FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án dân sự bị hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 15 bản án dân sự bị hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
STT |
BẢN ÁN |
TRANG |
1 | Bản án số: 16 /2023/DS-PT Ngày: 22 – 6 – 2023 Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình
V/v tranh chấp về thừa kế tài sản Tóm tắt nội dung vụ án: Bố đẻ bà M là cụ Nguyễn Văn Liễu chết ngày 14/3/2013 và mẹ đẻ là cụ Phạm Thị Tú chết ngày 23/6/2018. Cụ Liễu, cụ Tú có 07 người con. Cụ Liễu, cụ Tú chết để lại tài sản là 410m2 đất tại thửa số 188, tờ bản đồ số 13. Cụ Liễu, cụ Tú chết không để lại di chúc. Bản di chúc đề ngày 12/5/2012 có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã K do ông Th cung cấp cho Tòa án không phải là di chúc của cụ Liễu và cụ Tú. Bản di chúc không hợp lệ vì thời điểm lập di chúc GCNQSDĐ đang được thế chấp tại Ngân hàng, thể thức văn bản di chúc không đúng. Về việc Ủy ban nhân dân huyện Yên Khánh ra Quyết định số 100/QĐUBND ngày 17/10/2013 cho phép hộ cụ Tú chuyển quyền sử dụng thửa đất số 188 cho hộ ông Th và cấp GCNQSDĐ số BP 382751 ngày 17/10/2013 mang tên ông Th, bà C; việc chuyển nhượng này là không hợp lệ nên bà M đã khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình, yêu cầu hủy GCNQSDĐ ghi tên ông Th, bà C. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M; yêu cầu chia thừa kế của người có quyền, nghĩa vụ liên quan 6 đến vụ án là bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị Th1, bà Nguyễn Thị Th2, bà Nguyễn Thị D, bà Nguyễn Thị D1. – Chấp nhận yêu cầu của bà M, bà V, bà Th1, bà Th2, bà D, bà D1. Buộc vợ chồng ông Th và bà C phải tháo dỡ “01 nhà lán tôn” và các tài sản khác xây dựng trên phần đất chia thừa kế cho bà M, bà V, bà Th1, bà Th2, bà D, bà D1; để trả lại quyền sử dụng đất cho bà M, bà V, bà Th1, bà Th2, bà D, bà D1. – Giao cho ông Th tiếp tục quản lý 155,3m2 đất, số thửa 188, tờ bản đồ số 13 bản đồ địa chính xã K; địa chỉ tại xóm 1B, xã K, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn không thừa nhận bản di chúc và xác định di chúc không hợp pháp. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ để làm rõ trình tự thủ tục chứng thực di chúc mà đã kết luận phần di chúc của cụ Liễu không hợp pháp là chưa có cơ sở vững chắc. – Trong vụ án này, nguyên đơn yêu cầu chia di sản của cụ Liễu, cụ Tú là 410m2 đất cho 07 người con của của hai cụ nhưng bản án sơ thẩm chỉ chia 254,7m2 (254,7m2 /410m2 ) cho 6 người là bà V, bà M, bà Th1, bà Th2, bà D và bà D1, không xem xét đến quyền thừa kế (thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật) của ông Th, bà C mà để lại 155,3m2 và giao cho ông Th tiếp tục quản lý, khi nào có yêu cầu khởi kiện tranh chấp về thừa kế, Tòa án sẽ xem xét giải quyết thành vụ án riêng là giải quyết không hết yêu cầu khởi kiện, bỏ lọt di sản thừa kế, đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. – Phía nguyên đơn cho rằng cụ Tú và tất cả các con đã họp phân chia đất và cùng ký vào biên bản họp; phía bị đơn xác nhận có cuộc họp gia đình nhưng không có đầy đủ anh chị em, không lập biên bản, chữ ký trong biên bản do nguyên đơn giao nộp không phải là chữa ký của vợ chồng bị đơn. Đây là tài liệu, chứng cứ và tình tiết mới phát sinh chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, đánh giá nên cấp phúc thẩm không khắc phục được. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Hủy Bản án sơ thẩm số 03/2023/DS-ST ngày 12/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
1 – 10 |
2 | Bản án số: 24/2023/DS-PT Ngày 07-04-2023 Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng
V/v Tranh chấp thừa kế tài sản Tóm tắt nội dung vụ án: Bố ông A là cụ Lục Ích O, trước khi chết bố ông không để lại di chúc. Mẹ ông là cụ La Thị P, chết năm 2017. Bố mẹ ông sinh được 03 người con chung. Năm 1966, Tòa án nhân dân khu tự trị Việt Bắc đã xử cho bố mẹ ông được ly hôn. Sau khi ly hôn, bố ông lấy vợ hai là cụ Lục Thị Q và sinh được bốn người con chung. Như vậy, bố ông sinh được tất cả 07 người con, 01 người con đã chết còn lại 06 người con cùng bố khác mẹ. Trước khi chết, bố ông không để lại di chúc. Di sản của bố ông để lại gồm có: – 01 nhà gỗ nghiến; Thửa đất số 142, tờ bản đồ số 76, diện tích: 185,2m2 – 22 thửa ruộng và đất trồng màu; Địa chỉ: thị trấn F, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Sau khi được nghỉ hưu từ năm 2010 ông đã trao đổi với Lục Trường Đ và các em về việc phân chia tài sản của bố để lại, các em đã phản ứng gay gắt và mâu thuẫn, xung đột đã xảy ra mà không thể tự giải quyết được. Nên ông đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lục Văn A yêu cầu thừa kế đối với di sản của ông Lục Ích O theo quy định của pháp luật. – Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Lục Thị J yêu cầu thừa kế đối với di sản của ông Lục Ích O theo quy định của pháp luật. – Không chấp nhận yêu cầu độc lập bổ sung của bà Lục Thị J. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Khi tiến hành giải quyết vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” cần tiến hành định giá tài sản để xác định được tổng giá trị di sản thừa kế, nếu phải chia bằng hiện vật thì người được hưởng hiện vật nhiều hơn sẽ phải thanh toán giá trị bằng tiền mặt cho người được hưởng kỉ phần ít hơn, trên cơ sở đó khi tiến hành chia di sản thừa kế mới đảm bảo các kỉ phần có giá trị bằng nhau, đảm bảo quyền lợi cho những người hưởng thừa kế. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tiến hành định giá tài sản đối với đất ở thửa số 142, tờ bản đồ số 76 mà không tiến hành định giá đối với các thửa đất khác là di sản thừa kế là trái với quy định tại điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự. – Việc tòa án cấp sơ thẩm không định giá tài sản là khối di sản gồm 20 thửa đất số 54, 72, 73, 97, 98, 116, 117, 137, 150, 151, 171, 172, 190, 191, 207, 208, 210, 225, 226 và 422 tại tờ bản đồ số 39 tại xóm Nà Chùa, thị trấn 19 F, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng có tổng diện tích 6464,6m2; và 2 thửa đất trồng hoa màu 130, 155 tờ bản đồ số 75 tại xóm H1, thị trấn F là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tại phiên tòa cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lục Trường G. Hủy bản án sơ thẩm số 06/2022/DS-ST ngày 30/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng giải quyết lại theo quy định của pháp luật với Hội đồng xét xử khác. |
11 – 30 |
3 | Bản án số: 12/2023/DS-PT Ngày: 02 – 3 – 2023 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
V/v: Tranh chấp di sản thừa kế” Tóm tắt nội dung vụ án: Bố mẹ của nguyên đơn và bị đơn là cụ Lê Văn T5 và cụ Đinh Thị B sinh được 09 người con. Năm 1989 thì bố mẹ ly hôn. Sau khi ly hôn, ngày 22/12/1992 cụ T5 mua lại nhà và đất của bà Hồ Thị M2. Nguồn gốc nhà đất mà bà M2 bán cho cụ T5 trước đây là của vợ chồng bà Hồ Thị M2 và ông Hoàng Duy Đ nhưng sau khi bà M2 với ông Đ ly hôn thì Tòa án đã giao cho bà M2 được quyền sở hữu và sử dụng toàn bộ tài sản chung của vợ chồng, trong đó bao gồm nhà và đất. Do bà M2 không có nhu cầu sử dụng nên đã bán lại cho cụ T5, khi bán bà M2 có giao lại quyết định cấp đất cho cụ T5 và việc mua bán giữa bà M2 với cụ T5 được các cấp có thẩm quyền xác nhận. Năm 2007, UBND huyện T ra quyết định thu hồi 1,4 m2 đất ở của cụ T5 để phục vụ nâng cấp quốc lộ 12A. Việc sử dụng đất ổn định không có tranh chấp, hằng năm cụ T5 đều thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đầy đủ, đang trong thời gian chờ các cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cụ T5 bệnh nặng và qua đời vào ngày 10/02/2013. Cụ T5 chết, không để lại di chúc. Năm 2011, vợ chồng ông Lê Văn S mượn đất của bố (cụ T5) để làm quán và chuyển ra sống cùng với bố. Sau khi bố mất thì ông S đã tự ý xây dựng nhà và các công trình phụ trên đất của bố để lại. Nay ông Lê Thanh H1 và các đồng thừa kế có yêu cầu khởi kiện chia di sản của bố là cụ Lê Văn T5. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần đơn khởi kiện về “Tranh chấp phân chia di sản” của các đồng nguyên đơn: ông Lê Thanh H1, ông Lê Quốc H2, ông Lê Mạnh H3, ông Lê Chí M, bà Lê Thị T1, bà Lê Thị Hồng M1, bà Lê Thị Kim T2 và bà Lê Thị Kim T3 đối với ông Lê Văn S. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cho rằng: “… sau khi ly hôn bà M2 chỉ được sử dụng, sở hữu ngôi nhà, còn thửa đất là tài sản riêng và thuộc quyền sử dụng của ông Hoàng Duy Đ” và từ nhận định đó, Tòa án sơ thẩm đã Quyết định không chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế đối với thửa đất của cụ T5 để lại cho các đồng thừa kế (nguyên đơn, bị đơn) đồng thời lại Quyết định giao thửa đất trên (thửa số 24, tờ bản đồ 36, tiểu khu Đ, thị trấn Đ) cho ông Hoàng Duy Đ tiếp tục quản lý, sử dụng, là đánh giá không đúng bản chất sự việc; làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cả nguyên đơn và bị đơn. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án thì ông Hoàng Duy Đ không có yêu cầu độc lập về việc đòi lại thửa đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại quyết định giao thửa đất trên cho ông Hoàng Duy Đ là vượt quá yêu cầu khởi kiện. – Theo biên bản thẩm định ngày 23/3/2020 của TAND tỉnh Quảng Bình và biên bản thẩm định ngày 16/12/2021 của TAND huyện Tuyên Hóa thể hiện: Trên mảnh đất thứ 3 (hiện đang có công trình xây dựng của bà Phạm Thị H. Theo lời trình bày của bà Phạm Thị H thì ông S cho bà H thuê đất từ năm 2019 và bà H đã xây dựng trên đó một ngôi nhà ống, mái xuôi diện tích khoảng 7x20m để kinh doanh và hiện nay bà H vẫn sử dụng để kinh doanh. Lời khai này của bà H cũng được ông S xác định là đúng sự thực. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Phạm Thị H vào tham gia tố tụng với tư cách “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” trong vụ án, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Thanh H1, tuyên hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 07/2022/DSST ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa về “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa nguyên đơn: ông Lê Thanh H1, ông Lê Quốc H2, ông Lê Mạnh H3, ông Lê Chí M, bà Lê Thị T1, bà Lê Thị Hồng M1, bà Lê Thị Kim T2 và bà Lê Thị Kim T3 đối với bị đơn: ông Lê Văn S. 2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. |
31 – 39 |
4 | Bản án số: 601/2021/DS-PT Ngày: 17/11/2021 Tòa án nhân dân thành phố H
V/v tranh chấp thừa kế Tóm tắt nội dung vụ án: Khi còn sống, ông N có tài sản là các căn nhà ở và quyền sử dụng đất tại địa chỉ 22/6 ấp XH 2, LX, nay là nhà số 13/33/13 đường số B, khu phố B, phường LX, quận T, Thành phố H. Tài sản có nguồn gốc là của ông nội để lại cho cha bà là Đặng Văn N, đã được cấp Giấy chứng nhận số R970320 do Ủy ban nhân dân quận T cấp ngày 21/5/2001, diện tích 1.462,7m2 thuộc thửa 107 và 115, tờ bản đồ số 71 (bản đồ địa chính năm 2004) và thửa 335, tờ bản đồ số 2 4 (tài liệu 02/CT). Hiện nay ông H đang cất giữ giấy chứng nhận và các giấy tờ liên quan đến tài sản. Năm 2009, ông N chết, nhà và đất do ông H quản lý, trông coi di sản, các chị em trong gia đình nhiều lần yêu cầu ông H thực hiện việc phân chia di sản nhưng ông H không thực hiện. Ông N và bà K chết đều không để lại di chúc. Vì vậy bà V khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Đặng Thị V về việc yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Đặng Văn N tại thửa 107-1 diện tích 891,3m 2 – Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Đặng Thị V về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn 7 liền với đất số BC 473032 vào sổ số CH00344 ngày 30/7/2010 do Ủy ban nhân dân quận T cấp cho ông Đặng Văn H, bà Huỳnh Thị Hồng H. – Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Đặng Thị V về việc buộc ông Đặng Văn H phải tháo dỡ phần xây dựng trên phần đất được chia thừa kế cho bà Đặng Thị V, bà Đặng Thị L, bà Đặng Thị L1. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Bản án sơ thẩm đã xác định hàng thừa kế hợp pháp của ông N là bà Đặng Thị V, ông Đặng Văn H, bà Đặng Thị L, bà Đặng Thị L và xác định toàn bộ phần đất tranh chấp thừa kế là di sản của ông Đặng Văn N có nguồn gốc ông N được thừa kế từ cha là ông Đặng Văn V. Thấy, nhận định này của cấp sơ thẩm là chính xác có căn cứ, nhưng chưa làm rõ nhà đất nêu trên ông N được thừa kế từ thời điểm nào, trước hay sau thời điểm bà K vợ ông chết để xác định đất này thuộc quyền sử dụng riêng của ông N hay là tài sản chung của ông N và bà K trong thời kỳ hôn nhân, từ đó có cơ sở xác định ông N có được toàn quyền định đoạt toàn bộ khối tài sản và xác định di chúc có hợp pháp hay không? – Khi đánh giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm chỉ chủ yếu căn cứ vào 02 Bản di chúc để đánh giá mà không thu thập các chứng cứ khác dẫn đến việc đánh giá thu thập chứng cứ không khách quan toàn diện tất cả các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật không thừa nhận bản di chúc do bị đơn cung cấp là di chúc hợp pháp. – Tòa cấp sơ thẩm chưa làm rõ xác định có hay không việc ông N cho ông H đất năm 2005 và nếu có thì diện tích cụ thể là bao nhiêu? để làm căn cứ xác định di sản thừa kế thực tế còn lại của ông N là bao nhiêu sau khi trừ đi các phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng riêng của ông H, bà H, các phần công sức đóng góp, quản lý, xây dựng nhà và các công trình khác trên đất và công sức chăm sóc, phụng dưỡng ông N. – Bà H không có yêu cầu xem xét về công sức đóng góp trong việc việc quản lý tôn tạo di sản thừa kế nhưng Tòa vẫn phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức nhưng Tòa cấp sơ thẩm lại chưa thu thập chứng cứ về phần này thể hiện trong Biên bản định giá ngày 29/5/2020 (Bút lục số 340, 341) chỉ thể hiện định giá giá trị quyền sử dụng đất mà không định giá giá trị xây dựng và tài sản trên đất là vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, dẫn đến việc nếu trong trường hợp chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế theo pháp luật mà không xem xét công sức cho ông H, bà H là chưa giải quyết triệt để yêu cầu của đương sự (theo Án lệ số 05/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 06/4/2016) – Khi đánh giá tính hợp pháp của các bản di chúc Tòa cấp sơ chỉ căn cứ vào Kết luận giám định dấu vân tay (BL 412) và căn cứ vào bản di chúc có 02 người làm chứng và đưa ra nhận định cho rằng “việc ông N không biết chữ chỉ là suy đoán mà không có căn cứ;”. Trong khi tất cả những người thừa kế hợp pháp là con ruột của ông N trong đó có ông H là bị đơn đều thừa nhận ông N là người không biết chữ Quốc ngữ. Việc Tòa sơ thẩm nhận như trên nhưng lại không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh ông N là người biết chữ. Trong trường hợp này lẽ ra Tòa cấp sơ thẩm phải căn cứ điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự để xác định ông N là người không biết chữ. Tòa cấp sơ thẩm không triệu tập người viết hộ bản di chúc của ông N vào tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng để làm rõ thời điểm ông N lập di chúc và kết thúc việc lập di chúc cũng như ông H và ông D có thực sự là người chứng kiến việc ông N lập bản di chúc ngày 28/7/2008 hay không. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H. – Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Đặng Thị V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị L, bà Đặng Thị L1. – Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 462/2020/DS-ST ngày 10 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận T nay là thành phố T, Thành phố H. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố T, Thành phố H giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
40 – 54 |
5 | Bản án số: 11 /2022/DS-PT Ngày 29-7-2022 Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
“V/v: Tranh chấp chia di sản thừa kế” Tóm tắt nội dung vụ án: Bố ông Tiến là ông Hồ Đình Ph, sinh năm 1910, chết ngày 17/6/1981 và mẹ là bà Lương Thị Kh, sinh năm 1927, chết ngày 10/01/1995. Bố mẹ ông T có thửa đất diện tích khoảng 3.000m2 và ba gian nhà ngói và diện tích đất 562,5m2, Bố mẹ ông sinh được 05 người con. Trước khi chết bố ông T để lại di chúc miệng giao nhà đất cho mẹ con ông T và đến khi mẹ ông T chết để lại di chúc miệng với 05 chị em, các con đều nghe rõ. mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng ông Hồ Văn Đ đều vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên tại biên bản ghi nhận kết quả hòa giải theo quy định của ông Hồ Văn Đ trình bày về họ tên, năm sinh, ngày mất của bố mẹ là đúng như lời trình bày của ông Hồ Đình T. Còn thửa đất số 199, tờ bản đồ số 6, bản đồ 299, diện tích 528m2 , mang tên bà Lương Thị Kh; theo bản đồ địa chính đo đạc năm 2012 là thửa 67, tờ bản đồ số 34, diện tích 562,5m2 có nguồn gốc do bố mẹ để lại, do ông Đ trực tiếp quản lý, sử dụng từ khi lấy vợ vào năm 1991 đến nay, hiện nay chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai. Ông Đ không nghe mẹ để lại di chúc miệng như ông Hồ Đình T trình bày, ông Đ chỉ nghe mẹ dặn là các anh chị đã có nhà đất nơi khác, nên con tôn tạo đất vườn để sử dụng. Do đó ông Đ đã bỏ rất nhiều công sức để tôn tạo thửa đất, hàng năm nộp nghĩa vụ thuế cho nhà nước, nay ông Đỉnh không chấp nhận chia đất vườn theo yêu cầu của ông Hồ Đình T. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Đình T. Tạm giao quyền sử dụng cho ông Hồ Đình T: 102 m2 đất ở. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Việc thu thập chứng cứ và chứng minh vụ án cùa Tòa án cấp sơ thẩm không đúng và chưa được thực hiện đầy đủ theo quy đinh tại chương VII của Bộ luật TTDS 2015. Tại cấp phúc thẩm đã khắc phục được một phần. Nhưng, việc đưa thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong diện thừa kế cũng như người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan liên quan đến phần tài sản là các công trình nhà ở đã xây dựng trên phần đất tranh chấp như đã nêu ở trên của Tòa án cấp sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà không thể khắc phục được tại cấp phúc thẩm. Vì vậy, HĐXX cần áp dụng điều 9 310 BLTTDS tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 06/2021/DSST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện L chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 06/2021/DSST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện L chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
55 – 63 |
6 | Bản án số: 53/2022/DS-PT Ngày: 02/8/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
“V/v Tranh chấp chia thừa kế và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” Tóm tắt nội dung vụ án: Cụ Nguyễn Văn Đ (chết năm 1993) và cụ Nguyễn Thị C (chết năm 2013), sinh được ba người con là bà Nguyễn Thị B, ông Nguyễn Xuân B1 và bà Nguyễn Thị T, hai cụ không để lại di chúc. Cụ C giao cho bà B giữ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Thị C. Cũng trong năm 2013, ông B1 có đến mượn bà B Giấy NQSDĐ của cụ C, nói là để làm thủ tục vay Ngân hàng. Bà B đã đưa Giấy CNQSDĐ cho ông B1 nhưng không thấy ông B1 trả lại. Sau thời gian ông B1 cầm tờ giấy không có nội dung đến nơi bán hàng nhờ bà B ký tên, sau đó cầm tiếp ra chợ đưa cho bà T ký tên. Khi đưa giấy ông B1 chỉ nói ký để làm thủ tục vay vốn Ngân hàng. Vào khoảng tháng 5/2020, bà B thấy chị D ký hợp đồng thuê đất và chuẩn bị sửa lại quán trên đất thuê, bà B hỏi thì chị àm hợp đồng thuê lại đất của ông Binh thêm 05 năm, đồng thời đưa ra cho bà B xem bản phô tô GCNQSDĐ mang tên ông B1, Bà B cho rằng, ông B1 đã có hành vi lừa dối nên mới chuyển nhượng đất của cụ C sang tên ông B1. Khoảng đầu năm 2020, ông B tự thuê thợ đến phá dỡ nhà cũ của bà C để tu sửa lại, Nay bà cho rằng toàn bộ diện tích đất của bố mẹ để lại tại thửa 569, tờ bản đồ số 5 diện tích 210m2 đất, địa chỉ thôn H, xã L, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, mà UBND huyện Hậu Lộc đã cấp cho cụ Nguyễn Thị Cánn gày 30/6/1996 là di sản, nên yêu cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B về yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Ngày 25/3/2022, Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc xét xử và ban hành Bản án số 16/2022/DS-ST giải quyết yêu cầu của nguyên đơn về chia di sản thừa kế theo pháp luật. Đối với yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ số BN 576635 ngày 14/5/2013 do UBND huyện Hậu Lộc cấp cho hộ ông Nguyễn Xuân B1 tại thửa đất số 785, tờ bản đồ số 12, diện tích 210m2 đất, địa chỉ thôn P, xã L, huyện H, tỉnh Thanh Hóa thì nhận định việc cấp Giấy CNQSDĐ là không có cơ sở, chưa đảm bảo chặt chẽ về trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật về đất đai. Nhận định như vậy là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Xuân B1; hủy toàn bộ Bản án số 16/2022/DS-ST ngày 25/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Xuân B1: Hủy Bản án sơ thẩm số 16/2022/DS-ST ngày 25/3/2022 của Toà án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. |
64 – 74 |
7 | Bản án số: 87/2023/DS-PT. Ngày: 14 – 6 – 2023. Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
V/v: “Tranh chấp QSDĐ, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và quyền về lối đi qua bất động sản liền kề”. Tóm tắt nội dung vụ án: Vào năm 2017, gia đình ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Ú có chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh M một phần đất có diện tích 94,5m2 . Khi chuyển nhượng xong ông T giao cho ông M tự làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trước khi chuyển nhượng nhà và đất cho ông M, ông T có thoả thuận phần đất phía trước nhà giáp với đất của Nhà nước thì ông T không bán; phần con hẻm phía trong đi ra quốc lộ F thì ông T không có chuyển nhượng; phần đất ngang 2m phía trước nhà của ông M, ông T để lại làm lối đi, không có sang bán. Đến tháng 01/2019 khi ông M làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đo đạc để cấp giấy chứng nhận cho ông M thì ông T đang nằm viện nên không có ký vào các văn bản nào cho ông M nhưng ông M vẫn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông T phát hiện phần đất và căn nhà đã bán cho ông M không đúng với vị trí thửa đất mà ông M được cấp giấy chứng nhận, ông T đã đề nghị ông M di dời vị trí đất đúng với vị trí căn nhà đã bán nhưng ông M không đồng ý và còn làm luôn phần sân nhà lấn sang con hẻm (lối đi tự mở) chỉ còn lại 0,7m. Vì thế, nay ông T và bà Ú khởi kiện yêu cầu yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Ú. – Chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn ông Nguyễn Thanh M. 2. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 3/11/2017, công chứng số 2984, quyển số 02/2017TP/CC-SCC/HDGD có hiệu lực. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: ông M không đồng ý với các yêu cầu của nguyên đơn và ông M yêu cầu công nhận phần đất tranh chấp cho ông. Xét thấy, tại phiên toà phúc thẩm ông M thừa nhận ông không có làm đơn yêu cầu phản tố, chưa nộp tiền tạm ứng án phí. Điều này, cho thấy ông M chưa thực hiện quyền tố tụng theo quy định nhưng cấp sơ thẩm công nhận phần đất tại vị trí số (1), số (4) và số (5) cho ông M đã vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu của nguyên đơn; không thuộc phạm vi phản tố của bị đơn, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo Điều 5 và khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn T có cơ sở chấp nhận một phần. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn T. – Chấp nhận toàn bộ Quyết kháng nghị phúc thẩm số 50/QĐ-VKS-DS ngày 19/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh Hậu Giang. – Hủy bản án dân sự sơ thẩm số: 187/2022/DS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Hậu Giang. |
75 – 81 |
8 | Bản án số: 114 / 2022/DS-PT Ngày 21/9/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
V/v “ Tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ”. Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng tháng 6 năm 2019, anh được ông Nguyễn Viết Tuân, Anh và anh K thỏa thuận chuyển nhượng thửa số 411, tờ bản đồ 4 diện tích 220m. Ngày 13/11/2019, hai bên ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Đến tháng 04/2020, anh Đ còn đề nghị anh mua thửa đất bên cạnh. Sau đó anh gia đình anh Đ cản trở anh sử dụng đất. Anh yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng anh K, chị Đ1 phải bàn giao cho vợ chồng anh thửa đất số 411. Đầu tháng 4/2020, anh Nguyễn Huy Đ gặp anh đặt vấn đề bán cho anh thửa đất cạnh thửa đất anh mua của anh K. Ngày 28/4/2020, anh và anh Đ ký hợp đồng chuyển nhượng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa số 412, tờ bản đồ 04 diện tích 274,9m2. Sau khi ký hợp đồng anh đã giao tiền theo thỏa thuận và đăng ký biến động quyền sử dụng đất, ngày 29/4/2020, anh được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện V Y xác nhận đăng ký biến động quyền sử dụng đất chuyển nhượng sang cho anh. Anh Đ hẹn anh 01 tháng sau sẽ giao đất. Đến hẹn anh nhiều lần gọi cho anh Đ để bàn giao đất. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bị đơn là anh Nguyễn Văn K đối với anh Nguyễn Huy Đ. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của chị Nguyễn Thị D. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Quá trình giải quyết vụ án, Tòa cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như sau: + Tòa án lại không giải thích cho các đương sự biết về việc trong trường hợp Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô hiệu thì có quyền xem xét giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu như vậy là không đúng với hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Tại Điều 2, mục III Giải đáp một số vấn đề về nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 07/4/2017. + Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ và đưa thiếu người tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, không đúng quy định tại khoản 4 Điều 68, Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự. + Bản án sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà ở cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, vì vậy cần chấp nhận kháng cáo của anh Đ, chị H2, chị D, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 12/2022/DS-ST ngày 27/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên , tỉnh Bắc Giang. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Huy Đ, chị Nguyễn Thị H2, chị Nguyễn Thị D, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. – Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 12/2022/DS-ST ngày 27/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. XEM BẢN ĐẦU ĐỦ TẠI FILE PDF |
82 – 96 |
LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 15 bản án dân sự bị hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn