Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BẢO ĐẢM VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BẢO ĐẢM VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BẢO ĐẢM VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BẢO ĐẢM VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

STT

TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN

TRANG

1

Bản án số: 600/2021/HCPT ngày 17/11/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính lập Biên bản làm việc buộc tháo dỡ công trình xây dựng”

Nội dung vụ án:

Ông Lê Lý Th sinh năm 1968, địa chỉ: phường Phú Th, quận Tân Ph, thành phố Hồ Chí Minh khởi kiện Chủ tịch và UBND phường Tây Th, quận Tân Ph, thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa án giải quyết:

Tuyên bố hành vi cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trên đất đối diện nhà 316/30 ngày 02/7/2020 của Chủ tịch UBND phường Tây Thạnh mà không ban hành Quyết định cưỡng chế là trái pháp luật;

Tuyên bố hành vi lập biên bản làm việc ngày 02/7/2020 của UBND phường Tây Thạnh, quận Tân Phú buộc ông tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép trên khu đất trống đối diện ngôi nhà 316/30 để trả lại đất co những người không phải là chủ đất là trái pháp luật.

Yêu cầu các ông Tuấn, Tài phải có trách nhiệm giao trả phần đất trống và phục hồi nguyên trạng phần công trình, vật kiến trúc bị tháo dỡ.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Thuận về việc: Tuyên bố hành vi cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trên đất đối diện nhà 316/30 ngày 02/7/2020 của Chủ tịch UBND phường Tây Thạnh mà không ban hành Quyết định cưỡng chế là trái pháp luật.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Thuận về việc: Đề nghị tuyên bố hành vi lập biên bản làm việc ngày 02/7/2020 của UBND phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh buộc ông tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép trên khu đất trống đối diện ngôi nhà 316/30 để trả lại đất cho những người không phải chủ đất là trái pháp luật.

Ngày 12/3/2021, người khởi kiện kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Đối với yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi lập biên bản làm việc ngày 02/7/2020 của UBND phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố HCM buộc ông tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép trên khu đất trống đối diện ngôi nhà 319/30 để trả lại đất cho những người không phải chủ đất là trái phát luật, HĐXX phúc thẩm nhận thấy…Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện này của ông Thuận là có cơ sở pháp lý nên HĐXX không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Thuận.

Đối với yêu cầu khởi kiện bổ sung của người khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm yêu cầu các ông Tuấn, Tài phải có trách nhiệm giao trả phần đất trống và phục hồi nguyên trạng phần công trình, vật kiến trúc đã bị tháo dỡ là yêu cầu khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của HĐXX sơ thẩm trong vụ án hành chính này nhưng không được Tòa án cấp sơ thẩm nhận định trong bản án lý do vì sao không xem xét, giải quyết là có thiếu sót cần rút kinh nghiệm…

Đối với yêu cầu xem xét tại chỗ để làm rõ số nhà 316/28 hay 316/30 của người kháng cáo: HĐXX xét thấy quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này không liên quan đến tranh chấp về quyền sử dụng đất nên không cần thiết làm rõ số nhà theo yêu cầu của người kháng cáo.

Ý kiến không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện VKSND thành phố HCM tại phiên tòa phù hợp với nhận định trên nên HĐXX chấp nhận.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Tuyên xử, Bác yêu cầu kháng cáo của ông Lê Lý Th, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 01/2021/HC-ST ngày 11/3/2021 của TAND quận Tân Ph, thành phố HCM, cụ thể như sau:

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Lý Thuận về việc tuyên bố hành vi cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng trên đất đối diện nhà 316/30 đường Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố HCM ngày 02/7/2020 của Chủ tịch UBND phường Tây Thạnh, quận Tân Phú mà không ban hành quyết định cưỡng chế là trái pháp luật.

2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê Lý Thuận về việc tuyên bố hành vi lập Biên bản là việc ngày 02/7/2020 của UBND phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố HCM buộc ông tháo dỡ các công trình xây dựng trái phép trên khu đất trống đối diện ngôi nhà 316/30 đường Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố HCM để trả lại đất cho những người không phải là chủ đất là trái pháp luật.

1 – 10

2

Bản án số: 340/2022/HCPT ngày 13/05/2022 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

Về việc “Khiếu kiện quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả”

Nội dung vụ án:

Ông Nguyễn Huy T sinh năm 1956, địa chỉ: phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu khởi kiện Chủ tịch và UBND thành phố V tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đề nghị Tòa án giải quyết:

Tuyên hủy Quyết định số 5555/QĐ-KPHQ ngày 03/11/2020; hủy Quyết định số 1420/QĐ-CCXP ngày 05/3/2021 của Chủ tịch UBND thành phố V bởi ông T cho rằng hai quyết định trên của Chủ tịch UBND thành phố V là không đúng quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Tại bản án hành chính sơ thẩm 15/2021/HC-ST ngày 13/4/2021 của TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Huy T yêu cầu hủy Quyết định số 5555/QĐ-KPHQ ngày 03/11/2020 của Chủ tịch UBND thành phố V; hủy Quyết định số 1420/QĐ-CCXP ngày 05/3/2021 của Chủ tịch UBND thành phố V.

Ngày 24/4/2021, người khởi kiện ông Nguyễn Huy T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét kháng cáo của người khởi kiện: Ngày 14/10/2020 cán bộ địa chính Phường 12 lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Huy T về hành vi chiếm đất kênh rạch thuộc nhóm đất phi nông nghiệp do Nhà nước quản lý, thời điểm chiếm năm 2008 đến 2010, diện tích 4.158,8m2. Cùng ngày 14/10/2020 cán bộ địa chính – xây dựng Phường 12 lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Huy T về hành vi xây dựng công trình không có giấy phép xây dựng. Do hết thời hiệu xử phạt, ngày 03/11/2020 Chủ tịch UBND thành phố V ban hành Quyết định số 5555/QĐ-KPHQ áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc ông T tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, khôi phục lại tình trạng ban đầu và trả lại đất đã chiếm là đúng pháp luật về trình tự, thủ tục quy định tại Điều 6, Điều 58, Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Xét các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án:

Hồ sơ địa chính năm 1993 và năm 2002 tại Phường 12, thành phố V thể hiện: Diện tích đất ông T đang sử dụng thuộc tờ bản đồ 40 (mới 80) thuộc thửa 37 + 39 (bản đồ năm 1993 không có số thửa), là Kênh mương nước do nhà nước quản lý.

Theo sơ đồ vị trí do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố lập ngày 17/7/2020 (Ông Nguyễn Huy T là người chỉ ranh) …có phần diện tích 3.175,3 m2 đã được cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân khác là các thửa 70, 66, 40, 68, 42, 48 và 23). Phần diện tích đất còn lại là 4.158,8m2 thuộc thửa số 06 tờ bản đồ số 84 (mới) và thửa số 37 tờ bản đồ số 80 (mới), thuộc đất Nhà nước quản lý.

Tại phiếu lấy ý kiến khu dân cư ngày 16/7/2020 của Tổ dân phố 11, Khu phố 1, Phường 12 đã xác định: Ông Nguyễn Huy T về sinh sống tại Tổ từ tháng 10/1998 đến năm 2006 đến 2008 ông T đi đâu thì không ai biết, khoảng năm 2008 đến năm 2010 ông T có về xây dựng nhà tạm ở tại vị trí hiện nay, trước đây là kênh thoát nước của Nhà nước. Thời gian xây dựng nhà trên đất từ năm 2008 đến năm 2010.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trên có cơ sở xác định phần đất ông T đang sử dụng là kênh thoát nước do Nhà nước quản lý. Do ông T đã có hành vi xây dựng nhà không có giấy phép trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2010, nên UBND Phường 12 lập biên bản vi phạm hành chính, Chủ tịch UBND tháo dỡ công trình, trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính; điểm c khoản 4, khoản 5 Điều 14; khoản 7 Điều 14 Nghị định 91/2014/NĐ-CP; khoản 1, điểm a khoản 5, khoản 11 Điều 15 Nghị định 139/2017/NĐ-CP của Chính phủ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T về việc đề nghị hủy Quyết định 5555/QĐ-KPHQ ngày 03/11/2020 là có căn cứ.

Do ông Nguyễn Huy T không tự nguyện chấp hành quyết định khắc phục hậu quả, ngày 05/3/2021 Chủ tịch UBND thành phố V ban hành Quyết định số 1420/QĐ-CCXP cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là phù hợp pháp luật quy định tại Điều 86, 87 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Từ những nhận định trên, HĐXX phúc thẩm xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đẫ xét xử là có căn cứ. Ông T kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Huy T về việc yêu cầu:

– Hủy Quyết định số 5555/QĐ-KPHQ ngày 03/11/2020 của Chủ tịch UBND thành phố V.

– Hủy Quyết định số 1420/QĐ-CCXP ngày 05/3/2021 của Chủ tịch UBND thành phố V.

2. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

11 – 20

3

Bản án số: 01/2022/HCPT ngày 06/05/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Về việc “Khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực xây dựng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”

Nội dung vụ án:

Ông Nguyễn Kim L sinh năm 1973, địa chỉ: xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khởi kiện hành chính Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đề nghị Tòa án xem xét giải quyết: Hủy Thông báo số 03/TB-UBND ngày 16/01/2017 của Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn về việc ra thông báo tạm ngưng xây dựng chờ giải quyết xong tranh chấp đất đai giữa ông L và hộ bà Phan Thị Phước. Yêu cầu bồi thường số tiền là: 525.878.567 đồng (gồm thiệt hại hư hỏng tài sản, tiền canh giữ vật liệu, thiệt hại do hợp tác xã làm ăn với chị gái ông L). Vì ông L cho rằng thông báo nêu trên của UBND xã Xuân Sơn là không đúng quy định của pháp luật ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Tại Bản án hành sơ thẩm số 01/2019/HC-ST ngày 30/01/2019 của TAND huyện Châu Đức đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kim L. Hủy thông báo số 03/TB-UBND ngày 16/01/2017 của Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn về việc tạm ngưng xây dựng đối với ông Nguyễn Kim L.

2. Buộc Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn phải bồi thường toàn bộ thiệt hại tài sản cho ông Nguyễn Kim L 156.886.563 đồng bao gồm: 33 bao xi măng: 2.508.000 đồng; sắt thép: 104.178.563 đồng; Tiền thuê chỗ để vật tư và thuê người canh giữ vật tư là 10.000.000 đồng;

3. Đình chỉ một phần yêu cầu của ông Nguyễn Kim L về bồi thường thiệt hại đối với các khoản sau: Thiệt hại về thầu xây dựng; thiệt hại về tiền lãi ngân hàng của số tiền 600.000.000 đồng; mô hình kinh doanh có sự hợp tác đầu tư;

4. Chi phí định giá 6.500.000 đồng. Buộc Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn phải chịu có trách nhiệm trả lại cho ông Nguyễn Kim L.

Ngày 13/02/2019 người khởi kiện bà Trần Thị L kháng cáo yêu cầu bác toàn bộ đơn khởi kiện của ông L.

Tại quyết định giám đốc thẩm số 01/2021/HC-GĐT ngày 01/02/2021 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên hủy bản án hành chính phúc thẩm số 04/2019/HC-PT ngày31/5/2019.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét nội dung đơn kháng cáo của người khởi kiện:

Ông Nguyễn Kim L, bà Bùi Thị H được UBND huyện Châu Đức cấp giấy phép xây dựng số 184/GPXD ngày 14/11/2016 về việc được phép xây dựng công trình nhà ở cấp III – A1 tại vị trí thửa đất 113, tờ bản đồ số 26, diện tích 266m2 tại xã Xuân Sơn, huyện Châu Đức. Việc tiến hành xây dựng nhà của ông L theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 276155 do UBND huyên Châu Đức cấp ngày 14/12/2013 là đúng pháp luật về đất đai và pháp luật về xây dựng.

Tuy nhiên, quá trình ông L đập tường rào phía sau nhà giáp đất hộ bà P (là mẹ bà Việt Hà) và xây dựng trên phần ranh giới này thì xảy ra tranh chấp và dẫn đến xô xát với gia đình bà P. Ngày 16/01/2017, Công an xã Xuân Sơn lập Biên bản ghi nhận vụ việc về việc xảy ra vụ đánh nhau tại khu đất đang xây dựng nhà của ông Nguyễn Kim L; Biên bản tạm giữ đồ vật; tài liệu ngày 16/01/2017 về việc tạm giữ các khúc cây dài 65cm và 90cm; gạch.

Căn cứ khoản 2 (Quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản công dân) và khoản 6 (Quyền thực hiện biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội) Điều 36 Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 thì Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn ban hành thông báo số 03/TB-UBND ngày 16/01/2017 yêu cầu ông Nguyễn Kim L tạm ngừng xây dựng là phù hợp với sự việc và hoàn cảnh tranh chấp giữa các hộ dân thời điểm đó. Đây không phải là chế tài làm vô hiệu giấy phép xây dựng mà chỉ là biện pháp làm giảm căng thẳng, mâu thuẫn giữa các hộ dân và giữ trạng thái xây dựng ban đầu chờ kết quả giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Mặt khác, tại Báo cáo số 56 ngày 17/3/2017 của Phòng kinh tế hạ tầng huyện Châu Đức về việc ông L xây dựng vượt giấy phép xây dựng 9,7m2); Biên bản họp ngày 16/3/2017 của phòng kinh tế hạ tầng huyện Châu Đức về việc giải quyết đơn tố cáo của ông L với chủ tịch UBND xã Xuân Sơn cũng khẳng định việc tạm ngưng xây dựng đối với hộ gia đình ông L là cần thiết và phù hợp. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L và cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện và bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của ông L.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là ông Nguyễn Kim L đối với yêu cầu hủy Thông báo số 03/TB-UBND ngày 16/01/2017 của Chủ tịch UBND xã Xuân Sơn và yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản là 156.886.563 đồng.

2. Chi phí định gia là 2.000.000 đồng ông L phải chịu. Do bản án phúc thẩm số 04/2019/HC-PT ngày 31/5/2019 của TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã được thi hành nên Buộc ông L phải trả số tiền thi hành án đã nhận là 152.179.966 đồng tiền bồi thường thiệt hại và 2.000.000 đồng tiền chi phí định giá cho UBND xã Xuân Sơn.

21 – 31

4

Bản án số: 01/2022/HCPT ngày 26/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh

Về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc tạm giữ phượng tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính”

Nội dung vụ án:

Anh Phạm Văn B sinh năm 1993, địa chỉ: xã Mỹ, huyện C, tỉnh T khởi kiện hành chính Trưởng Công an huyện C, tỉnh T đề nghị Tòa án xem xét giải quyết: Hủy quyết định số 157/QĐ-XPHC ngày 04/3/2021 về việc xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định số 164/QĐ-TGTVPTGPCC ngày 13/02/2021 về việc tạm giữ phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính; Quyết định số 01/QĐ-KDTHTGTVPTGPCC ngày 13/02/2021 về việc kéo dài thời hạn tạm giữ tang vật phương tiện, giấy phép chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính. Vì cho rằng các quyết định nêu trên của Trưởng Công an huyện C, tỉnh T là không đúng quy định của pháp luật ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh B.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Tại Bản án hành sơ thẩm số 01/2019/HC-ST ngày 01/10/2021 của TAND huyện C đã quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn B. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/10/2021, anh Phạm Văn B có đơn kháng cáo toàn bộ bản án nêu trên.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét đơn kháng cáo của anh Phạm Văn B cho rằng không vi phạm hành chính về việc điều khiển xe môtô tham gia giao thông khi trong hơi thở có nồng độ cồn vượt quá quy định là không có căn cứ để chấp nhận.

Theo đoạn video clip trích xuất từ camera hành trình ngày 13/02/2021 của Tổ tuần tra, kiểm soát thuộc Đội Cảnh sát giao thông, trật tự Công an huyện C và các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: Vào lúc 13 giờ 24 phút 42 giây cùng ngày anh B mặc áo thun tay ngắn màu trắng sọc, quần dài màu đen, đội mũ bảo hiểm xanh sọc trắng và đeo khẩu trang màu xanh điều khiển xe mô tô 02 bánh (màu xanh trắng, nhãn hiệu Exciter, biển số 84E1 – 510.60) đi hướng ngược lại với Tổ tuần tra. Khi anh B Tổ tuần tra ra hiệu lệnh (thổi còi) dừng xe, nhưng anh B không chấp hành mà tiếp tục chạy rẽ phải vào nhà một hộ dân gần đó là nhà ông Lâm Văn H (sáu G), sau khi làm việc Tổ tuần tra xác định anh B có uống bia điều khiển xe mô tô Exciter lưu thông trên đường.

Anh B cho rằng đang dự tiệc tất niên tại nhà ông H không có điều khiển xe tham gia giao thông trên đường, nhưng qua lời khai của những người trong gia đình ông H khẳng định gia đình không có quen biết anh B, thời điểm anh B chạy xe vào nhà ông H thì nhà ông H không có tổ chức tiệc, chỉ thấy anh B chạy xe vào nhà ông H và theo sau anh B là hai cảnh sát giao thông của Tổ tuần tra mời anh B dẫn xe ra ngoài làm việc. Tại phiên tòa phúc thẩm anh B vẫn khẳng định có dự tiệc tại nhà ông H, khi HĐXX hỏi trong bàn tiệc gồm có những ai, tên gì, thức ăn trên bàn bao nhiêu món, uống loại bia gì, đặc điểm của bàn ghế vật dụng, quang cảnh tại nơi anh B cho là ngồi dự tiệc như thế nào anh B không trả lời được, điều này chứng tỏ anh B nại ra để ngụy biện cho hành vi vi phạm của mình.

Theo lời trình bày ông Nguyễn Thành D thì ngày 13/02/2021 nhà cha vợ ông D là ông Tư Bạc có tổ chức ăn tết có uống bia, ông D có tham gia đến khoảng 12 giờ thì anh B lấy xe chạy đi nhưng không rõ đi đâu. Điều này chứng tỏ từ buổi sáng ngày 13/02/2021 đến 12 giờ cùng ngày anh B không có mặt tại nhà ông H… tại biên bản vi phạm hành chính số 0000185/BB-VPHC ngày 13/02/2021 của Công an huyện C đo nồng độ cồn đối với anh B thể hiện nồng độ cồn trong hơi thở là 0.432 mg/lít khí thở là vượt mức quy định (vượt quá 0,4 miligam/ 1 lít khí thở), vi phạm điểm e khoản 8 Điều 6 Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Từ đó, Công an huyện C đã ban hành các Quyết định số 164/QĐ-TGTVPTTGPCC ngày 13/02/2021 tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính để ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính, và Quyết định số 157/QĐ-XPHC ngày 04/3/2021 xử phạt hành chính đối với anh B do hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 0,4 miligam/1lít khí thở với số tiền 7.000.000 đồng và tước quyền sử dụng giấy phưps lái xe của anh B thời hạn 23 tháng là phù hợp, đúng pháp luật, nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ.

Do anh B không thừa nhận hành vi vi phạm của mình, nhiều lần làm đơn khiếu nại tố cáo làm cho vụ việc kéo dài, gây khó khăn cho cơ quan chức năng làm nhiệm vụ, để xác minh làm rõ vụ việc kéo dài, gây khó khăn cho cơ quan chức năng làm nhiệm vụ, để xác minh làm rõ vụ việc ngày 20/02/2021 Công an huyện C ban hành Quyết định số 01/QĐ-KDTHTGTVPTGPCC kéo dài thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính thêm 23 ngày từ ngày 20/02/2021 đến ngày 15/3/2021 là đúng quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên, xét thấy quy trình xử lý hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ của Tổ tuần tra, kiểm soát thuộc Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện C và việc ban hành các quyết định của Trưởng Công an huyện C như đã nêu trên đối với anh Phạm Văn B là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh B là đúng, kháng cáo của anh B là không có cơ sở chấp nhận.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Phạm Văn B, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2021/HC-ST ngày 01/10/2021 của TAND huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.

32 – 37

5

Bản án số: 10/2021/HCPT ngày 03 và 05/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc “Yêu cầu hủy Quyết định tạm giữ, QĐ gia hạn thời hạn tạm giữ, QĐ xử phạt hành chính và Quyết định về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu)”.

Nội dung vụ án:

Chị Trần Thị TT sinh năm 1983, địa chỉ: số 39 Phan Huy Ích, Khu tái định cư Đồng Quýt, xã LA, thành phố NĐ, tỉnh NĐ khởi kiện hành chính Trưởng Công an huyện SS, thành phố Hà Nội ngày 11/7/2019 đề nghị Tòa án xem xét giải quyết với các yêu cầu cụ thể sau:

1. Xác định chị không có hành vi gây rối trật tự công cộng vào ngày 15/3/2019. Trên cơ sở đó, xác định Quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính số 02/QĐ-TGN ngày 15/3/2019, Quyết định kéo dài thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính số 02/QĐ-KDTHTGN ngày 16/3/2019 là trái pháp luật và tuyên hủy bỏ các Quyết định này;

2. Xác định chị không thực hiện hành vi gây rối, cản trở hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức vào ngày 15/3/2019. Trên cơ sở đó, xác định Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 111/QĐ-XPVPHC ngày 16/3/2019 của Trưởng Công an huyện SS là trái pháp luật và tuyên hủy Quyết định này;

3. Xác định Quyết định về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 262-QĐ-CASS-TH ngày 27/5/2019 của Trưởng Công an huyện SS đối với Quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính số 02/QĐ-TGN ngày 15/3/2019, Quyết định kéo dài thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính số 02/QĐ-KDTHTGN ngày 16/3/2019 là không đúng pháp luật. Trên cơ sở đó tuyên hủy bỏ Quyết định về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 262-QĐ-CAS-TH ngày 27/5/2019 của Trưởng Công an huyện SS;

4. Buộc Trưởng Công an huyện SS – thành phố Hà Nội tổ chức công khai xin lỗi chị đồng thời ra các văn bản cải chính thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng về việc đã ban hành các Quyết định trái pháp luật nêu trên;

5. Hủy bỏ hồ sơ lăn tay, danh chỉ bản và chụp ảnh có sự chứng kiến của chị đồng thời xin lỗi công khai chị trước các phương tiện thông tin đại chúng.

Vì cho rằng các quyết định nêu trên của Trưởng Công an huyện SS là không đúng thẩm quyền và trái pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:

Tại Bản án hành sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 25/9/2020 của TAND huyện SS đã quyết định:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của chị Trần TT đề nghị hủy Quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính số 02/QĐ-TGN ngày 15/3/2019; Quyết định kéo dài thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính số 02/QĐ-KDTHTGN ngày 16/3/2019; Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 111/QĐ-XPVPHC ngày 16/3/2019 và Quyết định về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 262/QĐ-CAS-TH ngày 27/5/2019 của Trưởng Công an huyện SS.

2. Bác yêu cầu của chị Trần Thị TT đề nghì Trưởng Công an huyện SS tổ chức công khai xin lỗi và hủy hồ sơ lăn tay, danh chỉ bản đối với chị.

Ngày 08/10/2020, anh Chị Trần Thị TT có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định:

Xét về thẩm quyền các Quyết định:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều, Điều 122, điểm b khoản 1 Điều 123 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định thì Trưởng Công an cấp huyện có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và tạm giữ người theo thủ tục hành chính.

Đối với quyết định giải quyết khiếu nại: Sau khi thụ lý đơn khiếu nại, Công an huyện SS đã tiến hành xác minh nội dung khiếu nại, tổ chức đối thoại đối với chị Thủy theo đúng trình tự quy định tại Điều 27, Điều 29, Điều 30 Luật khiếu nại tố cáo. Ngày 27/5/2019, Trưởng Công an huyện SS ra Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 262/QĐ-CASS đối với chị Thủy là đúng thẩm quyền, trong thời hạn luật định theo quy định tại Điều 17, Điều 28 Luật khiếu nại tố cáo.

Xét về nội dung các Quyết định:

– Đối với Quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính và Quyết định kéo dài thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính: thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính của Trưởng Công an huyện SS đối với chị Thủy không vượt quá 24h theo quy định tại khoản 3 Điều 122 Luật xử lý vi phạm hành chính.

– Đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính: Công an huyện SS đã lập biên bản vi phạm hành chính, Biên bản vi phạm hành chính số 111 ngày 15/3/2019 của Công an huyện SS đã thể hiện đúng hành vi do chị Thủy thực hiện, từ đó Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với chị Thủy về hành vi “Gây rối, cản trở hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức” theo điểm h khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

– Đối với Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu: Ngày 27/5/2019, Trưởng Công an huyện SS ra Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) số 262/QĐ-CASS đối với chị Thủy là đúng thẩm quyền trong thời hạn luật định theo quy định tại Điều 17, Điều 27 Điều 28, Điều 29, Điều 30 Luật khiếu nại tố cáo. Nội dung của Quyết định giải quyết khiếu nại hoàn toàn đúng quy định pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của chị Trần Thị TT. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 25/9/2020 của TAND huyện SS.

38 – 46

LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BẢO ĐẢM VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan

Hỗ trợ online