ngọc D yêu cầu bà Hồ Thị Phương A phải thanh toán là 158.500.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Ngọc D về việc buộc bị đơn bà Hồ Thị Phương A phải thanh toán số tiền 158.500.000 đồng.

– Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Hồ Thị Phương A:  Tuyên bố hợp đồng nhượng quyền thương mại hiệu “Trà sữa và Bánh R” xác lập giữa nguyên đơn bà Lê Ngọc D với bị đơn bà Hồ Thị Phương A là vô hiệu.  Buộc nguyên đơn bà Lê Ngọc D phải trả lại số tiền 100.000.000 đồng cho bị đơn bà Hồ Thị Phương A.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại với số tiền 47.718.240 đồng.  Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:  

1. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Ngọc D, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

2. Áp dụng khoản 2 Điều 30, Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 284, 285, 287, 306 Luật Thương mại năm 2005. Điều 122, 123,131, 132 của Bộ luật Dân sự 2015. Điều 7 Luật Đầu tư năm 2014. Điều 4, 139, 141, 142 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2014. Điều 5, 6 Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006. Điều 8 Nghị định 15/01/2018 của chính phủ. Tuyên xử:

2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Ngọc D về việc buộc bị đơn bà Hồ Thị Phương A phải thanh toán số tiền 158.500.000 đồng.

2.2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Hồ Thị Phương A:  Tuyên bố hợp đồng nhượng quyền thương mại hiệu “Trà sữa và Bánh R” xác lập giữa nguyên đơn bà Lê Ngọc D với bị đơn bà Hồ Thị Phương A là vô hiệu. Buộc nguyên đơn bà Lê Ngọc D phải trả lại số tiền 100.000.000 đồng cho bị đơn bà Hồ Thị Phương A.

2.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn  phải bồi thường thiệt hại với số tiền 47.718.240 đồng

… Xem bản đầy đủ tại file PDF.

30-36

LINK PDF: Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tranh chấp thỏa thuận, hợp đồng miệng trong dân sự

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan