Feel free to go with the truth

Trang chủ / Kinh doanh & Thương mại / Tổng hợp 14 Bản án, Quyết định của Tòa án Việt Nam giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án nước ngoài

Tổng hợp 14 Bản án, Quyết định của Tòa án Việt Nam giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án nước ngoài

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 14 Bản án, Quyết định của Tòa án Việt Nam giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành Bản án, Quyết định của Tòa án nước ngoài” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp. 

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 14 bản án, quyết định của tòa án việt nam giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

Bản án số: 244/2018/QĐDS-PT ngày 29/8/2018 của toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài”

Nội dung: Bà Nguyễn Thị Thanh H ông Az Alexand steph tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng vào tháng 4/2013, không có đăng ký kết hôn. Tháng 5/2014 do bất đồng quan điểm nên hai bên không tiếp tục cuộc sống chung. Vào thời điểm này bà H đang mang thai. Ngày 14/8/2016, bà H sinh con có báo tin cho ông Az Alexand steph biết để cùng chăm sóc, nuôi dưỡng con. Ông Az Alexand ssteph là người trực tiếp đi đăng ký khai sinh cho con. Ông cũng cấp dưỡng nuôi con bằng cách trả tiền thuê nhà cho mẹ con cùng ở. Mỗi tuần khoảng 2-3 lần ông Az Alexand steph đến thăm con, mỗi lần thăm khoảng 01 giờ và đưa con về nhà riêng chơi khoảng 3 giờ, sau đó trả con lại. Ngày 29/11/2014, ông Az Alexand steph đến thăm và đưa con đi như những lần trước nhưng không trả con lại cho bà. Bà đã tìm mọi cách liên lạc và liên hệ với ông Az Alexand steph giao lại con nhưng không có kết quả và bà biết ông Az Alexand steph đã đưa con về Pháp. Do đó, bà đã nhờ Văn phòng Luật Sư Pháp tại Việt Nam giới thiệu Văn phòng luật sư cộng tác ở Paris khởi kiện ra Tòa án Pháp đòi quyền trực tiếp chăm sóc con. Ngày 23/6/2016, Tòa án Pháp đã xét xử bằng Phán quyết số 16/00411 giao cho bà quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Azais Sarah Thien K, sinh ngày 14/8/2014 và buộc ông Az Alexand steph thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Ngày 05/7/2016, ông Az Alexand steph có gửi cho bà Thư thông báo rằng ông và Sarah đã trở lại Việt Nam. Tuy nhiên, ông Az Alexand steph không thực hiện Phán quyết của Tòa án Pháp.

Vì vậy, bà nộp đơn yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết số 16/00411 ngày 23/6/2016 của Tòa án sơ thẩm thẩm quyền rộng ALBI-Pháp để bà được quyền trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc người con chung, ông Az Alexand steph thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con như nội dung Phán quyết đã nêu.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thanh H

2. Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết về hôn nhân và gia đình

số 16/00411 ngày 23/6/2016 của Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng ALBI- nước Cộng hòa Pháp.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Theo giấy khai sinh số 00407 AA14637 lập ngày 15/8/2014 tại Tổng lãnh sự Pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh thì trẻ Azais Sarah Thien K, sinh ngày 14/8/2014 là con của ông Az Alexand steph, sinh năm 1975; Quốc tịch: Pháp và bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1985; Quốc tịch: Việt Nam.

Theo Phán quyết về Hôn nhân và Gia đình số 16/00411 của Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng ALBI-Cộng hòa Pháp ban hành ngày 23/6/2016 có các nội dung:

– Ông Az Alexand steph phải ngay lập tức giao người con chung Azais Sarah Thien K cùng với hộ chiếu của con cho người mẹ là bà Nguyễn Thị Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng. Nơi thương trú của con là nơi đăng ký thường trú của bà H tại Việt Nam.

– Ông Az Alexand steph chịu trách nhiệm trợ cấp cho người con chung Sarah toàn bộ học phí tại 01 trường của Pháp hoặc trường quốc tế từ khi người con học mẫu giáo.

– Ông Az Alexand steph và bà H phải cùng nhau đưa ra các quyết định quan trọng liên quan đặc biệt đến sức khỏe, học tập, giáo dục, tôn giáo, xuất cảnh. Thông báo cho nhau, vì giao tiếp cần thiết giữa cha mẹ về việc tổ chức cuộc sống của con.

Cho phép con trao đổi với người kia trên nguyên tắc tôn trọng cuộc sống của mỗi ngưòi, thông tin trước và kịp thời cho người kia về bất kỳ thay đổi nơi thường trú nào sửa đổi các phương thức thực hiện quyền của cha mẹ.

– Ông Az Alexand steph sẽ thực hiện quyền thăm nom và tạm trú (trừ khi có thỏa thuận tốt hơn) tất cả các ngày thứ 7 của các tuần chẵn từ 9-18 giờ tại nơi đăng ký thường trú của bà H và 01 năm 01 lần tại Pháp, chi phí đi lại của con và mẹ do người cha đảm nhận.

Tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi…”.

Đối với các yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng áp dụng theo luật pháp Việt Nam. Tại các Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân gia đình 2014 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, Việt Nam quy định về mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thi yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phán quyết cùa Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng ALBI (Tòa án Pháp) tuyên xử về người trực tiếp nuôi con, về nghĩa vụ cấp dưỡng, về trách nhiệm, nghĩa vụ của cha mẹ đối vói con. Như vậy, các nội dung của Phán quyết về hôn nhân và gia đình số 16/00411 ngày 23/6/2016 của Tòa án Pháp phù hợp với quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Từ những nhận định trên, Hội đồng giải quyết việc dân sự không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Az Alexand steph.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Không chấp nhận kháng cáo của ông Az Alexand steph, giữ nguyên quyết định giải quyết việc dân sự sơ thẩm số 663/2017/QĐDS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

– Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thanh H: Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết về hôn nhân và gia đình số 16/00411 ngày 23/6/2016 của Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng ALBI- nước Cộng hòa Pháp.

1-6

Quyết định số: 174/2018/QĐST-DS ngày 01/12/2018 của toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Đình chỉ giải quyết việc dân sự”

Nội dung: ông Choi Byung C gửi đơn đến Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Bản án vụ kiện khoản vay mượn theo hồ sơ số 2014Gahap46162 do Phòng giải quyết án dân sự số 26 – Tòa án quận Trung tâm Seoul ra quyết định chính thức ngày 20/3/2015.

Nhận định của Toà án:

Người yêu cầu ông Choi Byung C chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định của pháp luật Việt Nam.

Lý do đình chỉ:

– Giữa Việt Nam với Hàn Quốc chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự hoặc cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.

Quyết định của Toà án:

1. Đình chỉ giải quyết việc dân sự sơ thẩm thụ lý số 665/2017/TLST-DS ngày 11/7/2017 về việc “Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài”, của Ông Choi Byung C.

2. Hoàn lại cho ông Choi Byung C số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm

7-8

Bản án số: 28/2020/QĐKDTM-PT ngày 29/6/2020 của toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Bản án của Tòa án nước ngoài”

Nội dung: Ngày 04/4/2014, bà Oh và Công ty TNHH S ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của bà Oh trong Công ty TNHH P cho Công ty S với giá 3.500.000 USD. Theo hợp đồng này, bà Oh chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tòa nhà văn phòng, nhà xưởng, máy móc thiết bị và các tài sản khác của Công ty TNHH P.

Sau khi ký hợp đồng, Công ty S tiếp quản nhà xưởng nhưng sau đó phát hiện các công trình không đảm bảo chất lượng, dẫn đến tranh chấp phát sinh. Công ty P đã khởi kiện Công ty S tại Hàn Quốc, và Tòa án Hàn Quốc đã ra hai bản án: một bản án sơ thẩm và một bản án phúc thẩm, yêu cầu Công ty S thanh toán cho chuyển nhượng phần vốn góp của bà Oh.

Tuy nhiên, Công ty S không đồng ý với các bản án này vì cho rằng Tòa án Hàn Quốc không có thẩm quyền giải quyết vụ việc này. Họ cho rằng tranh chấp về chuyển nhượng quyền sử dụng đất và mua lại nhà xưởng máy móc thiết bị thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Do đó, họ đã không thực hiện các bản án của Tòa án Hàn Quốc và yêu cầu Tòa án Việt Nam không công nhận và không thi hành các bản án này tại Việt Nam.

Sau đó, Tòa án nhân dân tỉnh Đ đã quyết định không công nhận bản án phúc thẩm của Tòa án Hàn Quốc. Ông Nguyễn Đức M, người đại diện theo ủy quyền của bà Oh, đã kháng cáo Quyết định này và đề xuất rằng các bản án của Tòa án Hàn Quốc là đúng và cần được thực hiện tại Việt Nam.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Không công nhận Bản án phúc thẩm số 2015NA2034435 ngày 05/02/2016 của Tòa án cấp cao Seoul Hàn Quốc.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Căn cứ Hợp đồng chuyển nhượng vốn giữa bà Oh và Công ty TNHH S ký kết ngày 04/4/2014, bà Oh chuyển nhượng 100% vốn góp của Công ty TNHH P cho Công ty TNHH S với giá 3.500.000USD. Trong đó tại điểm D mục 3 của hợp đồng xác định bà Oh phải cung cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để chứng minh bà Oh được quyền chuyển nhượng vốn điều lệ và các quyền liên quan đến sử dụng đất, tòa nhà, cơ sở vật chất cho Công ty TNHH S (BL: 137). Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên đã thể hiện chuyển nhượng toàn bộ Công ty TNHH P.

– Tài sản bà Oh chuyển nhượng cho Công ty TNHH S có nhà xưởng, máy móc,… gắn liền trên diện tích 10.000m 2 là bất động sản, tọa lạc tại thành phố T2, tỉnh L1 (Việt Nam), được UBND tỉnh L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BE758242 ngày 02/8/2011.

Tranh chấp giữa bà Oh và Công ty TNHH S là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng vốn tại Công ty TNHH P, có trụ sở tại cụm Công nghiệp Lợi 6 Bình Nhơn, thành phố T2, tỉnh L1 (Việt Nam) và Công ty TNHH S có trụ sở chính tại khu công nghiệp Long Thành, xã T, huyện L, tỉnh Đ (Việt Nam).

– Căn cứ theo quy định pháp luật Việt Nam, thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt đối với tranh chấp giữa bà Oh với Công ty TNHH S đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Do đó, người được thi hành là bà Oh yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Bản án phúc thẩm số 2015NA2034435 khiếu nại thanh toán cho việc chuyển nhượng phần vốn góp của Tòa án trung tâm quận Seoul ngày 05/02/2016 không phù hợp với quy định trên. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là có căn cứ.

– Hội đồng phúc thẩm xét thấy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp nên được chấp nhận; bác toàn bộ đơn kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bà Oh, giữ nguyên Quyết định sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Đức M người đại diện theo ủy quyền cho bà Oh; Giữ nguyên Quyết định sơ thẩm.

– Không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Bản án phúc thẩm số

2015NA2034435 ngày 05/02/2016 của Tòa án cấp cao Seoul Hàn Quốc.

9-15

Bản án số 25/2019/QĐPT-KDTM ngày 27/5/2019 của toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Bản án của Tòa án nước ngoài”

Nội dung: Tóm tắt về vụ việc giữa UMW (công ty của Singapore) và CDK (công ty của Việt Nam) như sau:

UMW đã khởi kiện CDK tại Tòa án Singapore vào tháng 4 năm 2011 về một số hợp đồng mua bán xe Toyota. Tòa án sơ thẩm của Singapore đã ra phán quyết vào ngày 24/11/2011, yêu cầu CDK phải trả cho UMW một tổng số tiền là 84.718,15 USD và 3.300 SGD.

CDK không thực hiện các nghĩa vụ thanh toán theo phán quyết của Tòa án Singapore, dù đã được gửi thông báo về phán quyết này.

UMW yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết của Tòa án Singapore tại Việt Nam và đòi lại số tiền mà CDK còn nợ theo phán quyết trên.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết cuối cùng trong vụ kiện số DC 1169/2011/F do Tòa án cấp dưới của nước Cộng Hòa Singapore ban hành ngày 24/11/2011, giữa bên được thi hành là U E & E PTE LTD và bên phải thi hành là Công ty TNHH Thương mại Kỹ thuật CDK.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Tòa án cấp sơ thẩm xác định rằng phán quyết cuối cùng của Tòa án Singapore trong vụ kiện DC 1169/2011/F được coi là bản án kinh doanh thương mại của một tòa án nước ngoài. Mặc dù Việt Nam và Singapore chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp về công nhận và thi hành bản án của nhau, việc xem xét đơn yêu cầu của UMW là đúng theo quy định pháp luật Việt Nam.

– Do CDK là đối tượng được pháp luật Việt Nam quy định được xem xét công nhận và thi hành phán quyết, nên UMW có quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

– Tòa án đưa ra các chứng cứ chứng minh rằng CDK đã nhận được phán quyết cuối cùng của Tòa án Singapore thông qua nhân viên của mình và thông qua bà Lê Thị Ngọc B, người được xác nhận là nhân viên hành chính của CDK.

– Tòa án không chấp nhận kháng cáo của CDK và giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Thương mại Kỹ thuật CDK; giữ nguyên Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 1495/2018/QĐST-KDTM ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

– Không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Bản án phúc thẩm số 2015NA2034435 ngày 05/02/2016 của Tòa án cấp cao Seoul Hàn Quốc.

16-25

Quyết định số 15/2023/QĐST-HNGĐ ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định về việc “yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án về Hôn nhân gia đình của Toà án nước ngoài.

Nội dung: Chị N có đăng ký kết hôn với anh D vào ngày 08/01/1992 tại UBND xã N, huyện N, tỉnh Hà Nam Ninh (nay là xã N, huyện T, tỉnh Nam Định).

Do cuộc sống hôn nhân đạt nên chị N và anh D đã quyết định ly hôn. Chị N và anh D được Tòa án Cộng hòa Séc xử cho ly hôn từ năm 2019.

Sau đó, chị N yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Nam Định công nhận và cho thi hành bản án nêu trên tại Việt Nam.

Toà cấp nhận định:

–  Bản án số 25C213/2019-36 ngày 07 tháng 11 năm 2019, có hiệu lực pháp luật lý ngày 07/12/2019 của Toà án huyện P, Cộng hoà Séc quyết định:

– Ly hôn hôn nhân của vợ Nguyễn Thị N và chồng Anh Doanh được đăng ký ngày 08 tháng 01 năm 1992 tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Hà Nam Ninh.

– Không ai trong các bên tham gia có quyền bồi thường chi phí xét xử.

– Nay chị Nguyễn Thị N yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án Hôn nhân gia đình của Toà án huyện P, Cộng hoà Séc, anh D nhất trí với yêu cầu của chị N

Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị N là có căn cứ, phù hợp với với quy định của pháp luật Việt Nam cũng như các điều kiện để được công nhận cho thi hành bản án của Toà án nước ngoài tại Việt Nam, quy định tại điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Vì vậy chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị N.

Toà án tuyên:

Công nhận và cho thi hành án tại Việt Nam bản án ly hôn số: 25C213/2019-36 ngày 07 tháng 11 năm 2019, có hiệu lực pháp lý ngày ngày 07 tháng 12 năm 2019 của Toà án huyện P, Cộng hoà Séc.

26-29

  1. 6.
Quyết định số 12/2023/QĐPTKDTM ngày 07/03/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc “Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án Đại Hàn Dân Quốc

Nội dung: Công ty trách nhiệm hữu hạn S2 có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 3700782816 do Sở KH&ĐT cấp lần đầu ngày 08/02/2007 thì chủ sở hữu được xác định là ông Silsarang INC với vốn điều lệ là 11.235.000.000 đồng. Thực chất đây là tiền của ông Kim Jung G, mục đích ông Silsarang và Kim Jung G làm vậy là để cho ông Kim Jung G có thể thực hiện quyền sở hữu trong công ty.

Tuy nhiên, giữa hai người lại xảy ra mâu thuẫn về vấn đề chủ sở hữu nên ông Kim Jung G đã khởi kiện ông Silsarang INC ra Toà án cấp cao Seoul – Toà án dân sự Phân khu 19 và sau nhiều lần bị ông Silsarang kháng cáo thì cuối cùng theo hai bản án số 2018na2025197 ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Toà án cấp cao Seoul – Toà án dân sự Phân khu 19 và Bản án số 2018da289085 ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Toà án Tối cao – Toà án dân sự Phân khu 3 thì ông Kim Jung G được xác nhận là chủ sở hữu hợp pháp của 100% vốn điều lệ tại công ty trách nhiệm hữu hạn S2.

Sau đó ông Kim Jung G đã có yêu cầu tới TAND tỉnh Bình Dương nhằm yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án số 2018na2025197 ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Toà án cấp cao Seoul – Toà án dân sự Phân khu 19 và Bản án số 2018da289085 ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Toà án Tối cao – Toà án dân sự Phân khu 3.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận đơn yêu cầu của ông Kim Jung G. Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các bản án sau:

– Bản án số 2018na2025197 ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Tòa án cấp cao Seoul- Tòa án dân sự Phân khu 19 của Đại Hàn Dân Quốc,

– Bản án số 2018da289085 ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Tòa án Tối cao Phân khu 3 của Đại Hàn Dân Quốc.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Công ty TNHH S2 là được thành lập theo pháp luật của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có tư cách pháp nhân; được Ủy ban nhân dân tỉnh B, Việt Nam cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sán khác gắn liền với đất diện tích 5.193 m mục đích sử dụng: Đất khu công nghiệp, nguồn gốc sử dụng: Thuê đất của Doanh nghiệp đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, thời điểm sử dụng đến ngày 29/9/2053.

– Tại Bản án số 2018na2025197, ngày 19/10/2018 của Tòa án cấp cao Seoul- Tòa án dân sự số 19. Tại phần LẬP LUÂN có nhận định 2 thông tin cơ bản. Thông tin dưới đây không có mâu thuẫn hoặc được công nhận dựa trên Bằng chứng A1 đến 26, Bằng chứng Bl đến 4 và 9 tại phần [4] cho rằng Silsarang A đã mua quyền sử dụng đất tại huyện B, tỉnh Bình Dương, Việt Nam vào tháng 12 năm 2007 bắt đầu xây dựng nhà máy và hoàn thiện vào tháng 8 năm 2009 và Quyết định 100% vốn góp chủ sở hữu công ty có trong danh sách tại phụ lục 1 (tức công ty TNHH S2) thuộc về nguyên đơn (tức người được thi hành ông Kim Jung G).

Như vậy l00% vốn sở hữu nay bao gồm vốn góp, các tài sản hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty TNHH S2. Quyền sử dụng đất các tài sản gắn liền với đất.

Cũng theo Bản án trên thì ông Kim Jung G và Công ty TNHH S2 thoả thuận sau khi thành lập Nhà máy tại B, Bình Dương, Việt Nam thì chủ sở hữu có thể chuyển nhượng cho nguyên đơn và cho rằng đó là chứng cứ để Tòa án lập luận làm rõ quyền sở hữu.

– Theo quy định tại điểm a khoản l Điều 470 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam:

Vụ án dân sự đó có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam.

Như phân tích ở phân trên, bản án của Toà án Hàn Quốc công nhận 100% vốn sở hữu cho ông Kim Jung G có liên quan đến quyền sử dụng đất và nhà xưởng, tài sản khác gắn liền với đất tại tỉnh Bình Dương, Việt Nam nên nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định tại mục 2.4 cho rằng tranh chấp ai là chủ sở hữu vốn góp của Công ty TNHH S2 không phải tranh chấp về bất động sản nên không thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam là không chính xác. Bởi vì, vốn góp của ông Kim Jung G có liên quan đến quyền sử dụng đất đã thuê của Nhà nước Việt Nam của công ty TNHH S2 nên phải thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Toà án nhân dân Việt Nam và theo quy định tại Điều 439 của BLTTDS năm 2015 thì bản án số 2018na2025197 và Bản án số 2018da289085 của Toà án Đại Hàn Dân Quốc sẽ không được công nhận và cho thì hành tại Việt Nam. Vì vậy, kháng cáo của công ty S2 được chấp thuận.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH S2

Sửa Quyết định giải quyết việc kinh doanh thương mại số 03/2022/QĐST-KDTM ngày 30 tháng 09 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương.

1. Không chấp nhận đơn yêu cầu của ông Kim Jung G  về việc yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các bản án sau của Toà án Đại Hàn Dân Quốc:

– Bản án số 2018na2025197 ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Tòa án cấp cao Seoul- Tòa án dân sự Phân khu 19 của Đại Hàn Dân Quốc,

– Bản án số 2018da289085 ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Tòa án Tối cao Phân khu 3 của Đại Hàn Dân Quốc.

2. Các phần khác của Quyết định sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành.

30-39

LINK PDF: Tổng hợp 14 Bản án, Quyết định của tòa án việt nam giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài 

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan