Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / Tổng hợp 15 bản án hình sự về trường hợp chuyển tội danh

Tổng hợp 15 bản án hình sự về trường hợp chuyển tội danh

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án hình sự về trường hợp chuyển tội danh” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 15 bản án hình sự về trường hợp chuyển tội danh

STT

NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án số 33/2023/HS-PT ngày 15 tháng 3 năm 2023 Toà án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng.

Nội dung:

Sau khi ly hôn, D vẫn ghen tuông và thường xuyên nhắn tin đe dọa sẽ giết chị P và gia đình chị P và đe dọa giết bị cáo Nguyễn Duy L vì cho rằng L là người ngăn cản, chia rẽ tình cảm giữa anh D và chị P. Trong đó, vào khoảng 02 giờ 00 sáng ngày 29/5/2021 (một ngày trước khi xảy ra vụ án), D tiếp tục đến tìm chị P nhưng chị P không mở cửa nên D đập cửa, là hét và đi vòng ra khu đất trống sau nhà ném đá lên vào cửa sổ phòng ngủ của chị P. Khoảng 19 giờ 00 ngày 30/5/2021, anh Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô hiệu Dream biển số 43K1-2411 chở cháu Nguyễn Thùy D đến trước quán Bê thui B P, đây cũng là nhà ở của gia đình Nguyễn Duy L, trên đường Nguyễn Tất Thành, thuộc thôn B, xã C, thành phố H, để đợi chị P ra đón cháu D. Lúc này, Nguyễn Duy L từ trong quán bê thui ra gặp anh D (anh D đang ngồi trên yên xe) và nói “có chuyện gì thì nói chuyện chứ răng hai giờ sáng mi lên đôi gạch vào nhà ?”; anh D nói lại: “ĐM, mày nói chuyện với ai rứa? Tao lên đập cửa sao mày không mở cửa”. Do bực tức nên L dùng tay phải đấm vào mặt anh D 01 cái, anh D bước xuống xe dùng tay đấm vào mặt L rồi đẩy L về phía sau. Vì trời tối nên cả L và anh D không nhìn biết rõ là cây bồ cào mà nghĩ là cây tre nên anh D xông vào chém L, L dùng bồ cào đánh trả lại anh D theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái (theo hướng nhìn của L) phần mũi nhọn của cây bồ cào đâm trúng tay phải của anh D khiến anh D bị rớt con dao. Lúc này, cả L và anh D đều cúi người để nhặt con dao; L nhặt được dao trước, ngay khi nhặt được con dao thì L cầm dao trên tay phải chém về phía anh D nhiều cái theo chiều hướng khác nhau, anh D vừa đi lùi về phía sau vừa dùng hai tay đưa lên trước mặt để đỡ trong khi mũi nhọn bồ cào vẫn cắm trên tay phải, nên cây bồ cào rơi xuống đất, L tiếp tục chém anh D theo hướng từ trái sang phải (theo hướng nhìn của L) trúng vào vùng thắt lưng hông bên phải làm anh D bị ngã ngữa xuống nền sân. Lúc này, anh Nguyễn Duy T (sinh năm 1983) chạy đến dùng xe đạp chắn ngang người anh D để can ngăn, không cho L tiếp tục chém anh D và nói với L “đừng đánh nữa coi chừng chết người đi tù chừ”. Nghe vậy, L không chém nữa và cầm dao đi ra phía trước nhờ mọi người điện báo Công an và đưa anh D đi cấp cứu. Sau đó, anh D được anh T và anh Mai V (sinh năm 1984) đưa đến Bệnh viện Thái Bình D thành phố H để cấp cứu.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội “Giết người”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy L 04 (Bốn) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 31/12/2021).

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Nguyên nhân xảy ra sự việc bắt nguồn từ lỗi của bị hại D: Khi
chưa ly hôn, trong thời gian còn ở chung trong nhà của bị cáo; bị hại D thường xuyên ghen tuông đánh đập em của bị cáo (chị Nguyễn Nữ Duy P) và làm cho em, cháu (con chị P) bị cáo căng thẳng tâm lý, thất vọng, đau khổ mà dẫn đến tự tử; mặc dù, chị phương và các con chị P không chết nhưng đã làm cho bị cáo bức xúc. Bên cạnh đó, sau khi ly hôn; giữa chị P với bị hại D không còn ràng buộc về hôn nhân và không còn mối quan hệ gia đình, không còn sống chung với gia đình bị cáo L nhưng bị hại D đã thực hiện liên tục, lặp đi, lặp lại nhiều lần hành vi trái pháp luật tác động đến bị cáo Nguyễn Duy L.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo L bị kích động tinh thần nhưng chưa đến mức bị kích động mạnh là chưa xem xét toàn diện nguyên nhân của vụ án, quá trình diễn biến của sự việc và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của bị hại D đối với bị cáo L; kết án bị cáo Nguyễn Duy L về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là không đúng pháp luật. Cho nên, HĐXX cấp phúc thẩm chuyển tội danh “Giết người” sang tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” đối với bị cáo Nguyễn Duy L theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Hình sự.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy L và sửa bản án sơ
thẩm. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L, phạm tội: “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (ngày 31/12/2021).

1

2

Bản án số 566/2022/HS-PT ngày 18 tháng 5 năm 2022 Toà án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Nội dung:

Từ khoảng tháng 01/2017 đến tháng 06/2018, để có tiền trả nợ vay cũ bị cáo đã đưa ra thông tin gian dối về việc vay tiền nhằm mục đích để cho các hội viên phụ nữ vay lại để trả nợ cho ngân hàng, sau khi trả nợ xong sẽ làm thủ tục vay vốn lại sẽ trả tiền, làm cho những người bị hại tin tưởng giao tiền và bị cáo đã chiếm đoạt của 17 người bị hại với tổng số tiền, vàng là 1.124.419.500 đồng.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Tuyên bố: Bị cáo Mai Thị Thùy T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Mai Thị Thùy T 12 (mười hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 3 năm 2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Xét thấy bị cáo đã dùng lời nói dối để tạo niềm tin cho các chủ sở hữu tin tưởng mà giao tài sản cho bị cáo. Tội phạm hoàn thành kể từ khi bị cáo nhận được tiền của các bị hại. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Lạm dụng chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 175 Bộ luật hình sự là chưa đúng quy định của pháp luật. Do đó chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang. Sửa án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là căn cứ.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 04/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang về tội danh đối với bị cáo Mai Thị Thùy T: Tuyên bố bị cáo Mai Thị Thùy T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Mai Thị Thùy T 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 06/3/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

10

3

Bản án số 219/2022/HS-PT ngày 24 tháng 5 năm 2022 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Nội dung:

Vào khoảng 02h50’ ngày 25/4/2021, bị cáo Lê Nhật M, cùng các đối tượng Đ, Hiếu và 02 người bạn của Hiếu, mỗi người điều khiển 01 xe mô tô lưu thông phóng nhanh trên đường Quốc lộ 1A hướng về ngã tư An Sương, khi xe vừa xuống cầu vượt Tỉnh lộ 10 thì cả nhóm lưu thông theo hàng ngang trên làn đường dành cho xe ô tô với tốc độ rất cao. Bị cáo Lê Nhật M điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại Sonic, biển số 59G2-73.320 với tốc độ cao trên làn đường dành cho xe ô tô, không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành công vụ mà phóng nhanh đâm trực diện vào người anh Văn Bá H (là chiến sĩ binh nhất Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Cảnh sát cơ động Công an Thành phố Hồ Chí Minh) đang thực thi công vụ cùng anh Đỗ Vũ Minh N (là cán bộ Đội Cảnh sát Phú Lâm) chốt chặn để nắm tình hình, xử lý thanh thiếu niên tụ tập đua xe và phòng chống tội phạm); hậu quả làm anh Văn Bá H bị tổn thương cơ thể do thương tích nên là 51%.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Xử phạt bị cáo Lê Nhật M 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2021.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Hành vi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh 149cc phóng
nhanh trên làn đường dành cho xe ô tô, không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành công vụ mà đâm trực diện vào người anh Văn Bá Hải, hậu quả làm anh H bị tổn thương cơ thể do thương tích nên là 51%. Hành vi của bị cáo Lê Nhật M đã trực tiếp xâm hại đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ – có dấu hiệu của một tội phạm khác nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm, xét thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được, và có căn cứ để điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm. Do đó, hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 196/2021/HS-ST ngày 22/12/2021 để điều tra, truy tố và xét xử lại theo thủ tục chung.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 196/2021/HS-ST ngày
22/12/2021 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Nhật M cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại vụ án.

17

4

Bản án số 66/2022/HS-PT ngày 30 tháng 5 năm 2022 Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre.

Nội dung:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 08/12/2019, tại ấp TĐ, xã TP, huyện CT, tỉnh Bến Tre, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi dùng 02 miếng gỗ đánh trúng vào vùng đầu, mặt và mắt trái của Nguyễn Thành Ph gây tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích cho bị hại Nguyễn Thành Ph là 62%.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm “Tội cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) năm tù.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo nại ra rằng không thừa nhận kết quả thực nghiệm điều tra. Tuy nhiên, kết quả thực nghiệm điều tra là do bị cáo tự diễn lại hành vi phạm tội của mình một cách khách quan, đúng bản chất của vụ án, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác. Căn cứ vào biên bản thực nghiệm điều tra ngày 02/10/2020 (bút lục số 327 – 330), sơ đồ thực nghiệm điều tra ngày 02/10/2020 (bút lục số 331) và bản ảnh thực nghiệm điều tra (bút lục số 332) xác định: từ vị trí bị hại
tấn công bị cáo (vị trí ký hiệu số 2) cách vị trí H, L và D đánh nhau (vị trí ký hiệu số 4) là 4,7 mét; từ vị trí H, L và D đánh nhau (vị trí ký hiệu số 4) cách vị trí đống gỗ (vị trí ký hiệu số 1) là 2,4 mét. Như vậy, có cơ sở xác định từ vị trí bị hại tấn công bị cáo đến vị trí đống gỗ là 7,1 mét. Do đó, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo cho rằng khi bị hại tấn công bị cáo, bị cáo té xuống đường ngay bên cạnh có đống gỗ nên bị cáo cầm miếng gỗ đánh lại bị hại là không có cơ sở chấp nhận; mà có cơ sở khẳng định khi bị hại tấn công bị cáo làm bị cáo té ngã, thì bị cáo đứng lên chạy đến nơi có đống gỗ nhặt 02 miếng gỗ và quay lại đánh bị hại nhiều cái, đến khi bị hại không còn khả năng chống trả thì bị cáo mới bỏ đi. Bị cáo cũng thừa nhận do bị hại đánh bị cáo nên bị cáo đánh trả lại bị hại; điều này thể hiện ý thức của bị cáo là cố ý đối đầu với bị hại. Người bào chữa đề nghị thực nghiệm điều tra lại, xét xử bị cáo về “Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo điểm b khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình sự, cho bị cáo hưởng án treo và giảm tiền bồi thường đối với bị cáo là không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên không được chấp nhận.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm “Tội cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 05 (năm) năm tù;

25

5

Bản án số 32/2021/HS-ST ngày 02 tháng 7 nằm 2021 Toà án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.

Nội dung:

Khoảng 19 giờ ngày 11/01/2021, bị cáo Vi Văn Q bắt xe ô tô khách từ nhà ra thành phố L, tỉnh Lạng Sơn mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại ngã tư M, thành phố L, bị cáo Vi Văn Q xuống xe và gặp một người đàn ông lái xe ôm (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) nhờ mua giúp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) ma túy đá, người đàn ông này đồng ý và yêu cầu Vi Văn Q trả tiền công là 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Bị cáo Vi Văn Q đồng ý và đưa cho người đàn ông này 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng). Khoảng 30 phút sau người lái xe ôm quay lại đưa cho Vi Văn Q 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất ma túy đá. Bị cáo Vi Văn Q cầm lấy gói ma túy cất vào túi quần đang mặc và bắt xe khách đi về nhà. Đến nhà, bị cáo Vi Văn Q đổ số ma túy vừa mua được vào trong một ống nhựa màu đen rồi bịt kín hai đầu ống nhựa lại và cất đi. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Lâm Văn T đến nhà bị cáo Vi Văn Q chơi và ngủ lại. Khi đến Lâm Văn T mang theo một ống nhựa màu đen bên trong chứa chất ma túy đá mua với một người đàn ông không quen biết tại ngã 3 thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn với giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 12/01/2021, khi Vi Văn Q đang ngủ, Lâm Văn T đang ngồi chơi ở phòng khách thì Nông Văn M đến nhà Vi Văn Q gọi cửa với mục đích xin bị cáo Vi Văn Q ma túy để sử dụng cho bản thân. Bị cáo Vi Văn Q dậy mở cửa cho Nông Văn M vào nhà, Nông Văn M xin Vi Văn Q ma túy để sử dụng, Vi Văn Q đồng ý. Vi Văn Q lấy ống nhựa màu đen bên trong chứa chất ma túy đá đổ lên tờ giấy bạc rồi đưa cho Nông Văn M. Vi Văn Q bịt kín ống nhựa có chứa phần ma túy còn lại và cất vào lỗ khoan trên bức tường ở gian phòng giữa bếp và phòng ngủ. Thấy vậy, Lâm Văn T cũng xin Vi Văn Q ma túy để sử dụng. Nông Văn M và Lâm Văn T lấy bình nhựa màu trắng bên trong có nước và có cắm các ống nhựa màu đen, đỏ, vàng để ở gian phòng giữa và cùng nhau sử dụng ma túy. Trong khi Nông Văn M và Lâm Văn T sử dụng ma túy ở gian phòng giữa thì Vi Văn Q xuống bếp để nấu ăn. Đến khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày, tổ công tác Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an xã Đồng Bục, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn vào nhà kiểm tra bắt quả tang Lâm Văn T và Nông Văn M đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà ở của bị cáo Vi Văn Q.

Nhận định của toà án:

Có đủ cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Vi Văn Q cho hai đối tượng nghiện ma túy sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà ở thuộc quyền sở hữu của bị cáo tại Thôn K, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn đã cấu thành tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Vi Văn Q về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là chưa đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần chuyển tội danh Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vi Văn Q sang tội danh Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt bằng tội mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Vi Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Vi Văn Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và 07 (bẩy) năm tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt của hai tội, bị cáo phải chịu hình phạt chung là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 12/01/2021.

34

6

Bản án số 178/2021/HS-PT ngày 15 tháng 7 năm 2021 Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Nội dung:

Sự việc xảy ra xuất phát từ việc anh Nông Đức T1 có nợ của bị cáo Nguyễn Tấn T số tiền 10.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh quá hạn không trả nên bị cáo gọi anh T1 đến trả nợ nhưng anh T1 không có tiền trả và xin khất nợ nên bị cáo Nguyễn Tấn T bực tức dùng vũ lực (tay, chân và cây cơ bida) đánh anh T1 mục đích để đòi tiền nợ, bị cáo ép anh T1 gọi điện thoại cho người nhà để mượn tiền trả cho bị cáo nhưng anh T1 vẫn không mượn được tiền, nên bị cáo tiếp tục đánh và bắt anh T1 viết giấy mượn số tiền 10.000.000 đồng và để lại chiếc xe mô tô để làm tin, khi nào có đủ tiền mang đến trả thì lấy xe về. Như vậy, hành vi dùng vũ lực đánh anh T1 của bị cáo là nhằm mục đích đòi tiền từ anh T1 chứ không nhằm mục đích chiếm đoạt ngay tài sản là chiếc xe mô tô anh T1 đang sử dụng, đồng thời trên người anh T1 lúc đó có số tiền 400.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhưng bị cáo không chiếm đoạt đã thể hiện bị cáo chỉ muốn anh T1 viết giấy nhận nợ và giữ lại xe của anh T1 để làm tin, khi nào anh T1 mang 10.000.000 đồng trả thì bị cáo trả lại xe.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội “Cướp tài sản”. Xử phạt Nguyễn Tấn T 07 (Bảy) năm tù.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Hành vi của bị cáo đối với anh T1 không mang tính mãnh liệt và tức thời, chưa đến mức làm tê liệt ý chí của anh T1, khi bị cáo đánh anh T1 thì anh T1 hoàn toàn có điều kiện để đối phó và có thể kháng cự được nhưng chỉ hạn chế ở chỗ do lo sợ mà anh T1 đã giao tài sản cho bị cáo. Hơn nữa, trong quán cà phê lúc này vẫn có người biết được việc bị cáo đánh anh T1. Hành vi của bị cáo đối với anh T1 không mang tính mãnh liệt và tức thời, chưa đến mức làm tê liệt ý chí của anh T1, khi bị cáo đánh anh T1 thì anh T1 hoàn toàn có điều kiện để đối phó và có thể kháng cự được nhưng chỉ hạn chế ở chỗ do lo sợ mà anh T1 đã giao tài sản cho bị cáo. Hơn nữa, trong quán cà phê lúc này vẫn có người biết được việc bị cáo đánh anh T1. Do vậy, hành vi của bị cáo có đầy đủ yếu tố cấu thành của tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô của bị cáo phạm vào
tội “Cướp tài sản” là chưa chính xác, chưa đánh giá đúng bản chất, tính chất và mức độ của hành vi phạm tội.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 14/QĐ-VKS-P7 ngày 13/5/2021, của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 119/2021/HS-ST ngày 15/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột về tội danh, Điều, khoản áp dụng và mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tấn T. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T 03 (Ba) năm tù.

43

7

Bản án số 03/2021/HS-PT ngày 07 tháng 01 năm 2022 Toà án nhân dân tỉnh Bình Định.

Nội dung:

Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 16/3/2021, tại đoạn đường QL1A, thuộc phường T, thị xã H, tỉnh Bình Định. Sau khi thấy Nguyễn Quan C điều khiển xe ô tô BKS 77A-180.02 tông vào chị Huỳnh Thị Đ (là vợ của C) làm cho chân phải của chị Đ bị kẹt giữa xe ô tô và xe mô tô BKS 81G1-197.26. Lúc này D dùng tay kéo chị Đ ra nhưng không được nên D nói “ Có ai biết lái xe, lùi dùm xe để lấy chân vợ anh C ra”, nhưng không ai trả lời. Lúc này, xe ô tô còn nổ máy, mặc dù bị cáo không có giấy phép lái xe nhưng vì cứu chị Đ nên bị cáo lên xe điều khiển cho xe lùi về sau khoảng 2m rồi dậm thắng dừng xe lại. D không tắt máy, bước đến cửa định xuống nhưng không biết thao tác an toàn khi đỗ xe làm cho xe trôi về phía trước nên khi xe tự trôi về phía trước bị cáo quay lại lúng túng đạp nhầm chân thắng thành chân ga làm cho xe tăng tốc cao, tông vào người anh C gây tai nạn làm anh C chết do suy hô hấp cấp do chấn thương ngực kín gây tràn khí, tràn máu màng phổi và đa chấn thương.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Ngô Trường D phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Xử phạt bị cáo Ngô Trường D 30 (ba mươi) tháng tù.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Căn cứ hành vi của bị cáo đã gây ra, cấp sơ thẩm truy tố, xét xử bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 BLHS là không đúng với bản chất của sự việc. Bởi vì khi thấy chân phải của chị Đ bị kẹt giữa xe ô tô và xe mô tô BKS 81G1-197.26 thì bị cáo dùng tay kéo chị Đ ra nhưng không được nên bị cáo nói “ Có ai biết lái xe, lùi dùm xe để lấy chân vợ anh C ra”, nhưng không ai trả lời. Do đó khi thấy xe ô tô còn nổ máy bị cáo đã lên xe lùi về phía sau để cứu chị Đ. Vì vậy bị cáo điều khiển xe ô tô không phải để tham gia giao thông mà vì mục đích cứu chị Đ, nhưng do thao tác xử lý không đúng nên đã vô ý đâm vào bị hại đang ở phía trước đầu xe ô tô, hậu quả làm bị hại chết là ngoài ý muốn của bị cáo. Vì vậy hành vi của bị cáo Ngô Trường D đã phạm tội “Vô ý làm chết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 128 của Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Trường D, sửa Bản án sơ thẩm. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Trường D phạm tội “Vô ý làm chết người”. Xử phạt bị cáo Ngô Trường D 10 (Mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 16/3/2021.

50

8

Bản án số 07/2022/HS-PT ngày 27 tháng 01 năm 2022 Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

Nội dung:

Ngày 29/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định tiếp nhận tố giác tội phạm của anh Vũ Văn M về việc: Khoảng 01 giờ ngày 28/3/2021, hồ câu của anh Vũ Văn M tại Bản B, xã C, huyện T, tỉnh Lạng Sơn bị kẻ gian trộm đánh bắt cá. Qua kiểm tra xác minh tin báo tội phạm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định đã xác định được các đối tượng Trần Duy T, Nguyễn Vũ P và Vương Minh H là người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (cá) của anh Vũ Văn M đem bán lấy tiền, bản thân Trần Duy T còn chứa chấp việc Nguyễn Vũ P, Vương Minh H sử dụng trái phép chất ma túy.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Trần Duy T phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy và tội Trộm cắp tài sản. xử phạt bị cáo Trần Duy T 08 (tám) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt là 10 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/3/2021.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Tại Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30-6-2020 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp nghiệp vụ thì: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiệncung cấp ma túyđịa điểm, phương tiện, dụng cụ… để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02-8-2021 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp nghiệp vụ điểm 7 Mục I thì: Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Vũ P là người cung cấp ma túy, bị cáo Trần Duy T cùng Nguyễn Vũ P, Vương Minh H sử dụng ma túy tại địa điểm do bị cáo Trần Duy T đang quản lý, chuẩn bị dụng cụ là chai nhựa, cóong thủy tinh, bật lửa để cùng Nguyễn Vũ P, Vương Minh H sử dụng ma túy. Do đó, các Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn điều tra, tuy tố, xét xử bị cáo Trần Duy T về hành vi Chứa chấp việc sử dụng ma túy trái phép là chưa phù hợp; hành vi của bị cáo Trần Duy T cần xét xử về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp hơn

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2021/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn về tội danh của bị cáo Trần Duy T, cụ thể như sau: Tuyên bố bị cáo Trần Duy T phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Trần Duy T 08 (tám) năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10 (mười) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tại Bản án số 38/2021/HSST ngày 24/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Bị cáo Trần Duy T phải chấp hành hình phạt chung là 15 (mười năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt là ngày 29/3/2021.

56

9

Bản án số 42/2019/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2019 Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà.

Nội dung:

Do muốn có tiền để sử dụng vào mục đích cá nhân nên Võ Thị Thu L đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Mặc dù biết rõ Công ty TNHH Ngọc L cũng như cá nhân Võ Thị Thu L không được phép tổ chức đăng ký hoạt động dịch vụ tư vấn du học nhưng Võ Thị Thu L vẫn gian dối, mạo danh mình là Tổng giám đốc của Công ty TNHH Ngọc L để ký kết các “Hợp đồng du học tự túc tại Hoa Kỳ”, “Hợp đồng du học tại Hoa Kỳ theo chương trình trao đổi văn hóa cấp độ Trung học” với những người có nhu cầu cho con đi du học tại Hoa Kỳ, rồi chiếm đoạt số tiền của họ đã đóng theo hợp đồng. Với phương thức và thủ đoạn như trên, trong khoảng thời gian từ 16/10/2014 đến 04/8/2015, Võ Thị Thu L đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 08 người với tổng số tiền: 3.146.464.380 tỷ đồng (ba tỷ, một trăm bốn mươi sáu triệu, bốn trăm sáu mươi bốn nghìn, ba trăm tám mươi đồng).

Nhận định của toà án:

Như vậy, theo nội dung giao kết trong các hợp đồng du học tự túc và trao đổi văn hóa tại Hoa Kỳ, bị cáo đã thực hiện một số công việc như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc bị cáo chưa liên hệ với Bộ giáo dục để học sinh được đi du học theo như cam kết, đây là công việc bị cáo chưa làm nhưng vẫn còn nằm trong thời hạn của hợp đồng. Mặt khác, chị Trương Lệ Kim L1 khai sau khi con chị (cháu Lê Anh Th) làm hồ sơ đi du học ở công ty của bị cáo L không được, cháu đã tự lên mạng internet (online) đăng ký, làm thủ tục du học tự túc và không cần phải liên hệ với Bộ giáo dục. Do đó, không thể cho rằng bị cáo chưa thực hiện việc này là có hành vi gian dối như cáo buộc của Viện kiểm sát. Từ những phân tích trên cho thấy, trước khi ký kết các hợp đồng, bị cáo không dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của những người bị hại, nên hành vi của bị cáo không cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Như vậy, sau khi nhận hợp đồng làm hồ sơ đăng ký du học tại Hoa Kỳ cho các phụ huynh học sinh, bị cáo chỉ sử dụng 136.101.500 đồng để chi phí cho việc thực hiện một số công việc theo hợp đồng, còn lại 3.013.342.780 đồng bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt, sử dụng cho cá nhân. Hành vi này của bị cáo có dấu hiệu cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Vì tội tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhẹ hơn tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, nên theo quy định tại khoản 2 Điều 298 của Bộ luật hình sự về giới hạn của việc xét xử, Tòa án có quyền chuyển tội danh và xét xử bị cáo.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Võ Thị Thu L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Thu L 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ”.

63

10

Bản án số 432/2019/HS-PT ngày 26 tháng 7 năm 2019 Toà án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội.

Nội dung:

Đầu năm 2007, Phạm Văn L được nhân dân thôn S bầu làm Trưởng thôn S, xã Q, huyện D, tỉnh Bắc Giang. Ngày 30/01/2007, Chủ tịch UBND xã Q ra Quyết định số 11/QĐ-UBND về việc công nhận chức danh Trưởng, Phó thôn nhiệm kỳ 2007-2009 đối với Phạm Văn L giữ chức vụ Trưởng thôn, ông Phạm Văn Luân giữ chức vụ Phó thôn, nội dung của quyết định quy định: nhiệm vụ của Trưởng thôn chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tổ chức thực hiện, hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ Nhà nước giao; Chịu trách nhiệm trước nhân dân, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội – an ninh – quốc phòng ở địa phương. Nhiệm vụ của Phó thôn là chịu sự phân công của Trưởng thôn, tham mưu giúp việc cho Trưởng thôn hoàn thành nhiệm vụ. Tháng 12/2008, thì ông Nguyễn Văn P được bầu làm Phó thôn thay ông Phạm Văn Luân (theo Quyết định số
94/QĐ-UBND ngày 05/12/2008 của Chủ tịch UBND xã Q). Ngày 30/3/2007, Chi bộ thôn S tổ chức Đại hội Chi bộ giữa nhiệm kỳ 2006-2008, Đại hội đã thông qua Nghị quyết về việc xây dựng các công trình phúc lợi của thôn. Cuối năm 2007, để có kinh phí xây dựng các công trình phúc lợi, công trình công cộng của thôn như: làm đường bê tông nội thôn, xây dựng nhà văn hóa thôn…; Phạm Văn L đã tự ý phân chia diện tích đất ở các xứ Đồng Bấu, Sốc Làng thành các lô đất, mỗi lô có diện tích là 150 m2 (rộng 06m, dài 25m) để bán cho dân làm đất ở và thu tiền của họ. Từ cuối năm 2007 đến tháng 11 năm 2010, L đã giao trái phép 37 lô đất (phần lớn mỗi lô đất có diện tích 150m2) cho 28 hộ dân với tổng diện tích là 5.625 m2, thu tổng số tiền là 1.605.000.000 đồng.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 06 năm tù về tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” và 02 năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 08 năm tù.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Khi xét xử cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhưng chưa đánh giá đúng tính chất mức độ, hậu quả thiệt hại nên đã xử phạt bị cáo mức án như Bản án sơ thẩm là có phần nghiêm khắc. Bởi vì, đối với tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” bị cáo chỉ bị xử phạt ở khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự; đối với hành vi chiếm đoạt số tiền 20.191.000 đồng: Như đã phân tích ở trên, hành vi của bị cáo cấu thành tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, đây là tội phạm có khung hình phạt nhẹ hơn tội “Tham ô tài sản”; hơn nữa bị cáo đã nộp đủ số tiền để khắc phục hậu quả. Vì vậy, theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo về cả hai tội là có căn cứ. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị chuyển tội danh sang tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có căn cứ.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Sửa Bản án sơ thẩm số: 66/2015/HSST ngày 08/12/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Phạm Văn L, tuyên bố bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” và tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. xử phạt bị cáo Phạm Văn L 05 (năm) năm tù về tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” và 01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 06 (sáu) năm tù.

76

11

Bản án số 124/2019/HSPT ngày 25 tháng 10 năm 2019 Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Nội dung:

Khoảng 10 giờ 40 phút ngày 5/5/2019, tại tỉnh lộ 879, thuộc ấp T, xã TH, huyện C, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy – Công an huyện C phối hợp với Công an xã TH kiểm tra bắt quả tang bị cáo G đang điều khiển xe mô tô biển số 72G1-460.03 lưu thông hướng từ thành phố T, tỉnh L về xã PK, huyện C. Qua kiểm tra phát hiện bị cáo G cất giấu một bịch nylon màu trắng chứa tinh thể trong suốt nghi là ma túy. Bịch nylon trên được quấn băng keo đen bên ngoài và để trong túi áo khoác bên phải phía trước ngực của bị cáo G. Theo bản Kết luận giám định số 78/KLGĐ-PC09 ngày 8/5/2019 của Phòng
Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh T kết luận: mẫu tinh thể trong suốt trong 01 gói ny lon màu trắng hàn kín được quấn băng keo màu đen xung quanh, để trong một gói màu trắng được niêm phong có các chữ ký ghi họ tên: Võ Văn G (người bị bắt), Huỳnh Văn C (người chứng kiến), Phạm Minh T (Kiểm sát viên) và Võ Tuấn K (Điều tra viên) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,4704 gam loại Methamphetamine.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn G phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Võ Văn G 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 05/5/2019.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có liên quan, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” không phải tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” như cấp sơ thẩm đã xét xử. Bởi lẽ, bị cáo khai nhận số tiền mua ma túy là của bị cáo có được, mục đích mua ma túy về để sử dụng vì bản thân bị cáo nghiện ma túy. Bị cáo cũng không vận chuyển thuê cho ai, cũng không ai thuê bị cáo vận chuyển số ma túy này nên cấp sơ thẩm xét xử bị cáo G phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” là không đúng với nội dung, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội nên cấp phúc thẩm chuyển tội danh đối với bị cáo cho phù hợp. Theo Kết luận giám định số 78/KLGĐ-PC09 ngày 08/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh T thì khối lượng ma túy của bị cáo khi bắt là 2,4704 gam loại Methamphetamine. Căn cứ vào khối lượng ma túy trên thì bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy “ theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự với khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm. Hơn nữa tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có khung hình phạt nhẹ hơn so với tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nên cấp phúc thẩm xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 51/2019/HSST ngày 21 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T. Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn G phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Võ Văn G 02 (hai) năm 06 ( sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 05/5/2019.

94

12

Bản án số 50/2019/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2019 Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định.

Nội dung:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 21-8-2019 tại khu nhà trọ của anh Phạm Trọng Đ ở thôn N, xã L, huyện V, tỉnh Nam Định; Nguyễn Văn C có hành vi trêu chị L là bạn gái của K, C ôm chị L và nói là “Cho anh ôm cái cho tình cảm đi lên”, khi có người nói “người yêu nó đang ở đấy” thì C nói “người yêu nó là cái L… gì”, sau đó C cầm 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ dạng ghế tựa cao 69 cm, rộng 49 cm vụt liên tiếp 1-2 phát từ trên xuống dưới trúng vào đầu và lưng của K. K nhìn thấy con dao gọt hoa quả để ở trong chiếc giá nhựa, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng có đầu nhọn 12,5cm, rộng 02cm, chuôi bằng nhựa màu đen dài 10cm liền cầm lên để sát hông người. C tiếp tục dùng chân tay đấm đá K khoảng 2-3 phát, Vũ Thành Đ là bạn C cũng lao vào dùng tay, chân đấm, đạp vào lưng và bắp chân trái của K. Bị C và Đ đánh, K dùng tay phải cầm dao đâm 1 phát hướng từ sau ra trước, từ dưởi lên trên trúng vào bụng dưới rốn của C gây thương tích cho anh C với tỷ lệ th-¬ng tËt lµ 43%. Cáo trạng số 47/CT-VKSVB ngày 06-11-2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Hoàng Duy K về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Nhận định của toà án:

Liên tiếp phía người bị hại tấn công bị cáo, tuy không gây ra thương tích cho bị cáo nhưng hành vi đó là trái pháp luật nghiêm trọng, làm cho tinh thần bị cáo bị kích động mạnh, mất tự chủ và không kiềm chế được bản thân do đó đã dẫn đến việc bị cáo K gây ra thương tích cho bị hại với tỷ lệ th-¬ng tËt lµ 43%. Đối chiếu hành vi của bị cáo với những quy định của pháp luật hiện hành, hội đồng xét xử đã có căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 135 của Bộ luật Hình sự, đúng như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện đề nghị tại phiên tòa là có cơ sở.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Duy K phạm tội “Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Xử phạt bị cáo Hoàng Duy K 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ.

98

13

Bản án số 28/2020/HS-ST ngày 02 tháng 6 năm 2020 Toà án nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

Nội dung:

Ngày 12/01/2020 Vi Văn C đi lên xã Tr, huyện Q mua 01 gói Heroine và 02 gói Methamphetamine về cất giấu. Đến khoảng 17 giờ, ngày 15/01/2020 có một người tên Trang đến hỏi mua 4 gói Methamphetamine với giá mỗi gói 3.500.000 đồng. Bị cáo trả lời không có, nếu muốn mua thì đưa tiền cho bị cáo đi mua cho. Hiện nay còn hơn một gói bị cáo để sử dụng và không bán. Cùng lúc đó bị cáo đưa 2 viên ma túy ra cùng với người tên Trang sử dụng thì bị bắt quả tang. Thu giữ của Vi Văn C 01 gói chất bột màu trắng; 02 gói viên nén màu hồng có 264 viên và 01 chiếc cân tiểu ly. Lợi dụng sơ sở người tên Trang bỏ trốn. Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q qua xác định trọng lượng gói chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn C có khối lượng 2,1 gam; 02 gói (264 viên) nén màu hồng thu giữ của Vi Văn C có tổng khối lượng 26,4 gam. Bản kết luận giám định số 186/KL- PC09(Đ2-MT) ngày 20/01/2020 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Na kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn C (ký hiệu A3) gửi tới giám định là Heroine. Chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn C có khối lượng 2,1 gam (Hai phẩy một gam). Hai mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu A1, A2) thu giữ của Vi Văn C gửi tới giám định đều là Methamphetamine. Số viên nén màu hồng (02 gói) thu giữ của Vi Văn C có tổng khối lượng 26,4 gam (Hai mươi sáu phẩy bốn gam). Cáo trạng số 25/CT-VKS- QP ngày 14/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Na truy tố bị cáo Vi Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo các điểm p, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Nhận định của toà án:

Bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước; bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, đây là trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm n, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q chuyển tội danh từ tội “Mua bán trái phép chất ma túy” sang tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn C từ 08 đến 09 năm tù; người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là hợp lý.

Toà án tuyên xử:

Tuyên bố: Vi Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Phạt Vi Văn C 08 (Tám) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/01/2020.

106

14

Bản án số 50/2019/HS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2019 Toà án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

Nội dung:

Bị cáo Văn Đình T và bị cáo Cao Trọng G cùng cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện tỉnh Tây Ninh, bị cáo Thảo chấp hành xong được về địa phương trước, còn bị cáo Giang còn tiếp tục cai nghiện tại cơ sở. Ngày 02/3/2019, bị cáo Giang điện thoại cho bị cáo Thảo nhờ mua ma túy sử dụng, kêu Thảo đến gặp chị Hiền (vợ bị cáo Giang) nói đưa 2.000.000 đồng để trả nợ, chị Hiền đưa tiền xong bị cáo Thảo chạy xe mô tô xuống thị trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh gặp người tên Gấm (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 03 bịch ma túy, giá 1.200.000 đồng, tiền công vận chuyển bị cáo Thảo được bị cáo Giang trả là 500.000 đồng. Qua giám định 02 bịch ma túy loại Heroin có khối lượng 0,7289 gam; 01 bịch ma túy loại Methamphetamine (ma túy đá) có khối lượng 0,1625 gam. Tại Bản cáo trạng số: 43/CT-VKSTC ngày 17/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Văn Đình T và bị cáo Cao Trọng G về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự
năm 2015.

Nhận định của toà án:

Hành vi của bị cáo Thảo được bị cáo Giang cho số điện thoại liên lạc với người bán ma túy mua và vận chuyển cho bị cáo Giang sử dụng lấy tiền công 500.000 đồng, hành vi này đã cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Điều 250 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Giang nhờ bị cáo Thảo mua ma túy về mục đích sử dụng đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Cao Trọng G tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là chưa đúng, so sánh khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt nhẹ hơn khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự. Căn cứ khoản 2 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý bị cáo Cao Trọng G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tại phiên tòa Đại viện Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với bị cáo Cao Trọng G về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, chuyển tội danh sang tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận.

Toà án tuyên xử:

Xử phạt bị cáo Cao Trọng G: 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 04/3/2019. Xử phạt bị cáo Văn Đình T: 03 (ba) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/3/2019.

110

15

Bản án số 111/2017/HS-PT ngày 07 tháng 7 năm 2017 Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Nội dung:

Vào khoảng 00 giờ ngày 15/02/2016, sau khi uống rượu xong, Nguyễn Văn K cùng Lê Tuấn K1 chạy xe hướng về nhà K tại ấp P, xã M, huyện C, tỉnh K để tìm bạn nhậu nhưng không gặp nên K và K1 chạy về sà lan nơi sà lan đậu. Trên đường về, K nhìn thấy dưới mé sông có bầy vịt của ông Phan Văn P đang nhốt trong chuồng nên K dừng xe lại để bắt trộm một con vịt để ăn, lúc này ông Võ Thành N đang ngủ gần đó nghe tiếng động nên đi ra xem, K nhìn thấy ông N dáng cao to bước tới chỗ K, K1 móc dao ra và kêu ông N “dừng lại, đừng bước lại gần” và hỏi xin một con vịt, ông N nói không phải vịt của ông nên không cho được và đứng im tại chỗ, cùng lúc này ông Phan Văn N từ trong nhà mở cửa đi ra, K kêu K hỏi N, K cầm dao chạy lại định hỏi xin nhưng lúc này anh N nhìn thấy K1 cầm dao nên bỏ chạy vào nhà đóng cửa lại. Lúc này, K kêu K1 vào chuồng bắt một con vịt trắng khoảng 03 kg để vào cóp xe và chạy về nơi đậu xà lan. Qua định giá, một con vịt siêu thịt, lông màu trắng, có trọng lượng 03 kg trị giá 174.000 đồng. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Cướp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 07 (Bảy) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 27/9/2016.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Hội đồng xét xử xét thấy, án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự là chưa phù hợp quy định pháp luật, chưa đúng bản chất của vụ án. Bởi lẽ, lúc đầu bị cáo đi nhậu cầm theo dao thái lan để thủ thân, bị cáo đi không gặp bạn nhậu trên đường về gặp bầy vịt, tính vào trộm 01 con để ăn. Khi có tiếng động thì ông N đi ra tiến lại gần bị cáo, bị cáo sợ nên móc dao ra dọa ông N và kêu ông N „dừng lại, đừng bước lại gần”, bị cáo dùng dao dọa ông N không cho ông N lại gần đánh bị cáo, chứ không dùng vũ lực đối với ông N và không đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm ông N lâm vào tình trạng không thể chống cự được mà chỉ nhằm uy hiếp về mặt tinh thần của ông N nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Đối với đối tượng tên K chạy lại chỗ ông Phan Văn N để xin vịt, thấy K cầm dao, ông N bỏ chạy vào nhà và đóng cửa lại, K cũng không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, nên hành vi trên của bị cáo K không đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản” mà là tội “Cưỡng đoạt tài sản” được quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn K. Sửa bản án sơ thẩm. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 18 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2016.

116

LINK TẢI PDF: Tổng hợp 15 bản án hình sự về trường hợp chuyển tội danh

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan