Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp. 

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án số 13/2023/HS-ST ngày 12-10-2023 của TAND huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang về việc: “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”

Nội dung:

Khoảng tháng 5/2021 gia đình bị cáo Nguyễn Văn D thống nhất dùng số tiền tiết kiệm của gia đình 1.600.000.000 đồng để mua đất tại thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Trong khi tìm mua đất bị cáo Nguyễn Văn D đã tiêu dùng cá nhân hết tiền. Sợ bị vợ và gia đình phát hiện bị cáo Nguyễn Văn D nảy sinh ý định làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để mọi người tin rằng mình đã mua được đất. Bị cáo Nguyễn Văn D vào mạng Internet tìm người làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả. Bị cáo Nguyễn Văn D sử dụng tài khoản Facebook với tên là “Thuận Thịnh” để giao dịch. Bị cáo D tìm được một người tên là C (không rõ lai lịch, địa chỉ) để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả với giá là 4.500.000 đồng. Khoảng hai tuần từ ngày bị cáo Nguyễn Văn D chuyển tiền cho người đàn ông có tên là C thì bị cáo nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 853306, thửa đất số 35, tờ bản đồ số 10, địa chỉ Phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Số vào sổ cấp GCN: CS00618 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh V cấp ngày 04/5/2021 cho người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là ông Nguyễn Văn D, năm sinh 1985, CMND số 135526210 và bà Phan Thị N, năm sinh 1987, CMND số 135304807 có cùng địa chỉ thường trú: Thôn V, xã C, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.

Nhận định của Tòa sơ thẩm:

[1]      Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện X, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xín Mần, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]      Về sự vắng mặt của người bào chữa cho bị cáo và người làm chứng tại phiên tòa: Tại phiên tòa ngày 26/9/2023 bị cáo bị ốm không đi lại được, có đơn đề nghị hoãn phiên tòa. Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn D có đơn xin hoãn phiên tòa do đang phải tham gia bào chữa cho một vụ án khác không thể có mặt để tham gia xét xử được.Tại phiên tòa ngày hôm nay luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn D tiếp tục có đơn xin hoãn phiên tòa do đang phải tham gia bào chữa cho một vụ án khác. Người làm chứng ông Trần Đức T2 vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, trong điều tra đã thu thập được lời khai của người làm chứng, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lại lời khai của người làm chứng. Người bào chữa cho bị cáo đã được Tòa án triệu tập lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Việc vắng mặt của người bào chữa cho bị cáo và người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 291, Điều 293 Bộ luật tố tụng Hình sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3]      Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh V. Bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn D đã phạm vào tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố và kết luận của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo Nguyễn Văn D là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]      Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước về tài liệu, xâm phạm lợi ích của Nhà nước. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật, nhưng vì lợi ích cá nhân bị cáo đã làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của cơ quan Nhà nước. Do đó, cần phải xử lý bị cáo với một mức án đủ nghiêm mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5]      Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6]      Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bố bị cáo, ông Nguyễn Việt H được tặng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]      Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc định tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xem xét đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận để xem xét.

[8]      Nhân thân bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn D có nhân thân tốt.

[9]      Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, mục đích của hình phạt, nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Văn D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và đủ nghiêm để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung

[10]    Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 341 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Trước đây bị cáo làm nghề lái xe nhưng công việc không ổn định, thu nhập thấp, bị cáo là lao động chính phải nuôi 03 con còn nhỏ, vợ bị cáo hiện đang có thai nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn D.

[11]    Vật chứng đã xử lý: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X đã trả cho bị cáo Nguyễn Văn D 01 điện thoại di động, màn hình cảm ứng nhãn hiệu Samsung Galaxy A22; 01 quyển sổ bìa màu vàng có chữ Hải Tiến; 01 quyển sổ bìa mầu trắng, xanh, đỏ; 01 chùm chìa khóa két sắt gồm 03 chìa khóa 4 cạnh; 01 két sắt màu xám, vàng, nhãn hiệu KAIO Trường Phát (Két sắt cũ đã qua sử dụng). Bị cáo không có ý kiến gì về việc trả lại vật chứng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[12]    Vật chứng chưa xử lý: Đối với giấy tờ giả là 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CX 853306 do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp ngày 04/5/2021 mang tên Nguyễn Văn D và Phan thị N2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự cần tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

[13]    Xét lời nói sau cùng của bị cáo: Tại phiên tòa ngày bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[14]    Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tòa án sơ thẩm quyết định:

1.       Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

2.       Về hình phạt chính:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 12 (Mười hai) tháng 27 (Hai mươi bẩy) ngày tù, được khấu trừ số ngày giam giữ là 12 tháng 27 ngày tù. Thời hạn tù bằng thời hạn giam giữ, bị cáo Nguyễn Văn D đã chấp hành xong hình phạt tù.

3.       Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn D.

4.       Về xử lý vật chứng: Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CX 853306 do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp ngày 04/5/2021 mang tên Nguyễn Văn D và Phan Thị N.

1-7

2

Bản án số: 45/2023/HS-ST ngày: 09- 02 – 2023 của TAND thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh về việc: “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”

Nội dung:

Khoảng tháng 10/2020, vì bị mất chứng minh thư nhân dân nên Nguyễn Công H thông qua ứng dụng Zalo biết một tài khoản (H không nhớ tên) nhận làm các giấy tờ giả. H liên lạc và gửi các thông tin để đặt làm giả chứng minh nhân dân mang tên của H với giá tiền 1.000.000đ (một triệu đồng). Khoảng 07 ngày sau thì H nhận được chứng minh nhân dân giả. Đến khoảng đầu tháng 3/2021, công việc làm ăn của H gặp khó khăn do dịch Covid-19 gây ra nên H đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản bằng hình thức mua xe mô tô trả góp, trong đó sẽ trả góp trước mấy tháng đầu để làm tin, rồi đặt làm giả giấy tờ xe để bán lại cho người khác.

Nhận định của Tòa sơ thẩm:

[1]      Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố cơ bản đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình tiến hành tố tụng không ai khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Chứng cứ, tài liệu do Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập đều hợp pháp và đảm bảo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ, các hành vi tố tụng được đảm bảo hợp pháp.

[2]      Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Công H thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian tháng 3/2021 và tháng 6/2021, với mục đích chiếm đoạt tài sản bằng hình thức mua xe mô tô trả góp rồi về làm giấy tờ giả để bán lại, Nguyễn Công H đã có hành vi làm giả, sử dụng 01 chứng minh thư nhân dân mang tên của mình làm thủ tục mua trả góp ở cửa hàng xe máy “Minh Phương” thuộc tổ 2, khu Trới 10, phường Hoành Bồ, thành phố Hạ Long 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH 125i BKS 98B3-809.62 để chiếm đoạt số tiền 61.115.000đ (sáu mươi mốt triệu một trăm mười lăm nghìn đồng) của Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V (VPB FC) và 01 chiếc xe mô tô BKS 98L1-160.98 để chiếm đoạt số tiền 69.000.000đ (sáu mươi chín triệu đồng) của chị Phạm Thị Bích H. Tổng số tiền H chiếm đoạt là 130.115.000đ (một trăm ba mươi triệu một trăm mười lăm nghìn đồng). Sau đó, trong khoảng thời gian tháng 4/2021 và tháng 7/2021, H có hành vi làm giả, sử dụng 03 (ba) giấy đăng ký xe mô tô, xe máy để bán 02 chiếc xe mô tô trên cho anh Trần Bá Đ ở tổ 2, khu Trới 7, phường Hoành Bồ, thành phố Hạ Long với tổng số tiền 133.000.000đ (một trăm ba mươi ba triệu đồng).

Hành vi của bị cáo Nguyễn Công H đã phạm vào tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3]      Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Công H là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức mà còn xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình cho người dân, nên cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

[4]      Về nhân thân: ngày 10/9/2001, bị Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù, giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đã chấp hành xong các phần khác của bản án; ngày 30/12/2009, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 10 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, ngày 03/4/2010 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, chưa thi hành phần án phí dân sự sơ thẩm

[5]      Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại là Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V (VPB FC), được bị hại là chị H xin giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” theo điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo ở tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tuy nhiên xét thấy số tiền mà bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại mới chỉ được một phần trong tổng số tiền bị cáo đã chiếm đoạt (bồi thường 61.115.000đ (sáu mươi mốt triệu một trăm mười lăm nghìn đồng) so với tổng số tiền bị cáo đã chiếm đoạt là 130.115.000đ). Ngoài ra thì bị cáo cũng chưa hoàn trả được khoản tiền nào cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Trần Bá Đ nên không có cơ sở để áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà chỉ được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6]      Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo có 01 tiền án, cụ thể: ngày 30/12/2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 10 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, ngày 03/4/2010, chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, chưa thi hành phần án phí dân sự sơ thẩm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự cho cả hai tội; ngoài ra bị cáo H phạm tội lừa đảo chiếm đảo chiếm đoạt tài sản 02 lần trở lên nên bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự ở tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

[7]      Về hình phạt chính: căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng mức hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[8]      Về hình phạt bổ sung: xét thấy trước khi phạm tội bị cáo làm nghề lao động tự do, không có công việc và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[9]      Về bồi thường dân sự:

Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường số tiền 61.115.000đ cho Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V (VPB FC), Công ty không có yêu cầu bồi thường gì khác nên không đề cập xử lý.

Bị hại là chị Phạm Thị Bích H yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho chị số tiền là 69.000.000đ. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý nên công nhận sự thỏa thuận về việc bồi thường giưa các bên, buộc bị cáo H phải bồi thường cho chị H số tiền là 69.000.000đ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Bá Đ yêu cầu được nhận lại số tiền 2.400.000đ thu giữ trong vụ án và yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền 133.000.000đ, trừ đi số tiền 2.400.000đ còn lại 130.600.000đ. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý với yêu cầu của anh Đ nên đề nghị công sự sự thỏa thuận của các bên, buộc bị cáo H phải hoàn trả lại cho anh Đ số tiền là 130.600.000đ, đồng thời anh Đ được nhận lại số tiền 2.400.000đ thu giữ trong vụ án.

[10]    Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 “Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy” số 98005567, biển số đăng ký 98B3-809.62 cấp ngày 16 tháng 03 năm 2021; 01 “Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy” số 98000766, biển số đăng ký 98L1-160.98 cấp ngày 09 tháng 7 năm 2021; 01 “Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy” số 98005567, biển số đăng ký 98B3-899.99 cấp ngày 20 tháng 6 năm 2021; 01 Giấy chứng minh nhân dân số 122223478 do Công an tỉnh Bắc Giang cấp ngày 07/6/2013 đều mang tên Nguyễn Công H, là giấy tờ giả hoàn lại sau giám định, là vật chứng quan trọng trong vụ án nên cần lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

Đối với 01 biển số xe mô tô 98L1-160.98 (do chị H giao nộp) và 01 biển số xe mô tô 98-B3 899.99 (do anh Đ giao nộp): qua giám định không phải do con dấu Công an hiệu đóng ra, là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với: 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 22017700186 do Sở giao thông vận tải tỉnh Quảng Ninh cấp ngày 19/01/2017 mang tên Nguyễn Công H được lưu giữ trong vụ án cần trả ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Công H;

Đối với: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH125i, màu sơn đỏ đen, không gắn biển kiểm soát, số khung RLHJF9504MY001000, số máy JF95E0067898, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH125i, màu sơn đen, số khung RLHJF9507MY014520, số máy JF95E0081415, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy; 02 (hai) chìa khóa điện của 02 xe mô tô trên, đã qua sử dụng; 01 (một) biển số xe mô tô 98L1- 160.98; 01 (một) biển số xe mô tô 98B3-809.62; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 98000766 cho biển kiểm soát số: 98L1- 16098 mang tên Nguyễn Công H; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 98005567 cho biển kiểm soát số: 98B3- 80962 mang tên Nguyễn Công H được bị cáo mua theo hình thức trả góp, hiện cả 02 xe đều đã được đăng ký mang tên bị cáo, bị cáo đã có trách nhiệm bồi thường cho bị hại và hoàn trả lại số tiền cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

Đối với: 01 (một) điện thoại OPPO (kiểu dáng Ren4 Pro), màu đen – xanh, tại thời điểm giao nhận vật chứng bên giao, bên nhận cùng xác nhận máy không lên nguồn vì vậy không xác nhận được số Imei, số thuê bao, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra được chất lượng máy + kèm 01 sim điện thoại không liên quan đến việc phạm tội nên đề trả lại cho bị cáo Nguyễn Công H, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền 2.400.000 đồng do anh Thành tự nguyện giao nộp, xét thấy đây là số tiền của ông Trần Bá Đ đưa cho bị cáo H khi mua xe mô tô của bị cáo H nên cần trả lại cho ông Điện để trừ vào số tiền bị cáo phải hoàn trả cho ông Trần Bá Đ.

Tòa án sơ thẩm quyết định:

Bị cáo Nguyễn Công H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội: “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

8-21

3

Bản án số: 46/2023/HS-ST Ngày: 23/8/2023 của TAND tỉnh Hải Dương về việc: “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”

Nội dung:

Năm 2013 Vũ Văn L được cấp hộ chiếu số C3694518 và xuất cảnh sang C, đến năm 2017 bị trục xuất về Việt Nam. Đầu năm 2018, L có nhu cầu tiếp tục sang Liên bang N lao động nhưng do trước đó đã bị trục xuất nên L biết không thể nhập cảnh vào Liên bang N bằng tên thật, L đã liên lạc với người chủ lao động cũ là người Việt Nam bên N tên T (vợ là D), không xác định được nhân thân, địa chỉ của người này, được T cho số điện thoại của 01 người đàn ông ở Hải Dương (không xác định được nhân thân, lai lịch, số điện thoại) để làm giả hồ sơ xin cấp căn cước công dân (viết tắt CCCD), với chi phí 36.000.000 đồng với hứa hẹn sẽ trả hộ chi phí và trừ vào tiền lương sau này, L đồng ý. Đầu năm 2018, người đàn ông trên hẹn gặp L tại huyện G, tỉnh Hải Dương (không rõ địa điểm) và đưa L đi chụp ảnh chân dung 4×6. Vài ngày sau, người này tiếp tục hẹn L đến huyện G. tỉnh Hải Dương rồi đưa cho 01 tờ khai xin cấp CCCD dán ảnh của L nhưng mang tên Phạm Văn P, sinh ngày 05/5/1992, trú tại: Xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương để L ký giả tên “Phạm Văn P”, lăn vân tay vào tờ khai đề nghị cấp CCCD, phiếu thu nhận thông tin cấp CCCD, rồi cùng người này đến Công an huyện G làm thủ tục đề nghị cấp CCCD. Sau 10 ngày, người này tiếp tục hẹn L đến Phòng Q1 Công an tỉnh H đưa cho L 01 tờ khai ghi thông tin tên Phạm Văn P có dán ảnh của L để L ký rồi vào làm thủ tục xin cấp hộ chiếu. Sau khi hoàn tất các thủ tục, đến tháng 5/2018, đối tượng làm giả hồ sơ nêu trên đã hẹn Lưu đến sân bay N, thành phố Hà Nội lấy hồ sơ, hộ chiếu, visa và vé máy bay. Ngày 21/5/2018, L đã sử dụng hộ chiếu mang tên Phạm Văn P xuất cảnh sang Liên bang Nga lao động, ngày 07/12/2022, L sử dụng hộ chiếu mang tên giả Phạm Văn P nhập cảnh về Việt Nam thì bị Công an cửa khẩu cảng hàng không quốc tế N1 bài phát hiện, thu giữ hộ chiếu trên cùng các tài liệu kèm theo, bàn giao cho Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh H để giải quyết theo thẩm quyền.

Nhận định của Tòa sơ thẩm:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan điều tra, truy tố trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, truy tố, phù hợp hộ chiếu đã thu giữ, các kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ đầu năm 2018 đến tháng 5 năm 2018, tại huyện G, tỉnh Hải Dương, Vũ Văn L đã làm giả căn cước công dân số 030092003810 mang tên Phạm Văn P, sinh năm 1992, đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương rồi sử dụng căn cước công dân giả để được Cục X cấp hộ chiếu số C4599323 mang tên Phạm Văn P. Ngày 21/5/2018, L sử dụng hộ chiếu trên xuất cảnh sang Liên bang N, đến ngày 07/12/2022 dùng hộ chiếu trên nhập cảnh về Việt Nam thì bị phát hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính, hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý nhà nước về con dấu, tài liệu. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc khai giả mạo tên, địa chỉ và các thông tin nhân thân để được cấp hộ chiếu giả làm thủ tục xuất cảnh đi nước ngoài là hành vi phạm tội nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành T3 làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.

Tòa án sơ thẩm quyết định

22-26

4

Bản án số: 46/2023/HSST Ngày 09 tháng 8 năm 2023 của TAND huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc về việc: “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”

Nội dung:

Năm 2018, gia đình Vũ Văn C mua 01 chiếc xe ô tô BKS: 88C – 140.23 để C và em trai là anh Vũ Văn C1, cùng nhau sử dụng nhằm mục đích kinh doanh, chở hàng hoá thuê. Xe ô tô này đăng ký, đứng tên của anh Vũ Văn C1và mua theo hình thức trả tiền góp, thế chấp giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô bản gốc tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VP Bank) chi nhánh thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ vào ngày 17/4/2018. Quá trình thực hiện trả góp, do Cường không thực hiện đầy đủ nên Ngân hàng đã không cung cấp giấy tờ xe cho C và Cường khi tham gia giao thông. Để đối phó với việc kiểm tra giấy tờ xe ô tô của các cơ quan chức năng khi tham gia giao thông, khoảng tháng 02/2019, Vũ Văn C đã sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook liên hệ với một người nam giới, không rõ họ tên, địa chỉ để thuê người này làm giả hai loại giấy tờ của xe ô tô BKS: 88C – 140.23 bao gồm: 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô và 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an T kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. C đã gửi hình chụp giấy tờ bản gốc của xe ô tô BKS: 88C – 140.23 cho đối tượng và đề nghị người này làm giả hai loại giấy nêu trên. Sau khi làm xong hai giấy tờ giả người này đã gửi chuyển phát nhanh theo địa chỉ và số điện thoại mà C cung cấp, sau đó C đã nhận hai giấy tờ giả và thanh toán tiền cho nhân viên giao hàng. Hiện nay C không còn nhớ chính xác đã thuê đối tượng nêu trên làm giả hai loại giấy tờ xe này với giá bao nhiêu tiền và số điện thoại mà C đã cung cấp cho người này.

Nhận định của Tòa sơ thẩm:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra Viên, của Viện kiểm sát, của kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn C thừa nhận T bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y. Bị cáo khai nhận Vào khoảng tháng 02/2019 bị cáo đã sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook liên hệ với một người nam giới, không rõ họ tên, địa chỉ để thuê người này làm giả hai loại giấy tờ của xe ô tô BKS: 88C – 140.23 bao gồm: 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô và 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an T kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Mục đích để đối phó với việc kiểm tra giấy tờ xe ô tô của các cơ quan chức năng khi tham gia giao thông. Đến tháng 11/2019, do cần tiền tiêu xài cá nhân bị cáo đã mang hai giấy tờ này đến cửa hiệu cầm đồ của anh Phan Văn T với mục đích để vay tiền, sau đó bị anh T phát hiện hai giấy tờ này là giấy tờ giả. Quá trình điều tra cơ quan điều trả Công an huyện Y đã thu giữ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô và 01 giấy chứng nhận kiểm định an T kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của xe ô tô BKS 88C – 140.23.Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa làm rõ trước, trong và sau khi nhận số tiền từ anh Phan Văn T, Vũ Văn C không có động cơ, mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của anh T. Việc C vay của anh T số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng), để đảm bảo cho việc C có thể trả nợ cho mình, Phan Văn T đã hợp thức cho vay bằng giấy nhận tiền mua xe với số tiền là 450.000.000đồng. Quá trình vay của T, C đã thực hiện việc trả lãi suất cụ thể: C đã bị cắt trừ 10.000.000đồng khi vay 200.000.000đồng, 01 lần C trả lãi 10.000.000đồng và 01 lần C nhờ Tuấn Anh trả lãi 10.000.000đồng. Tại Cơ quan điều tra anh T yêu cầu C trả số tiền 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng), C và gia đình đã khắc phục số tiền 350.000.000đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng). Như vậy, hành vi làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô của Vũ Văn C để sử dụng vào việc vay tiền của anh T không đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật hình sự. Việc cơ quan CSĐT- Công an huyện Y không đề cập xử lý đối với C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, và đúng quy định của pháp luật.

[7.1] Đối với anh Vũ Văn C1cùng C khắc phục hậu quả cho anh T số tiền 350 triệu đồng, nay anh Cường không đề nghị gì về số tiền này.

Tịch thu tiêu hủy đối với các mẫu trả của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc gồm: 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an T kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, No: KC 5311795, xe biển đăng ký: 88C-140.23; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 036628, tên chủ xe Vũ Văn Cường.

Tòa án sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”.Xử phạt bị cáo Vũ Văn C 02 (hai) năm03 (ba) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (một) năm 06 (sáu) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Vũ Văn C cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, ngườiđược hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản điểm a khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an T kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, No: KC 5311795, xe biển đăng ký: 88C-140.23; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 036628, tên chủ xe Vũ Văn Cường. Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 8 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Y.

27-34

5

Bản án số: 49/2023/HS-ST Ngày 28 – 8 – 2023 của TAND huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn về việc: “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”

Nội dung:

Khoảng đầu năm 2008, Mạc Văn V đến thành phố Hồ Chí Minh làm phụ hồ thuê thì quen biết một người đàn ông làm cùng tên là P quê ở tỉnh Thanh Hóa (không rõ họ, năm sinh và địa chỉ cụ thể). Đến cuối năm 2008 thì Mạc Văn V về quê ở Lạng Sơn và không đi làm nữa, tuy nhiên Viện và P vẫn giữ liên lạc qua điện thoại. Qua nói chuyện điện thoại P có nói với V là có chỗ làm giấy phép lái xe mà không cần đi thi, V đã nhờ P làm cho 01 giấy phép lái xe mô tô giả để sử dụng, P đồng ý và bảo Viện giá là 500.000 đồng sau đó Viện gửi bản phô tô chứng minh thư nhân dân cho P. Đến khoảng tháng 7-2009, V nhận được điện thoại của P thông báo cho biết đã làm được giấy phép lái xe giả và lấy địa chỉ của V để P gửi giấy phép lái xe giả cho.

Nhận định của Tòa sơ thẩm:

[9.1] Đối với 02 giấy phép lái xe mô tô giả mang tên Mạc Văn V, trong đó gồm 01 giấy phép lái xe mô tô giả hạng A1 số 200229520961, mang tên Mạc Văn V, sinh năm 1969, nơi cư trú: Y, V, Lạng Sơn, ghi do Sở Giao thông vận tải tỉnh L cấp ngày 10-01-2022; 01 giấy phép lái xe mô tô giả hạng A1 số AL355770, mang tên Mạc Văn V, sinh năm 1969, nơi cư trú: Y, V, Lạng Sơn, ghi do Sở Giao thông vận tải thành phố H cấp ngày 15-7-2009 và bộ hồ sơ lái xe mô tô giả gồm 01 biên bản tổng hợp kết quả sát hạch lái xe (có dán ảnh màu chân dung của Viện và thông tin kết quả sát hạch, đóng dấu đỏ của Sở G – dấu không thể hiện rõ Sở giao thông vận tải của tỉnh nào); 01 mẫu đơn đề nghị học, sát hạch để cấp giấy phép lái xe (chưa điền thông tin), góc bên trái có dán ảnh màu của Viện, trên ảnh có đóng dấu giáp lai màu đỏ ghi “Trung tâm dạy nghề K1 – Bộ L1”; 02 biên bản sát hạch thực hành lái xe trong hình; 01 giấy hướng dẫn tra cứu giấy phép lái xe của Trung tâm D1, đây là các công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[9.2] Đối với 02 chiếc điện thoại mà Mạc Văn V đã sử dụng để liên lạc với P để nhờ mua giấy phép lái xe mô tô giả năm (2009) và nhắn tin qua mạng xã hội Facebook để đặt mua giấy phép lái xe mô tô giả năm (2022), Mạc Văn V đều đã làm mất nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để truy tìm, nên Hội đồng xét xử không có cở sở xem xét xử lý.

[9.3] Xác nhận ngày 30-6-2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho chủ sở hữu bị cáo Mạc Văn V 01 xe mô tô biển kiểm soát 12U1–077.25, nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu sơn đen, đỏ, đã qua sử dụng và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 12U1- 077.25 mang tên Mạc Văn V là có căn cứ.

[10.1] Đối với người đàn ông tên P (quê ở Thanh Hóa) đã đặt mua hộ bị cáo Mạc Văn V 01 giấy phép lái xe mô tô giả tại thành phố Hồ Chí Minh, do Viện không biết họ, năm sinh và địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn không có căn cứ để xác minh, xử lý. Đối với người nam thanh niên đã giao giấy phép lái xe mô tô giả cho bị cáo Mạc Văn V, do không có thông tin cụ thể nên không thể tiến hành điều tra, xác minh, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét xử lý.

[10.2] Đối với tài khoản trang mạng xã hội Facebook “Trung tâm dạy nghề K1 – Bộ L1” đã nhận làm giấy phép lái xe giả cho bị cáo Mạc Văn V, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn đã gửi công văn đến Sở thông tin và truyền thông tỉnh L để nghị xác minh thông tin của chủ tài khoản, kết quả Sở thông tin và truyền thông tỉnh L trả lời không đủ căn cứ xác minh, do đó Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét xử lý.

Tòa sơ thẩm quyết định:(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn).

35-43

Link PDF: Tổng hợp 15 bản án liên quan đến tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

……………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan