FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN MÀ CÁC BÊN TRANH CHẤP LÀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN MÀ CÁC BÊN TRANH CHẤP LÀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số: 01/2022/LĐ-PT ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên về việc “Yêu cầu hoàn trả chi phí đào tạo nghề, tiền thưởng và bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết”
Nội dung: Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp KCP Việt Nam (gọi tắt là Công ty là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam. Ngày 07/3/2014, các bên ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, ông Q làm việc vị trí kỹ sư điện trong công ty. Ngày 26/3/2016, Công ty KCP và ông Q ký bản cam kết sau đào tạo, Ông Q được cử đào tạo chứng chỉ Trưởng ca vận hành chuyên ngành điện đồng phát, cam kết phục vụ tối thiểu 5 năm, nếu vi phạm thì phải chịu trách nhiệm bồi hoàn theo yêu cầu của công ty về toàn bộ chi phí đào tạo kể cả tiền lương, lương tăng thêm và các khoản phụ cấp khác trong quá trình đào tạo tập trung và không làm việc tại đơn vị. Tiếp đó, ngày 01/01/2018, hai bên tiếp tục ký hợp đồng đào tạo nghề số 003/HĐĐT-KCP, thời hạn đào tạo 18 tháng, ông Q tiếp tục cam kết phục vụ tối thiểu 5 năm kể từ ngày nhận được chứng chỉ trưởng ca vận hành, nếu vi phạm thì phải chịu trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo và bồi thường thiệt hại. Quá trình làm việc, ngày 10/8/2019 ông Q nộp đơn xin thôi việc và tự ý nghỉ việc đến ngày 26/8/2019. Ngày 09/10/2019 Ông Q chính thức nghỉ việc. Công ty KCP khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Q hoàn trả toàn bộ chi phí đào tạo và các khoản chi phí khác do vi phạm cam kết đã ký là 236.526.430 đồng và bồi thường thiệt hại do vi phạm cam kết làm việc 5 năm là 168.873.593 đồng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Lâm Chí Q phải hoàn trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp KCP Việt Nam số tiền 102.774.622 đồng chi phí đào tạo, tiền lương, phụ cấp khác và 12.888.000 đồng tiền thưởng năm 2018. 2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về hoàn trả chi phí đào tạo và bồi thường thiệt hại khác với tổng số tiền 289.737.401 đồng Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Về kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Hòa: Yêu cầu buộc bị đơn hoàn trả các khoản tiền về chi phí đào tạo tại H, tiền lương, bảo hiểm, tiền ăm,…Tổng cộng: 120.863.733 đồng. Đối với khoản chi phí đào tạo tại H, nguyên đơn cung cấp hợp đồng giao kết với bên thứ ba là Công ty cổ phần giải pháp quản lý năng lượng về việc đào tạo chuyên đề vận hành hệ thống điện với chi phí 184.540.868đ. Lớp học được tổ chức trong thời gian 5 ngày từ 21-26/01/2018 tại H, nguyên đơn đã chuyển trả toàn bộ chi phí theo hợp đồng. Thực tế bị đơn ông Q có tham gia khóa học này, nên phải chịu một phần chi phí đào tạo. Ngoài ra còn có các chi phí ăn ở, đi lại khi tham gia khóa học. Tổng chi phí thực tế nguyên đơn đã thanh toán để bị đơn được đào tạo và cấp chứng chỉ Trưởng ca vận hành chuyên ngành điện đồng phát là 110.594.000đ nhưng cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận số tiền 50.000.000đ là chưa phù hợp. Chính vì vậy, cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc buộc bị đơn hoàn trả khoản chi phí đào tạo và cấp chứng chỉ Trưởng ca vận hành chuyên ngành điện đồng phát là 110.594.000đ, cấp sơ thẩm đã chấp nhận bị đơn hoàn trả cho nguyên đơn 50.000.000đ nên bị đơn phải tiếp tục trả cho nguyên đơn 60.594.000đ là có căn cứ. Đối với các khoản tiền còn lại cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở nên cần giữ nguyên. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Buộc ông Lâm Chí Q phải hoàn trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp KCP Việt Nam số tiền 163.368.622đ chi phí đào tạo, tiền lương, phụ cấp khác và 12.888.000đ tiền thưởng năm 2018. Tổng cộng là 176.256.622 VNĐ 2. Không chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn về hoàn trả một phần tiền lương, tiền bảo hiểm, tiền ăn, tiền nộp 2% phí Công đoàn, chi phí khám sức khỏe định kỳ: 414.000 đồng, tiền lương đào tạo nội bộ, tiền đồng phục và giày bảo hộ và bồi thường thiệt hại khác với tổng số tiền 229.143.401 VNĐ |
1-7 |
|
Bản án số 295/2021/KDTM-PT ngày 31/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê mặt bằng”
Nội dung: Ngày 20/02/2017, Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A (sau đây viết tắt là “A”) và Công ty TNHH M (sau đây viết tắt là “M”) ký Hợp đồng thuê mặt bằng (sau đây viết tắt là “Hợp đồng thuê”), theo đó, Công ty A cho Công ty M (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) thuê mặt bằng với tổng diện tích thuê là 2.182,2 m2 của Tòa nhà số 332 B , phường H, quận T, Thành phố H (sau đây viết tắt là nhà số 332 B ). Nguyên đơn trình bày: Sau khi ký Hợp đồng thuê, Công ty M đã đặt cọc cho Công ty A số tiền là 5.826.704.205 đồng và thanh toán tiền thuê 05 năm đầu tiên là 32.046.873.130 đồng. Ngày 14/03/2017, Công ty A đã bàn giao diện tích mặt bằng thuê cho Công ty M , có lập biên bản bàn giao mặt bằng. Trong thời hạn thuê, Công ty M đã gửi cho Công ty A Thư đề nghị về việc quyết định đóng cửa siêu thị ngày 21/01/2018. Tiếp đến, ngày 11/03/2019, Công ty M tiếp tục gửi Thư đề nghị lần thứ hai liên quan đến việc chấm dứt Hợp đồng thuê. Về phía Công ty A, ngày 19/03/2019, đã gửi Công văn trả lời Thư đề nghị của Công ty M với nội dung đề xuất Công ty M tiếp tục thực hiện Hợp đồng thuê. Ngày 05/04/2019, Công ty A gửi tiếp đến Công ty M Công văn về việc chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn với nội dung yêu cầu Công ty M phải làm việc với Công ty A về kế hoạch kinh doanh của Công ty M. Ngày 18/04/2019, Công ty M có Công văn số 090419/CV-CÔNG TY M gửi Công ty A với nội dung tiếp tục thực hiện Hợp đồng thuê và tiếp tục hoạt động kinh doanh siêu thị tại mặt bằng thuê. Tuy nhiên, ngày 14/05/2019 chủ sở hữu của Công ty M là Tập đoàn A đã đăng tải công khai trên các trang báo điện tử (vnexpress.net, tuoitre.vn, vietnammoi.vn…) về việc sẽ chấm dứt hoạt động kinh doanh bán lẻ tại thị trường Việt Nam và rút toàn bộ vốn về nước nhưng Công ty A không nhận được thông báo hay sự thảo luận của Công ty M về việc chấm dứt này. Ngày 20/05/2019, Công ty M tiếp tục gửi Công văn cho Công ty A thông báo về việc đóng cửa siêu thị A tại số 332 B, phường H, quận T, Thành phố H. Đồng thời Công ty M đã có thông báo chính thức đến khách hàng và đối tác về việc sẽ chính thức đóng cửa siêu thị A và ngừng hoạt động kinh doanh tại Tòa nhà số 332 B từ ngày 02/06/2019. Ngày 31/05/2019, Công ty A đã gửi Công văn số 03/2019/AL-CV thông báo cho Công ty M biết về hành vi dừng kinh doanh siêu thị tại mặt bằng thuê là vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng thuê, ảnh hưởng đến mục đích của các bên khi xác lập Hợp đồng thuê nhưng phía Công ty M không cho thấy sự thiện chí khắc phục. Ngày 24/6/2019, Công ty A tiếp tục gửi Công văn lần 2 số 04/2019/AL-CV nhắc Công ty M khắc phục hành vi vi phạm Hợp đồng thuê nhưng đã quá 30 ngày kể từ ngày gửi công văn phía Công ty M vẫn không có bất kỳ hành động khắc phục hành vi vi phạm. Từ các căn cứ trên, Công ty A khẳng định Công ty M đã có hành vi đơn phương chấm dứt đồng và việc đơn phương chấm dứt này là trái với thỏa thuận của Các Bên và quy định của pháp luật. Đại diện bị đơn trình bày: 1. Tại đơn khởi kiện, Công ty A căn cứ vào văn bản đề ngày 21/01/2019 và văn bản đề ngày 11/03/2019 của Công ty M gửi Công ty A để khởi kiện Công ty M vì cho rằng Công ty M đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng. Công ty A đã cố tình hiểu sai đề xuất của Công ty M tại 02 văn bản. Công ty A tuy khởi kiện với lý do Công ty M đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê nhưng không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào thể hiện việc Công ty M đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê. Vậy lấy cơ sở, chứng cứ gì để Công ty A cho rằng Công ty M đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê trái pháp luật để khởi kiện. 2. Công ty A không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hợp đồng thuê mặt bằng giữa Công ty A và Công ty M vẫn đang còn hiệu lực. Công ty M chẳng những không nợ tiền thuê mặt bằng của Công ty A mà còn trả trước cho Công ty A tiền thuê đến năm 2022 với số tiền là 34.960.225.234 đồng, đồng nghĩa với việc Công ty M có sử dụng mặt bằng hay không sử dụng mặt bằng thì Công ty A cũng đã nhận trước phần tiền thuê cho đến năm 2022. 3. Việc Công ty A không có quyền khởi kiện nhưng vẫn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho Công ty M . Bởi vì Công ty M là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc mở tài khoản ngân hàng tại Việt Nam là rất khó khăn và phải thực hiện thông qua nhiều thủ tục phức tạp bởi quyết định của Tập Đoàn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mọi hoạt động tài chính của nhà đầu tư nước ngoài đều phải thực hiện thông qua hệ thống Ngân hàng. Việc tài khoản của Công ty M bị phong tỏa, khiến Công ty M không thể trả lương cho người lao động, không thể thực hiện thuế đối với Nhà nước, mọi hoạt động thanh toán với đối tác bị ngừng trệ. Hợp đồng thuê mặt bằng giữa Công ty A và Công ty M vẫn đang còn hiệu lực, quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty A chưa bị xâm phạm, nên Công ty A không có quyền khởi kiện và cũng chưa có đủ điều kiện để khởi kiện. Lẽ ra Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện cho Công ty A , nhưng chẳng những Tòa án đã thụ lý vụ án mà còn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản ngân hàng của Công ty M theo yêu cầu của Công ty A gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty M. Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự đề nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án, trả lại đơn khởi kiện cho Công ty A . Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A . Chấm dứt Hợp đồng thuê mặt bằng ngày 20/02/2017 ký giữa Bên cho thuê là Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A và Bên thuê là Công ty TNHH M (về việc thuê mặt bằng tại số 332 B, phường H, quận T, Thành phố H). Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A được giữ lại số tiền do Công ty TNHH M đã chuyển cho Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A gồm tiền cọc là 5.826.704.205 đồng và tiền thuê mặt bằng chưa sử dụng là 11.291.035.300 đồng, tổng cộng là 17.117.739.505 đồng Công ty TNHH M có nghĩa vụ giao trả cho Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A toàn bộ mặt bằng tại địa chỉ số 332 B, phường H, quận T, Thành phố H (theo tình trạng thực tế khi giao nhận) có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, số vào sổ cấp GCN: CT59963 ngày 24/01/2017 do Ủy ban nhân dân Thành phố H cấp, đứng tên Công ty cổ phần Sản xuất Thương mại M Sài Gòn, đã chuyển nhượng cho Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A, cập nhật biến động ngày 03/04/2017. Việc trả mặt bằng thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Công ty TNHH M còn phải tiếp tục trả tiền thuê mặt bằng cho Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A bắt đầu từ ngày 12/09/2020 cho đến ngày thực tế trả mặt bằng theo mức giá thuê là 534.114.552 đồng/tháng 2. Duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 124 của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được Tòa án nhân dân Quận 10 áp dụng tại Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 21/2019/QĐ-BPKCTT ngày 24/07/2019. 3. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A về yêu cầu Công ty TNHH M trả thêm số tiền là 108.298.948.140 đồng 4. Đình chỉ giải quyết việc Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A yêu cầu Công ty TNHH M phải bồi thường thiệt hại số tiền là 3.072.692.400 đồng (ba tỷ, không trăm bảy mươi hai triệu, sáu trăm chín mươi hai nghìn, bốn trăm đồng). 5. Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của Công ty TNHH M về yêu cầu Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A trả số tiền thuê đã nhận từ Công ty M mà chưa sử dụng và số tiền đặt cọc, tổng cộng là 23.318.955.787 đồng. Ngoài ra, án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Xét thấy: Ngày 7/6/2019, nguyên đơn Công ty Công ty A đã nộp đơn khởi kiện buộc Công ty Công ty M phải thanh toán cho Công ty Công ty A tổng số tiền 119.412.946.584 đồng gồm tiền bồi thường thiệt hại cho cho việc gây giảm sút giá trị thương mại của mặt bằng thuê là 3.072.692.400 đồng và bồi thường do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn theo quy định tại điểm b Mục 23.2 của Hợp đồng thuê mặt bằng là 116.340.254.184 đồng. Ngày 27/7/2020, nguyên đơn có đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Rút yêu cầu khởi kiện yêu cầu Công ty M bồi thường thiệt hại cho việc gây giảm sút giá trị thương mại của mặt bằng thuê là 3.072.692.400 đồng. Sửa đổi yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Công ty M bồi thường do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn theo quy định tại điểm b Mục 23.2 Phần B của Hợp đồng thuê mặt bằng là 110.514.370.348 đồng. Bổ sung thêm yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Công ty M bàn giao, hoàn trả toàn bộ mặt bằng thuê tại 332 B, phường H, quận T, Thành phố H cho Công ty Công ty A quản lý và sử dụng. Ngày 27/8/2020, nguyên đơn có đơn sửa đổi yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Công ty M phải thanh toán các khoản tiền do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn quy định tại điểm b Mục 23.2 Phần B của Hợp đồng thuê mặt bằng là 108.298.948.140 đồng. Đồng thời nguyên đơn có đính kèm bảng tính tiền phải thanh toán theo quy định tại điều 23.2 b của hợp đồng thuê mặt bằng số tiền buộc bị đơn phải thanh toán là 108.298.948.140 đồng (tổng số tiền phải thanh toán sau khi đã khấu trừ tiền cọc và tiền thuê chưa sử dụng nhưng đã thanh toán). Như vậy, căn cứ vào yêu cầu khởi kiện sửa đổi, bổ sung cuối cùng ngày 27/8/2020 của nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán số tiền là 108.298.948.140 đồng, số tiền này không bao gồm khoản tiền 5.826.704.205 đồng tiền cọc và 11.291.035.300 đồng tiền thuê còn lại chưa sử dụng như bản án sơ thẩm đã tuyên. – Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, hội đồng xét xử cũng đã hỏi lại nhiều lần đại diện nguyên đơn nội dung tại sao nguyên đơn không yêu cầu được giữ lại số tiền cọc 5.826.704.205 đồng và tiền thuê mặt bằng chưa sử dụng như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên thì đại diện nguyên đơn cho biết do phía bị đơn vi phạm hợp đồng nên theo hợp đồng thuê mà các bên ký kết thì nguyên đơn đương nhiên được hưởng số tiền này. Do đó, trong đơn kiện, không có nội dung yêu cầu số tiền nói trên cũng như nguyên đơn không nộp tạm ứng án phí đối với yêu cầu này. Theo Biên lai tạm ứng án phí số 0017420 ngày 10/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 10 thì phía Công ty A đóng tạm ứng án phí là 115.706.474 đồng trên yêu cầu khởi kiện buộc Công ty Công ty M phải thanh toán cho Công ty Công ty A tổng số tiền 119.412.946.584 đồng gồm tiền bồi thường thiệt hại cho cho việc gây giảm sút giá trị thương mại của mặt bằng thuê là 3.072.692.400 đồng và bồi thường do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê trước hạn theo quy định tại điểm b Mục 23.2 của Hợp đồng thuê mặt bằng là 116.340.254.184 đồng. Đại diện nguyên đơn cũng giải thích số tiền yêu cầu tại điểm b Mục 23.2 của Hợp đồng thuê mặt bằng từ 116.340.254.184 đồng xuống còn 110.514.370.348 đồng và cuối cùng là 108.298.948.140 đồng vì tính toán lại theo thời gian thuê còn lại đến năm 2037. – Như vậy, căn cứ vào đơn khởi kiện cuối cùng ngày 27/8/2020 của nguyên đơn và phần trình bày của đại diện nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm hôm nay đủ có cơ sở để xác định bản án sơ thẩm đã tuyên có nội dung: “…Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A được giữ lại số tiền do Công ty TNHH M đã chuyển cho Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A gồm tiền cọc là 5.826.704.205 đồng và tiền thuê mặt bằng chưa sử dụng là 11.291.035.300 đồng, tổng cộng là 17.117.739.505 đồng” là vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vi phạm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự: “…Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.” Đây là vi phạm tố tụng nghiêm trọng mà cấp phúc thẩm không thể khác phục được. – Đối với ý kiến của bị đơn và luật sư phía bị đơn cho rằng cấp sơ thẩm đã vi phạm tố tụng nghiêm trọng vì đã xét xử vượt quá yêu cầu khởi kiện là không đúng Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. – Riêng yêu cầu của phía Công ty Công ty M đề nghị hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 21/2019/QĐ-BPKCTT ngày 24/07/2019 của Tòa án nhân dân Quận 10, do hủy bản án nên biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được xem xét khi cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết lại vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp A và bị đơn Công ty TNHH Một thành viên Công ty M . Hủy Bản án sơ thẩm số 62/2020/KDTM-ST ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ về cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án. |
8-20 |
|
Bản án số 03/2014/KDTM-ST ngày 18/07/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc “Tranh chấp chia lợi nhuận công ty và đòi lại tài sản”
Nội dung: Nguyên đơn trình bày: Tháng 3/2003, ông NĐ Yang Tai Xin được ông Chang Chin Teh – Tổng Giám đốc Tập đoàn New Bonatìde đồng thời là chủ của Công ty Fraval International Cord chỉ định thay mặt tập đoàn New Bonatìde Machinery mở Văn phòng đại diện của Công ty Fraval International Cord tại Việt Nam, đặt trụ sở tại thành phố HCM. Ông NĐ Yang Tai Xin làm việc tại Văn phòng đại diện được 33 tháng nhưng chưa nhận lương. Đến ngày 05/12/2005, ông Yang Tai Xin đã hoàn tất thủ tục xin giấy phép đầu tư và được UBND tỉnh ĐN cấp Giấy phép số 101/GP-ĐN thành lập BĐ Công ty TNHH Trung Tín là Công ty con của Công ty New Bonatìde Machinery, trụ sở tại đường số 9, khu công nghiệp TP, xã TP, huyện LT, tỉnh ĐN. Giữa ông NĐ Yang Tai Xin và ông Chang Chin Teh là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc BĐ Công ty Trung Tín thỏa thuận là chuyển 33 tháng lương làm Trưởng Văn phòng đại diện cho Công ty Fraval International Cord của ông NĐ Yang Tai Xin sang góp vào vốn đầu tư cho BĐ Công ty TNHH Trung Tín. Toàn bộ số tiền 33 tháng lương của ông NĐ_Yang Tai Xin là 200.000 USD đã được chuyển thành 10% cổ phần của BĐ_Công ty TNHH Trung Tín. Tính từ ngày 01/01/2006 đến nay, ông NĐ_Yang Tai Xin không được chia lợi nhuận. Ông NĐ Yang Tai Xin khởi kiện BĐ Công ty TNHH Trung Tín yêu cầu thanh toán lợi nhuận trên cơ sở góp vốn 10% trong thời gian 02 năm từ 30/9/2009 đến 30/9/2011 là 136.934 USD tính ra tiền Việt Nam đồng tại thời điểm thanh toán. Ngày 19/8/2005 ông NĐ_Yang Tai Xin đã ký hợp đồng thuê nhà xưởng với Doanh nghiệp tư nhân Hạnh Nga tại địa chỉ huyện LT để chuẩn bị cho việc đầu tư xây dựng nhà máy mới. Việc ông NĐ Yang Tai Xin ký hợp đồng kinh tế thuê nhà xưởng với Doanh nghiệp tư nhân Hạnh Nga với tư cách là người đại diện của BĐ_Công ty TNHH Trung Tín để chuẩn bị cho việc đầu tư xây dựng một nhà máy mới ở huyện LT, tỉnh ĐN. số tiền đặt cọc thuê nhà xưởng là tiền của cá nhân ông NĐ Yang Tai Xin và mục đích thuê nhà xưởng là để bổ sung chứng từ hợp lệ vào Hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư tháng 11/2005. Sau khi hoàn thành việc xin cấp giấy phép đầu tư và hoàn thiện việc thuê nhà xưởng, BĐ Công ty TNHH Trung Tín đã tiếp quản công việc và mối quan hệ với Doanh nghiệp tư nhân Hạnh Nga theo tinh thần của hợp đồng kinh tế mà ông NĐ Yang Tai Xin với DNTN Hạnh Nga đã ký kết. BĐ Công ty TNHH Trung Tín đã không thực hiện thanh toán lại số tiền đặt cọc thuê nhà xưởng cho ông NĐ_Yang Tai Xin nên ngày 04/6/2012, ông NĐ Yang Tai Xin có đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung yêu cầu BĐ Công ty TNHH Trung Tín thanh toán cho ông NĐ Yang Tai Xin số tiền đã tạm ứng để đặt cọc tiền thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hạnh Nga là 23.122,87 USD tính ra tiền Việt Nam đồng tại thời điểm thanh toán. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của ông NĐ Yang Tai Xin rút yêu cầu chia lợi nhuận công ty nói trên và bổ sung yêu cầu công nhận ông NĐ_Yang Tai Xin là thành viên góp vốn của BĐ Công ty TNHH Trung Tín. Bị đơn trình bày: Đối với yêu cầu chia lợi nhuận của ông NĐ Yang Tai Xin, nếu đúng như có thỏa thuận giữa ông NĐ_Yang Tai Xin với BĐ_Công ty TNHH Trung Tín ngày 01/01/2006 thì cần được coi là một dạng tranh chấp về hợp đồng dân sự chứ không phải là tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty. Mặt khác, ông NĐ_Yang Tai Xin không có tư cách thành viên công ty trong BĐ Công ty TNHH Trung Tín. Ông NĐ Yang Tai Xin không cung cấp được văn bản thỏa thuận nào ghi rõ việc chuyển toàn bộ 33 tháng lương làm Trưởng Văn phòng đại diện Fraval International Cord sang góp vào vốn đầu tư BĐ Công ty TNHH Trung Tín. Tập đoàn New Bonatìde Machinery và Công ty Fraval International Cord không phải là chủ đầu tư của BĐ Công ty TNHH Trung Tín mà chủ đầu tư của BĐ Công ty TNHH Trung Tín là LQ Công ty Hanshin Trade International Limited, do đó ông NĐ Yang Tai Xin không có căn cứ pháp lý nào cũng như không có tư cách thành viên để yêu cầu BĐ Công ty TNHH Trung Tín phân chia lợi nhuận. Giấy thỏa thuận ngày 01/01/2006, không ghi chi tiết của Bên A và Bên B nên không xác định được chính xác Bên A, Bên B là ai. Chỗ ký tên của Bên B ở cuối văn bản giấy thỏa thuận có ghi tên cả hai Công ty là BĐ Công ty TNHH Trung Tín và LQ Công ty Hanshin Trade International Limited nhưng chỉ có một chữ ký và một con dấu ghi tên LQ Công ty Hanshin Trade International Limited cho nên cũng không xác định được rõ ràng Bên B là ai. BĐ Công ty TNHH Trung Tín là một Công ty TNHH một thành viên, không phải là Công ty cổ phần, ông NĐ_Yang Tai Xin không là cổ đông nên yêu cầu chia 10% lợi nhuận cổ phần là không đúng. Giấy thỏa thuận giữa hai bên quy định áp dụng pháp luật của Đài Loan để làm cơ sở giải quyết nên việc này Tòa án Việt Nam giải quyết là không phù hợp. Nay BĐ_Công ty không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Yang Tai Xin về yêu cầu chia lợi nhuận, đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu này hoặc bác yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Yang Tai Xin. Đối với yêu cầu đòi lại tài sản là khoản tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hạnh Nga, BĐ Công ty TNHH Trung Tín khẳng định số tiền 23.122,87 USD không phải tiền của ông NĐ Yang Tai Xin mà do BĐ Công ty TNHH Trung Tín quản lý chiếm hữu nên theo luật định ông NĐ Yang Tai Xin có hai năm để khởi kiện đòi lại số tiền này. Thời hiệu khởi kiện của ông NĐ Yang Tai Xin là 02 năm kể từ ngày đặt cọc, nhưng đến tháng 4/2012 ông NĐ_Yang Tai Xin mới khởi kiện ra Tòa án là hết thời hiệu khởi kiện. Vào thời điểm ông NĐ_Yang Tai Xin đặt cọc tiền thuê nhà xưởng ngày 19/8/2005, thì BĐ_Công ty TNHH Trung Tín chưa được thành lập nên giữa ông NĐ Yang Tai Xin và pháp nhân BĐ Công ty TNHH Trung Tín không thể có bất kỳ thỏa thuận nào kể cả thỏa thuận mượn tiền và ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng. Qua các tài liệu ông NĐ Yang Tai Xin cung cấp không chứng minh được ông NĐ Yang Tai Xin và pháp nhân BĐ Công ty TNHH Trung Tín mượn tiền và ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của DNTN Hạnh Nga. Đầu năm 2010, khi BĐ Công ty TNHH Trung Tín có ký lại hợp đồng thuê nhà xưởng với DNTN Hạnh Nga thì ông NĐ_Yang Tai Xin có biết nhưng cũng không có ý kiến gì. Ông NĐ_Yang Tai Xin ký hợp đồng thuê nhà xưởng với DNTN Hạnh Nga với tư cách là cá nhân, không liên quan đến BĐ Công ty TNHH Trung Tín. Từ ngày BĐ Công ty TNHH Trung Tín thành lập cho đến nay, ông NĐ Yang Tai Xin chưa bao giờ là thành viên công ty đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam nên tranh chấp thành viên giữa ông NĐ Yang Tai Xin với BĐ Công ty TNHH Trung Tín để đòi lại số tiền đặt cọc là không có cơ sở. Mặt khác, ông NĐ Yang Tai Xin đã nhận tiền từ nước ngoài/người khác chuyển để tạm ứng tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của DNTN Hạnh Nga chứ hoàn toàn không có việc ông NĐ_Yang Tai Xin tự bỏ tiền ra đặt cọc. Nay ông NĐ_Yang Tai Xin yêu cầu BĐ_Công ty Trung Tín trả lại số tiền đặt cọc này thì BĐ Công ty đề nghị đình chỉ giải quyết vụ án hoặc bác yêu cầu này của ông NĐ Yang Tai Xin. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Đối với yêu cầu chia lợi nhuận của ông NĐ Yang Tai Xin: Vào ngày 01/01/2006, giữa ông NĐ_Yang Tai Xin và ông Chang Chin Teh là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc BĐ Công ty TNHH Trung Tín có ký Giấy thỏa thuận (BL 96, 97, 98), theo đó ông NĐ Yang Tai Xin có quyền yêu cầu phân chia lợi nhuận cổ đông tương đương với tỷ lệ phần trăm quyền cổ phần có trong BĐ Công ty TNHH Trung Tín là 10%. Tại Văn bản BĐ Công ty TNHH Trung Tín gửi ông NĐ Yang Tai Xin ngày 16/9/2008 do ông Wu Cheng Cheng – Phó Tổng Giám đốc – người được ông Chang Chin Teh ủy quyền ký (BL 101), BĐ Công ty TNHH Trung Tín cũng đã xác định phần vốn góp 10% của ông NĐ Yang Tai Xin vào BĐ Công ty TNHH Trung Tín trước đây, BĐ Công ty đang tính toán để chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn của ông trong thời gian sớm nhất. Như vậy, trên thực tế ông NĐ_Yang Tai |
|
[XEM BẢN ĐẦY ĐỦ TẠI PDF] |
LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN MÀ CÁC BÊN TRANH CHẤP LÀ DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn