FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án áp dụng án lệ số 04/2016/AL để giải quyết tranh chấp” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 15 bản án áp dụng án lệ số 04/2016/AL để giải quyết tranh chấp
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số: 165/2019/HNGĐ-ST Ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân Thị xã Dĩ An tỉnh Bình Dương.
V/v: Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn. Nội dung vụ án: Ông N và bà Bùi Thị L là vợ chồng hợp pháp theo giấy đăng ký kết hôn ngày 18/3/1999 được UNND xã C chứng nhận kết hôn. Trong thời gian chung sống, tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân gồm Sổ tiết kiệm gửi tại Quỹ tín dụng nhân dân thị xã D với số tiền 192.500.000 đồng và quyền sử dụng đất có diện tích đo đạc thực tế 78,8m2 cùng 01 căn nhà cấp 4 có diện tích 47,4m2 (ngoài ra còn có phần nhà tạm có diện tích 31,4 m2 ), thuộc 01 phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M245871, số vào sổ 277QSDĐ/CQ.TTDA, số thửa 36, 37, tờ bản đồ số 01 tại địa chỉ thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Dương (nay là khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương) do Ủy ban nhân dân huyện T (nay là thị xã D) cấp cho bà Đinh Thị Th ngày 10/4/1999, nay ông bà Ly hôn Ông N đề nghị chia tài sản chung vợ chồng phần nói trên, Tòa án sơ thẩm nhận định: [1] Về hôn nhân: Quyết định công nhận thuận tình ly hôn. [2] Về tài sản: Căn cứ án lệ 04/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và Mục 2 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/10/1999 giữa ông N và bà Th là hợp pháp. Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Th thể hiện hai loại đất cây lâu năm (LNK) và đất thổ cư, do đó có thể xác định các bên chuyển nhượng là loại đất cây lâu năm (LNK) theo xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn D (nay là phường D) mà không phải là loại đất sản xuất phụ ghi trong hợp đồng. Xét diện tích đất vợ chồng ông N, bà L đang quản lý sử dụng đo đạc thực tế là 78,8 m 2 có ranh giới rõ ràng, là một khối thống nhất, ông N, bà L đã xây dựng nhà ở ổn định. Việc chuyển nhượng giữa hai bên là có thực. Do đó, cần công nhận cho vợ chồng ông N, bà L được toàn quyền sử dụng diện tích đất 78,8 m2 để đảm bảo mục đích sử dụng cho bên nhận chuyển nhượng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn N với bị đơn bà Bùi Thị L về yêu cầu chia giá trị sổ tiết kiệm tại quỹ tín dụng nhân dân D với số tiền 192.500.000 đồng. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn N với bị đơn bà Bùi Thị L về yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn. Ghi nhận sự thỏa thuận của ông Trương Văn N và bà Bùi Thị L về việc chia tài sản sau khi ly hôn. Bà Bùi Thị L được quyền quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích đất 78,8m2 thuộc 01 phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M245871, số vào sổ 277QSDĐ/CQ.TTDA, số thửa 36, 37, tờ bản đồ số 01 do Ủy ban nhân dân huyện T (nay là thị xã D) cấp cho bà Đinh Thị Th ngày 10/4/1999 và toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ: Khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. (Có bản vẽ kèm theo) – Bà Bùi Thị L có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký đối với quyền sử dụng đất được sử dụng theo quy định của Luật Đất đai. Bà Bùi Thị L có trách nhiệm thanh toán cho ông Trƣơng Văn N số tiền 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng). Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án chậm thanh toán số tiền trên thì hàng tháng còn phải trả cho người được thi hành án tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án. |
1-8 |
|
Bản án số: 25/2017/DS-ST Ngày 15/12/2017 Tòa Án nhân dân Huyện II Grai Tỉnh Gia Lai.
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở Nội dung vụ án: Bà Trần Thị H1 và ông Nguyễn Xuân H có chuyển nhượng cho ông Phạm Văn Đ và bà Lê Thị A thửa đất có diện tích là 1.030,2m2 và 01 căn nhà xây cấp 4 diện tích khoảng 23,76m2 với giá là 63.000.000 đồng vào ngày 17/9/2008. Thửa đất nói trên là một phân của của thửa đất số 31a, tờ bản đồ 77, 77, diện tích 3.618m2 tại làng O, xã P, huyện G, tỉnh Gia Lai. Thửa đất đã được Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Trần Thị H1 số U 629194 ngày 14- 3-2003. Khi chuyển nhượng hai bên có thỏa thuận Ông Đ và bà A trả trước 18.000.000 đồng số tiền còn lại đến tháng 12 năm 2008 bà H1 và ông H1 đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tách thửa, sang tên thì ông Đ và bà A sẽ thanh toán hết. Năm 2010 ông, Ông D và bà A đã xây dựng các công trình phụ, thêm được khoảng 70 cây cà phê trên đất nhận chuyển nhượng. Đến ngày 25-12-2012, bà H1 và ông H giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đ và bà A để làm thủ tục tách thửa, sang tên nên ông Đ và bà A đã trả đủ số tiền còn lại là 45.000.000 đồng như đã thỏa thuận. Để giảm tiền thuế chuyển nhượng đất, hai bên đã ghi lại “Giấy sang nhượng đất ở” với giá chuyển nhượng là 10.000.000 đồng và đã được Uủy ban nhân dân xã P, huyện G xác nhận. Ông Đ và bà A nhiều lần yêu cầu bà H1 và ông H đế UBND xã P để làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì nhiều lần khất lần. Đến ngày 25/12/2015 Ông Đ và bà A đã nhận được thông báo thi hành án. Cùng ngày, UBND xã P tiến hành hòa giải không thành. Tòa án sơ thẩm nhận định: Xác định Ông H biết việc bà H1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở ngày 17/9/2008 cho Ông Đ và bà A. Ông H đã biết, đồng ý và cùng thực hiện, cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất. Ông Đ và bà A đã làm thêm các công trình xây dựng kiên cố trên đất là làm nhà bếp và các công trình phụ, đồng thời đã tiến hành trồng cây lâu năm trên toàn bộ thửa đất nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ và bà A, buộc bà H1 và ông H phải thực hiện “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở” ngày 17-9-2008 và thực hiện thủ tục sang tên quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa đất có diện tích là 1.030,2m2 và chuyển quyền sở hữu đối với 01 căn nhà xây cấp 4 diện tích 23,76m2 cho ông Đ và bà A. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông Phạm Văn Đ,bà Lê Thị A. Buôc bà Trần Thị H và Ông Nguyễn Xuân H phải thực hiện hợp đồng “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở” ngày 17/9/2008. Buộc bà Trần Thị H1 và ông Nguyễn Xuân H có nghĩa vụ thực hiện thủ tục sang tên quyền sử dụng đất đối với toàn bộ thửa đất có diện tích là 1.030,2m2 và chuyển quyền sở hữu đối với 01 căn nhà xây cấp 4 diện tích 23,76m2 cho ông Đ và bà A. Bà Trần Thị H1 và ông Nguyễn Xuân H không thực hiện hợp đồng thì ông Phạm Văn Đ và bà Lê Thị A có quyền liên hệ cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền để thực hiên thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở sang tên của mình theo trình tự, thủ tục của pháp luật đất đai đối với diện tích đất và nhà ở nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị H1 và ông Nguyễn Xuân H. |
9-18 |
|
Bản án số: 03/2018/HNGĐ-PT Ngày 26/01/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước
V/v: Tranh chấp chia tài sản chung Nội dung vụ án: Bà N và ông Bùi Đình L là vợ chồng hợp pháp. Nhưng hai bên không thể sống chung nên bà N yêu vầu Tòa án giải quyết việc ly hôn và con chung. Tòa án đã gải quyết ly hôn và con chung, nay bà N yêu cầu Tòa án huyện H giải quyết về tài sản chung giữa bà và ông L. Tài sản chung gồm: Thửa đất số 146, tờ bản đồ số 04 có diện tích 10.132,6m2 trong đó có 200m2 đất thổ cư, trên đất có khoảng hơn 400 cây cao su trồng năm 2004; Thửa 140, tờ bản đồ số 4, có diện tích 466,7m2 đất trống cùng tọa lạc tại ấp S, đất có giấy chứng quyền sử dụng đất đứng tên hộ ông Bùi Đình L và bà Nguyễn Thị N; Thửa đất có diện tích 91m2 đất ở trên đất có 01 căn nhà cấp 4 xây năm 2004 và các công trình khác, tọa lạc tại khu phố P, đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Thửa đất diện tích 33.262,4m2 trên đất khoảng 01 ha trồng cao su, còn lại hơn 02 ha là trồng điều năm 2000, sổ giao khoán mang tên bà Nguyễn Thị Đ do bà và ông L nhận chuyển nhượng giấy tay, tọa lạc tại tổ 09, ấp 4, xã M; Thửa đất số 131, tờ bản đồ số 14 diện tích 4.519,6m2 trên đất có khoảng 230 cây cao su trồng năm 2009 và 01 ao đào năm 2000, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Bùi Đình L và bà Nguyễn Thị N; Thửa đất số 26, tờ bản đồ số 29 có diện tích 940,1m2 trong đó có 200m2 thổ cư, theo số sổ AD991049 đất trồng, tọa lạc tại khu B, đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Bùi Đình L và bà Nguyễn Thị N. Ngoài ra, bà N yêu cầu ông L phải trả giá trị của tiền bán củi điều, xe mô tô, xe máy cày, giá trị tủ thờ là 25.000.000 đồng. Tòa án Sơ thẩm tuyên: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N về cầu chia tài sản chung. Tổng giá trị bà N được nhận 40% về quyền sử dụng đất, tài sản trên đất là 1.058.454.600 đồng; ông L được nhận 60% giá trị đất và tài sản trên đất là 1.587.681.900 đồng. Sau khi cấn trừ tài sản được chia thì ông Bùi Đình L phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị N tổng số tiền là 101.754.100 đồng. Tòa án Phúc thẩm nhận định : Bà N yêu cầu ông L hoàn trả cho bà N giá trị hoa lợi từ cây điều do trong quá trình chờ kết quả giải quyết không có cơ sở chấp nhận do bà N không cung cấp được chứng cứ cho yêu cầu mình. Trong quá trình ly thân ông L đã sang nhượng diện tích đất này cho bà L, bà L đã thu hoạch cho đến năm 201, sau khi Tòa án tỉnh Bình Phước đã hủy bản án và trả hồ sơ về để giải quyết thì Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và đã tạm giao 02 thửa đất cho bà N quản lý sử dụng. Lời trình bày của ông L là có căn cứ phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Lời trình bày của ông L là có căn cứ phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày bà L là người sang nhượng đất của ông L nên kháng cáo của bà N về phần này không được chấp nhận. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Bùi Đình L và Bùi Đình T đã ký ngày 20/10/2013. đối với số tiền chuyển nhượng giữa ông L và ông T là 110.000.000 đồng, việc sang nhượng này là trong thời kỳ hôn nhân do đó tài sản diện tích trên là tài sản chung. Do đó ông L nhận số tiền trên phải có trách nhiệm hoàn trả cho bà N một nửa số tiền giá trị 55.000.000 đồng là phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm nêu các tài sản bà N yêu cầu là tai sản chung của vợ chồng nhưng có nguồn gôc là từ tài sản riêng của L nhập vào khối tài sản chung để chia tài sản cho ông L và bà N theo quy định của pháp luật hôn nhân năm 2000: Ông L được chia 60% và bà N được chia 40% tổng giá trị tài sản là phù hợp. Tòa án Phúc thẩm tuyên: [1]. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N. [2]. Sửa bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm; [3]. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N về yêu cầu chia tài sản chung; Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị N buộc ông L hoàn trả giá trị tiền thu hoa lợi của 04 mùa điều trên diện tích 33262,4m2 tọa lạc tại ấp 4, xã M, huyện H, tỉnh Bình Phước. |
19-35 |
|
Bản án số: 40/2017/DS-ST Ngày 19/9/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
V/v:Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Nội dung vụ án: Bà Chu Thị Nh tự ý chuyển nhượng một phần diện tích 72,5m2 đất trong tổng diện tích đất 312m2 cho ông Chu Văn A người cùng thôn vào năm 2001. Khi bà Nh làm thủ tục chuyển nhượng một phần diện tích đất trên cho ông Chu Văn A, anh S và gia đình không biết, bản thân bà Nh là người chuyển nhượng đất cho ông Chu Văn A cũng không nhớ cụ thể vì đã lâu nên không còn lưu giữ giấy tờ chuyển nhượng đất. Hợp đồng chuyển nhượng cho ông Chu Văn A khoảng 72m2 đất với giá 16.000.000 đồng. Anh Bùi Văn S yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất 72,5m2 nằm trong tổng diện tích đất 312m2 số thửa 81, tờ bản đồ số 06 ở Thôn M, xã T, huyện V giữa bà Chu Thị Nh với ông Chu Văn A là vô hiệu. Buộc ông Chu Văn A phải trả lại cho gia đình anh S quyền sử dụng đất 72,5m2 mà ông A đã nhận chuyển nhượng của bà Chu Thị Nh. Đối với công trình xây dựng trên đất thì anh S sẽ thanh toán bằng tiền theo kết quả định giá của Tòa án cho vợ chồng ông A, bà L1. Tòa án Sơ thẩm tuyên: [1]. Không chấp nhận yêu cầu của anh Bùi Văn S đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất 72,5m2 nằm trong tổng diện tích đất 312m2 số thửa 81, tờ bản đồ số 06 ở Thôn M, xã T, huyện V giữa bà Chu Thị Nh với ông Chu Văn A là vô hiệu; [2]. Công nhận giao dịch dân sự ngày 02/12/2001 giữa bà Chu Thị Nh, ông Bùi Văn I với ông Chu Văn A về việc chuyển nhượng quyền sử dụng 72,5m2 đất thổ cư tại thửa số 81, tờ bản đồ số 06 ở Thôn M, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Tòa án phúc thẩm nhận định: [1] Nguồn gốc thửa đất: Ngày 31/7/1995 ông Nguyễn Thắng Kh chuyển nhượng thửa đấy này cho Ông I và bà Nh, khi hai bên giao dịch chỉ có ông Kh và ông I, bà Nh ký giấy chuyển nhượng. Như vậy tài sản thuộc quyền sử dụng của ông I, bà Nh. Các con của Ông I và bà Nh cho rằng tài sản này do họ đóng góp là không có cơ sở. [2] Về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp. Sau khi nhận chuyển nhượng ông Ông A đã xây các công trình trên mảnh đất được chuyển nhượng. bà Nh nhận chuyển nhượng từ ông Kh, sau đó ông bà chuyển nhượng lại cho ông A, các con của ông I bà Nh không phải là đồng sử dụng thửa đất này nên việc ông bà chuyển nhượng cho ông A là đúng pháp luật cũng như không có cơ sở để cho rằng chỉ có mình bà Nh tham gia giao Tòa án Phúc thẩm tuyên: [1]. Không chấp nhận yêu cầu của anh Bùi Văn S đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất 72,5m2 nằm trong tổng diện tích đất 312m2 số thửa 81, tờ bản đồ số 06 ở Thôn M, xã T, huyện V giữa bà Chu Thị Nh với ông Chu Văn A là vô hiệu. [2]. Không chấp nhận yêu cầu của anh Bùi Văn S về việc buộc ông Chu Văn A phải trả lại diện tích đất đã nhận chuyển nhượng và thanh toán giá trị tài sản trên đất cho ông A bà L1. [3]. Công nhận giao dịch dân sự ngày 12/12/2001 giữa bà Chu Thị Nh, ông Bùi Văn I với ông Chu Văn A về việc chuyển nhượng quyền sử dụng 72,5m2 đất thổ cư tại thửa số 81, tờ bản đồ số 06 ở Thôn M, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc |
36-46 |
|
Bản án số: 98/2021/DS-PT Ngày 15/3/2021 Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
V/v Tranh chấp hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chia tài sản chung. Nội dung vụ án: Bà Phan Thị Ca L kết hôn với ông Nguyễn Văn Đ. Tài sản chung: một mảnh đất của ông Dương Văn Tâm có diện tích 700m2, tọa lạc tại số 675, khu phố LN, thị trấn S, huyện B, tỉnh Bình Thuận. Bà L và ông Đ còn xây dựng một cơ sở gia công nhôm sắt với diện tích 240m2 (8m x 30m), xây bằng tường gạch, mái lợp tôn, trị giá 300 triệu đồng đứng tên ông Nguyễn Văn Đ. Sống chung một thời gian thì ông bà thường xuyên xảy ra mẫu thuẫn, thường cãi nhau sau một thời gian hai ông bà ly thân và Bà L dẫn 3 đứa con về nhà mẹ ruột. Trong thời gian ly thân ông Đ bán toàn bộ tài sản nêu trên cho Ông Trần Văn P và bà Nguyễn Thị Nh mà bà L không biết. Tòa án Sơ thẩm tuyên: [1]. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của bà Phan Thị Ca L. [2]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Ca L về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Đ, bà Phan Thị Ca L và ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Nh lập ngày 01/8/1999 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 261996 do Uỷ ban nhân dân huyện B cấp ngày 20/10/2000 cho ông Trần Văn P Tòa án Phúc thẩm nhận định: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/8/1999 vẫn được công nhận nên bản án của tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ca L về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên là có cơ sở. Hợp đồng chuyển nhượng nêu trên có hiệu lực kể từ thời điểm được chứng thực. Do đó, nội dung kháng cáo của bà L là không có căn cứ chấp nhận. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Tòa án cấp Phúc Thẩm quyết định: [1]. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Phan Thị Ca L; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận. [2]. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung của bà Phan Thị Ca L. [3]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Ca L về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Đ, bà Phan Thị Ca L và ông Trần Văn P, bà Nguyễn Thị Nh lập ngày 01/8/1999 và hủy Giấy chứng nhận quyên sử dụng đất số R 261996 do Uỷ ban nhân dân huyện B cấp ngày 20/10/2000 cho ông Trần Văn P. |
47-54 |
|
Bản án số: 57/2018/DS-PT Ngày 01/02/2018 Tòa án nhân dân Tỉnh Long An
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất Nội dung vụ án: Bà Mai Thị H tranh chấp với ông Nguyễn Văn T về quyền sử dụng đất. Phần đất đất tranh chấp là phân thừa hưởng của ông Nguyễn Văn B. Ông B được cụ L để lại cho 4000m2 đất. Năm 2000, Bà H yêu cầu ông Nguyễn Văn T phân chia phần đất của T đứng tên tại phần thửa 22, TBĐ số 6 xã H cho bà H và Ông Kh mỗi người 4m chiều ngang cập lộ 825 chiều dài hết thửa đất 22. Bà H nhiều lần lần yêu cầu ông T giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bà H làm thủ tục sang tên, tuy nhiên Ông T đang thế chấp vay ngân hàng. Từ đó, bà H đã khởi kiện tranh chấp yêu cầu ông T phải thực hiện nghĩa vụ giao nộp quyền sử dụng đất như phân chia năm 2000. Qua một thời gian Tòa án các cấp giải quyết tranh chấp và bị cấp giám đốc thẩm hủy án đến nay chưa giải quyết xong. Ông Nguyễn Văn T vẫn không đồng ý theo phân chia đất năm 2000 nên bà H yêu có đơn khởi kiện bổ sung. Tòa án Sơ thẩm tuyên: [1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Mai Thị H và ông Dương Văn Kh về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với ông Nguyễn Văn T. [2]. Đình chỉ yêu cầu phản tố ngày 20/4/2012 theo đơn rút yêu cầu phản tố đề ngày 26/9/2017 của ông Nguyễn Văn T. [3]. Bà Mai Thị H được xác lập quyền sở hữu đối với quyền sử dụng đất diện tích 191m2 , gồm tại một phần thửa số 22 (diện tích 102m2 ), một phần thửa số 25 diện tích 89m2 , tờ bản đồ số 6, ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. [4]. Ông Dương Văn Kh được xác lập quyền sở hữu đối với quyền sử dụng đất diện tích 186,6m2 tại một phần thửa số 22 tờ bản đố số 6, ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An. Tòa án Phúc thẩm nhận định: [1] Tòa sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Mai Thị H và ông Dương Văn Kh tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Văn T tại một phần thửa số 22 tờ bản đồ số 6 và công nhận quyền sử dụng đất cho bà H với diện tích 102m2 và ông Kh 186,6m2 là có căn cứ pháp luật. [2] Riêng đối với diện tích đất 89m2 một phần thửa số 25 mà án sơ thẩm công nhận quyền sử dụng cho bà H, tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Văn C đại diện ủy quyền của bà H cho rằng không có tranh chấp, do đó xét thấy án sơ thẩm 12 giải quyết là vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như ý kiến của luật sư và kiểm sát viên là có căn cứ xem xét Tòa án Phúc thẩm tuyên: [1] Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn T. [2] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị H và ông Dương Văn Kh về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với ông Nguyễn Văn T [3] Công nhận cho bà Mai Thị H được xác lập quyền sử dụng đất diện tích 102m2 tại một phần thửa số 22, tờ bản đồ số 6, ấp T, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, do ông Nguyễn Văn T đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có vị trí theo Mãnh trích đo số 111 ngày 16/10/2017 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện Đ. [4] Công nhận cho ông Dương Văn Kh được xác lập quyền sử dụng dất dienj tích 186m2 [5] Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy Ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông Nguyễn Văn T số N 497454 ngày 19/11/1998 một phần thửa số 22 tờ bản đố số 6 đối với diện tích 102m2 và diện tích 186,6m2 theo các bản trích đo nêu trên |
55-68 |
|
Bản án số: 154/2020/DS-PT Ngày 12/6/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
V/v tranh chấp: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” Nội dung vụ án: Ông Nguyễn Văn T2 chuyển nhượng cho Bà Nguyễn Thị T1 cả hai lần với tổng diện tích 1000m2. Khi mua đất hai bên chỉ làm giấy tay, Bà T1 đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và Ông T2 đã giao quyền quản lý mảnh đất nhưng chưa thực hiện thủ tục sang tên. Ngày 21/10/2013, ông T2 được cấp giấy chứng nhận quyền sủ dụng đất thửa đất số 1787, Bà T1 yêu cầu ông T2 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng sang tên sử dụng đất diện tích 1000m2 cho bà mà hiện ông T2 đang đứng tên quyền sử dụng đất ở thửa 1787 nhưng ông T2 không đồng ý theo yêu cầu bà T1. Tòa án sơ thẩm tuyên: [1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T1. [2]. Buộc hộ ông Nguyễn Văn T2, bà Trương Thị X và chị Nguyễn Thị Ngọc Y thực hiện việc chuyển nhượng sang tên phần đất diện tích 1000 m2 cho bà Nguyễn Thị T1 mà hiện ông Nguyễn Văn T2 đại diện hộ đang đứng tên quyền sử dụng đất tại thửa số 1787, tờ bản đồ số HMPC3, diện tích chung thửa là 2.050 m2 tọa lạc tại ấp Mỹ Phú A, xã Hậu Mỹ Phú, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 1460-QSDĐ/409284 do Ủy ban nhân dân huyện Cái Bè cấp ngày 21/10/2003. [3]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của chị Nguyễn Thị Ngọc Y Tòa án Phúc thẩm nhận định: [1] Bà Nguyễn Thị T1 yêu cầu cầu ông Nguyễn Văn T2 thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất là có cơ sở [2] ] Án sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1. Buộc hộ ông Nguyễn Văn T2, bà Trương Thị X và chị Nguyễn Thị Ngọc Y thực hiện việc chuyển nhượng sang tên quyền sử dụng phần đất diện tích 1.000m2 cho bà Nguyễn Thị T1 trong phần đất diện tích 2.050 m2, tọa lạc ấp Mỹ Phú A, xã Hậu Mỹ Phú, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang do ông Nguyễn Văn T2 đại diện hộ đứng tên quyền sử dụng đất; Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của chị Nguyễn Thị Ngọc Y yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T2 và bà T là có cơ sở Tòa án Phúc thẩm tuyên: 1/ Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trương Thị X, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 260/2019/DS-ST ngày 06 tháng 12 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. 2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T1. 3/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của chị Nguyễn Thị Ngọc Y. |
69-75 |
|
Bản án số: 363/2020/DS-PT Ngày 22/9/2020 Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
V/v tranh chấp“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” Nội dung vụ án: Ông Võ Văn G chuyển nhượng cho anh Trần văn T phần đất có diện tích 658m2 hai bên có thực hiện sang nhượng có làm giấy viết tay. Anh T giao tiền cho ông G 02 lần với số tiền 60.000.000 đồng. Ông G đã làm biên bản nhận tiền và đã giao đất cho anh T nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng. Anh T liên hệ ông G để làm thủ tục sang nhượng tuy nhiên ông G bị bệnh sau đó chết không làm thủ tục được. Sau khi ông G chế anh T đén gặp những người thừa kế ông G tuy nhiên những người thừa kế không đồng ý chuyển nhượng và yêu cầu chuộc lại nhưng anh T không đồng ý. Tòa án Sơ thẩm tuyên: [1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn T [2] Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/12/2015 giữa anh Trần Văn T với ông Võ Văn G, sinh năm 1961 (chết ngày 11/9/2019). [3] Công nhận cho anh Trần Văn T phần diện tích đất theo đo đạc thực tế ngày 13/01/2020 của Công ty TNHH đo đạc Đ có ký hiệu trong sơ đồ đo đạc là T-01 diện tích 585,8m2 trong thửa đất số 2046, tờ bản đồ số 04, diện tích 1.169 m2 toạ lạc tại ấp 1, xã Tân Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho ông Võ Văn G ngày 23/3/2010 Tòa án Phúc thẩm nhận định: [1] Việc anh T yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/12/2015 giữa anh T với ông G là có cơ sở để chấp nhận [2] Mặc dù giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/12/2015 chỉ lập giấy tay, không được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, chỉ có ông G ký tên, bà Nguyễn Thị V – vợ ông G không có ký tên. Tuy có vi phạm quy định điều kiện về hình thức; nhưng về nội dung thì ông G đã nhận đủ tiền chuyển nhượng của anh T, ông G đã giao phần diện tích đất chuyển nhượng cho anh T quản lý canh tác trồng cây từ năm 2015. Tòa án Phúc thẩm tuyên: [1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn T. [2] Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/12/2015 giữa anh Trần Văn T với ông Võ Văn G, sinh năm 1961 (chết ngày 11/9/2019). [3] Công nhận cho anh Trần Văn T phần diện tích đất theo đo đạc thực tế ngày 13/01/2020 của Công ty TNHH đo đạc Đ có ký hiệu trong sơ đồ đo đạc là T-01 diện tích 585,8m2 trong thửa đất số 2046, tờ bản đồ số 04, diện tích 1.169 m2 toạ lạc tại ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện C cấp cho ông Võ Văn G ngày 23/3/2010. |
76-84 |
LINK TẢI PDF: Tổng hợp 15 bản án áp dụng án lệ số 04/2016/AL để giải quyết tranh chấp
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn