STT
|
NỘI DUNG BẢN ÁN
|
SỐ TRANG
|
01
|
Bản án số 57/2017/DS-PT ngày 14/12/2017 về việc “Tranh chấp thừa kế” của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Nội dung vụ án: Năm 1960, ông Nguyễn Văn T2 (tức C) và bà Hà Thị T2 đăng ký kết hôn. Nhưng ông T2, bà T2 không có con nên có nhận anh Nguyễn Văn N1 làm con nuôi. Đến năm 1978, ông T2 chung sống với bà Hoàng Thị N (tức T) và có 02 người con chung là Nguyễn Hữu C và Nguyễn Hữu L. Năm 2010, ông Nguyễn Văn T2 chết không để lại di chúc.
Ông T2 đã tạo lập được khối tài sản là đất ở và nhà ở có diện tích 217,8m2 tại thôn 00, xã HL, huyện VD, tỉnh Quảng Ninh. Ngày 12/01/2004, Ủy ban nhân dân huyện VD đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn T2 và bà Hà Thị T2. Sau đó, nhà đất của ông T2 bà T2 bị thu hồi, được bồi thường 2.963.996.000 đồng, số tiền này anh Nguyễn Văn N1 đứng ra nhận.
Nay bà N, anh C, anh L khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế, xác định di sản của ông T2 là một nửa số tiền được bồi thường (là 1.482.000.000 đồng). Di sản của ông T2 được chia làm 5 phần: 4 phần cho 4 người được hưởng thừa kế là anh N1, bà T2, anh C, anh L; còn 01 phần cho anh N1 được hưởng vì anh N1 là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng, mai táng cho ông T2 và duy trì, quản lý tài sản của ông T2. Tại phiên tòa sơ thẩm anh L rút yêu cầu khởi kiện của bà N.
Tại Bản án sơ thẩm quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu chia thừa kế của anh C, anh L. Chấp nhận một phần yêu cầu xác định quyền sở hữu tài sản của anh N1 và chị T1.
– Xác định số tiền 1.302.952.668 đồng trong tổng số tiền 2.963.996.000 đồng là tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của anh N1, chị T1 chia theo phần: Anh N1 sở hữu 651.476.334 đồng và chị T1 sở hữu 651.476.334 đồng.
– Xác định số tiền 1.563.183.699 đồng là tài sản thuộc sở hữu chung của bốn người gồm: anh N1, chị T1, ông T2, bà T2, chia theo phần.
– Xác định di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn T2 (tức C) để chia cho những người thừa kế là: 332.795.924 đồng
– Anh N1 được hưởng tổng số tiền là: 1.125.471.239 đồng. Anh N1 có nghĩa vụ thanh toán cho anh L, anh C, bà T2 số tiền hưởng di sản thừa kế nêu trên mỗi người 83.198.981 đồng. Thanh toán cho chị T1 số tiền 1.042.272.258 đồng.
Ngày 28/8/2017, anh L, anh C làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án. |
Nhận định của Tòa án phúc thẩm:
– Ông T2 chết không để lại di chúc. Tòa án cấp sơ thẩm đã chia di sản thừa kế của ông T2 theo pháp luật là đúng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà T2 (vợ hợp pháp của ông T2) anh C, anh L (con đẻ ông T2) và anh N1 (con nuôi ông T2) là những người được hưởng thừa kế di sản của ông T2 là đúng.
– Về di sản của ông T2: Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T2 bà T2 được UBND huyện VD thì ông T2 bà T2 được quyền sử dụng 217,8m2 đất. Ngày 12/2/2015, UBND huyện VD quyết định thu hồi toàn bộ thửa đất và tài sản trên đất, giải quyết bồi thường 2.963.996.000 đồng cho gia đình anh N1 (anh N1 là người nhận tiền bồi thường).
Tòa án cấp phúc thẩm thấy mặc dù trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ mang tên ông T2, bà T2, nhưng phải xét ông T2, bà T2 tuổi đã cao lại ở chung với vợ chồng anh N1 thì phần tài sản này có công đóng góp chung của bà và ông T2, vợ chồng anh N1.
Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định 112,8m2 đất, ngôi nhà xây, tài sản trên đất có giá trị 1.563.183.669 đồng là tài sản chung của ông T2, bà T2, anh N1, chị T1 là có căn cứ. Ông T2 chết chi phí mai táng hết 58.000.000 đồng (số tiền này do anh N1 chị T1 bỏ ra) vì vậy số tiền này được trừ vào di sản của ông T2. Do đó Tòa án xác định di sản của ông T2 còn lại là 332.795.924 đồng.
Tòa án Phúc thẩm quyết định:
– Không chấp nhận nội dung kháng cáo của anh L, anh C.
– Sửa bản án sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu chia thừa kế của anh C, anh L.
+ Trong số tiền 2.963.996.000 đồng được UBND huyện VD bồi thường thì có:
– 1.237.712.669 đồng là tài sản thuộc sở hữu riêng của anh N1, chị T1.
– 163.100.000 đồng tiền hỗ trợ tái định cư là tài sản thuộc sở hữu chung của anh N1, chị T1, bà T2, cháu Vt và cháu N. |
– 1.563.183.699 đồng là tài sản thuộc sở hữu chung của bốn người gồm: anh N1, chị T1, ông T2, và bà T2. Chia theo phần mỗi người được 390.795.924 đồng. Sau khi trừ 58 triệu đồng chi phí mai táng cho ông T2 thì di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn T2 (tức C) là: 332.795.924 đồng. |
01 – 12
|
02
|
Bản án số 69/2018/DS-PT ngày 09/03/2018 về việc “Yêu cầu công nhận quyền thừa kế và tranh chấp di sản thừa kế” của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. |
Nội dung vụ án: Bà Đỗ Thị T5 không lấy chồng, nhưng có một người con nuôi là chị Đỗ Đức Phương C3. Anh C1 kết hôn với chị C3 ngày 27/6/2002 (có đăng ký kết hôn) có 02 con chung là cháu Thiều Thụy Thùy T7, và cháu Thiều Đỗ Gia H4. Chị C3 (chết ngày 05/3/2007); bà T5 (chết ngày 10/2/2009) và cả hai không để lại di chúc. Di sản bà T5 để lại là thửa đất số 203, Tờ bản đồ số 12, diện tích 127,3m2 tại khối 7, phường L, thành phố H.
Năm 2011, C1 về sửa lại nhà và làm thủ tục khai nhận thừa kế cho hai cháu T7 và cháu H4 đối với di sản của bà T5 để lại, nhưng ông Đỗ Quang V ngăn cản không cho sửa và khai nhận thừa kế cho hai cháu.
Vì vậy, anh C1 yêu cầu giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế tài sản của bà Đỗ Thị T5 và công nhận hai cháu Thiều Thụy Thùy T7 và cháu Thiều Đỗ Gia H4 được hưởng toàn bộ di sản do bà T5 để lại.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh C1: Công nhận cháu Thiều Thụy Thùy T7 và cháu Thiều Đỗ Gia H4 được quyền thừa kế đối với di sản bà Đỗ Thị T5 để lại gồm: Thửa đất số 203, diện tích 127,3m2 tại khối 7, phường L, thành phố H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC188680 ngày 01/8/2005 mang tên Đỗ Thị Thanh T5; nhà và các tài sản khác gắn liền với đất.
Ngày 11/01/2016, ông Trần Hậu Đ (người đại diện theo ủy quyền của ông V và bà T2) kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.
Nhận định của Tòa án:
– Về quan hệ thừa kế: Năm 1979, bà T5 nhận chị C3 làm con nuôi nhưng không thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Mối quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa bà T5 và chị C3 tồn tại trên thực tế, được phía gia đình bị đơn thừa nhận.
Năm 2002, chị C3 kết hôn với anh C1 và vợ chồng có hai con chung là cháu T7 và H4. Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009) cả hai không để lại di chúc nên hai cháu T7 và H4 được thừa kế thế vị di sản của bà T5 theo quy định. Do đó, anh C1 là bố của cháu T7 và cháu H4 khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận cháu T7 và cháu H4 được quyền thừa kế di sản của bà T5 để lại là có căn cứ.
– Về di sản tranh chấp: Thửa đất số 203, diện tích 127,3m2 tại khối 7, phường L, thành phố H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà T5 có nguồn gốc được Ủy ban nhân dân thị xã H cấp năm 1973. Tuy nhiên, trước năm 1985 không có hồ sơ lưu trữ việc thửa đất đang tranh chấp cấp cho ai. Nhưng tại bản đồ 299 và sổ mục kê năm 1985 có số thửa 496, mang tên bà Đỗ Thị T5. Tại bản đồ 371 đo vẽ năm 1995 có số thửa 203, Tờ bản đồ số 12 mang tên Đỗ Thị T2 (việc sai sót do ghi chép). Năm 2004, bà T5 làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bà T5 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định 1212/QĐ-UB ngày 01/8/2005 của Ủy ban nhân dân thị xã H. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định khi Nhà nước thực hiện đăng ký thống kê về đất đai theo chỉ thị 299 cũng không thể hiện ai là người đứng tên kê khai thửa đất là không đúng. |
Tòa án phúc thẩm quyết định: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử lại theo quy định của pháp luật. |
13 – 24
|
03
|
Bản án số: 18/2018/DS-PT ngày 18/07/2018 về việc “Tranh chấp di sản thừa kế” của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.
Nội dung vụ án: Cụ Đàm và Cụ Sen sinh được 4 người con là Nguyễn Thị Tấn, Nguyễn Văn Bút, Nguyễn Thị Nhẫn, Nguyễn Văn Chính. Bà Nhẫn (chết năm 2015) có 4 người con là Phạm Thị Tuyết, Phạm Văn C, Phạm Thị Kh, Phạm Thị H. Ông Bút hy sinh năm 1950, không có vợ con. Bà Tấn (chết năm 2003) có 7 người con là Nguyễn Văn K, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị N, Nguyễn Văn G, Nguyễn Văn B, Nguyễn Thị Nh. Ông Chính (hy sinh năm 1972) có vợ là Phạm Thị D, ông Chính và bà D không có con đẻ nhưng có con nuôi là chị Nguyễn Thị N.
Năm 1945, cụ Đàm chết và không để lại di chúc. Năm 1994, cụ Sen đã lập di chúc có nội dung cho hai con gái là Tấn và Nhẫn được thừa kế 03 gian nhà lợp ngói hướng Bắc Nam trên diện tích 538m2 đất và cho bà D được thừa kế 538m2 đất tại thôn Kim Đằng, Lam Sơn, Thị xã Hưng Yên.
Ngày 25/6/2007, cụ Sen chết. Sau khi cụ Sen chết giữa bà Tấn, các con bà Nhẫn và bà D phát sinh tranh chấp. Anh Nguyễn Văn B, anh Phạm Văn C có đơn khởi kiện tới Tòa án.
Tại Bản án Sơ thẩm quyết định:
– Di sản cụ Đàm để lại trở thành tài sản chung, có tổng diện tích là 545.6m2 đất tại xóm 5, Kim Đằng, Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
– Di sản cụ Sen để lại là 591,2m2 tại xóm 5, Kim Đằng, Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Các di sản khác gồm: 01 nhà cấp 4, 01 bếp, 02 bể nước, sân gạch, tường rào, nhà vệ sinh, 04 cây na, 16 cây nhãn, 01 cây mít, 01 cây bưởi, 165 cây chuối.
– Bác yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn B và anh Phạm Văn C về việc chia di sản thừa kế của cụ Sen theo pháp luật.
– Bà Phạm Thị D được thừa kế phần di sản của cụ Sen gồm 591,2m2 đất và các di sản trên đất…
Ngày 04/12/2017, các anh Phạm Văn C và Nguyễn Văn Ba kháng cáo đề nghị: Hủy di chúc của cụ Sen viết ngày 01/09/2004; Phân chia tài sản chung của cụ Đàm cho hàng thừa kế thứ nhất là Nguyễn Thị Tấn, Nguyễn Thị Nhẫn, Nguyễn Văn Chính. Ngày 03/05/2018, bổ sung kháng cáo, đề nghị chia di sản của cụ Đàm theo pháp luật.
Tòa án phúc thẩm nhận định:
– Căn cứ nội dung đơn khởi kiện và các lời khai của nguyên đơn đề nghị Tòa án xem xét giải quyết chia di sản thừa kế của cụ Đàm và cụ Sen để lại là 1.076m2 đất theo quy định của pháp luật. ½ di sản của cụ Đàm đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế nên đề nghị chia tài sản chung. |
Ngày 03/05/2018, nguyên đơn bổ sung kháng cáo, đề nghị: chia di sản của cụ Đàm theo pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đề nghị chia di sản thừa
kế của cụ Đàm và cụ Sen để lại theo quy định của pháp luật. Do vậy, để giải quyết vụ án được triệt để, cần phải xem xét toàn bộ khối di sản cụ Sen và cụ Đàm để lại.
– Do di chúc của cụ Sen ngày 19/4/1994 và 01/9/2004 không đảm bảo theo quy định của pháp luật về mặt hình thức và nội dung nên không có hiệu lực.
– Ông Chính và bà D không có con đẻ nhưng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã xác định: ông Chính và bà D có nhận chị Nguyễn Thị N làm con nuôi. Mặc dù việc nhận con nuôi không có văn bản giấy tờ do thời điểm này Luật chưa quy định việc nhận nuôi con nuôi phải thể hiện bằng văn bản. Căn cứ vào hồ sơ quân nhân ông Chính, căn cứ vào giấy báo tử của ông Nguyễn Văn Chính, các nguyên đơn đều xác định khi ông Chính đi bộ đội có nhận chị N làm con nuôi, chị N ở với bà D đến khi đi lấy chồng. Do vậy, có đủ căn cứ xác định chị N là con nuôi hợp pháp của ông Chính bà D. Chị N, bà D và cụ Sen mỗi người sẽ được hưởng 1/3 di sản của ông Chính để lại bằng 21,22m2 đất.
Tòa án phúc thẩm tuyên:
– Tuyên bố bản di chúc lập ngày 19/4/1994 và ngày 01/9/2004 là vô hiệu.
– Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Văn Đàm và cụ Phạm Thị Sen gồm: bà Nguyễn Thị Tấn, ông Nguyễn Văn Bút, bà Nguyễn Thị Nhẫn và ông Nguyễn Văn Chính. |
– Giao cho bà Phạm Thị D quản lý, sử dụng 521,2m2 đất; Giao cho chị Nguyễn Thị N quản lý, sử dụng 208.2m2 đất; Giao cho anh Nguyễn Văn B (đại diện cho những người hưởng thừa kế của bà Nguyễn Thị Tấn gồm: Anh K, chị T, chị V, anh G, chị Nh, anh B) quản lý, sử dụng 188,1m2 đất. Giao cho anh Phạm Văn C (đại diện cho những người hưởng thừa kế của bà Nguyễn Thị Nhẫn gồm: Anh C, chị Kh, chị H) quản lý, sử dụng 219,3m2 đất. |
25 – 40
|
04
|
Bản án số: 51/2018/DS-PT ngày 10/8/2018 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Nội dung vụ án: Cụ Nguyễn D và cụ Nguyễn Thị C có 04 người con gồm: Ông Nguyễn H là con nuôi được cụ D và cụ C nuôi từ nhỏ. Bà Nguyễn Thị X (chết năm 2016) có 08 người con là Nguyễn V, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị T5 và Nguyễn Thị T6. Ông Nguyễn L (chết năm 1968) có vợ là bà Võ Thị T và 02 con là Nguyễn Thị Như M và Nguyễn Thị Minh T. Ông Nguyễn X (chết năm 1999), có vợ là bà Đặng Thị B (chết năm 2012) và 03 người con là Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị H1. Ngoài ra, bà B còn có 02 con riêng là Võ Thị L và Võ Thị L1. |
Quá trình chung sống, cụ D và cụ C tạo lập được một ngôi nhà tranh trên diện tích đất 1.115,5m2 tọa lạc tại thôn Thôn P, xã Phường V, thành phố N. Cụ Nguyễn D chết năm 1958, không để lại di chúc. Sau khi cụ D chết, cụ C vẫn sinh sống tại ngôi nhà tranh. Năm 1968 toàn bộ nhà tranh bị cháy. Cụ C cùng
các con đóng góp công sức để xây dựng nhà cho cụ C ở. Năm 1979, cụ C chết, không để lại di chúc. Do phát sinh tranh chấp nên ông H đã khởi kiện đến Tòa án yêu cầu chia thừa kế.
Bản án dân sự sơ thẩm quyết định:
– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn H và bà Nguyễn Thị X (đã chết) về “Tranh chấp chia di sản thừa kế” đối với bị đơn bà Đặng Thị B (đã chết). Những người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Đặng Thị B gồm các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H2 phải có nghĩa vụ thanh toán kỷ phần thừa kế cho những người sau:
– Thanh toán cho ông Nguyễn H với giá trị bằng tiền là 836.625.000 đồng.
– Thanh toán cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị X.
Ngày 25 tháng 9 năm 2017, các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1 và Nguyễn Thị H2 có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án.
Nhận định của Tòa án phúc thẩm:
– Cụ Nguyễn D và cụ Nguyễn Thị C có 03 người con ruột là bà Nguyễn Thị X, ông Nguyễn L, ông Nguyễn X và 01 người con nuôi là ông Nguyễn H. Do đó, di sản của cụ D và cụ C để lại được chia đều cho ông Nguyễn H, bà Nguyễn Thị X, ông Nguyễn L và ông Nguyễn X (04 phần).
– Ngoài ra, con của các ông bà đã mất được hưởng phần di sản mà bố mẹ họ được hưởng.
Tòa án phúc thẩm quyết định:
Chấp nhận một phần kháng cáo của các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1 và Nguyễn Thị H2. Sửa bản án sơ thẩm.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn H, bà Nguyễn Thị X (đã chết) về việc: Chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn D, cụ Nguyễn Thị C để lại là nhà, đất tại thôn Thôn P, xã Phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
2. Giá trị phần tài sản thừa kế mỗi người được nhận, cụ thể:
– Ông Nguyễn H được nhận phần giá trị tài sản thừa kế là 660.000.000 đồng.
– Các ông, bà Nguyễn V, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị T5 và Nguyễn Thị T6 được nhận
kỷ phần thừa kế của bà Nguyễn Thị X, mỗi người được nhận phần giá trị tài sản
thừa kế là 82.500.000 đồng.
– Bà Võ Thị T được nhận phần giá trị tài sản thừa kế là 110.000.000 đồng. Các bà Nguyễn Thị Như M, bà Nguyễn Thị Minh T mỗi người được nhận phần giá trị tài sản thừa kế là 275.000.000 đồng. |
– Các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H2 được nhận phần giá trị tài sản thừa kế của bà Đặng Thị B là 660.000.000 đồng. Mỗi người được nhận là 220.000.000 đồng.
3. Giao cho các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H2 được quyền sử dụng lô đất có diện tích 203,6m2 và được quyền sở hữu căn nhà cấp 4 có diện tích 98m2 do bà Đặng Thị B xây dựng trên đất.
4. Các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H2 phải có nghĩa vụ thanh toán cho các đồng thừa kế sau:
– Thanh toán cho ông Nguyễn H 660.000.000 đồng;
– Thanh toán cho các ông, bà Nguyễn V, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3, Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị T5 và Nguyễn Thị T6, mỗi người là 82.500.000 đồng;
– Thanh toán cho bà Võ Thị T 110.000.000 đồng. Thanh toán cho các bà Nguyễn Thị Như M, Nguyễn Thị Minh T mỗi người 275.000.000 đồng. |
Các bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H2 thực hiện nghĩa vụ thanh toán nêu trên trong phạm vi di sản do bà Đặng Thị B để lại. |
41 – 56
|
05
|
Bản án số:78/2018/DS- PT ngày 07/9/2018 về việc “Tranh chấp chia thừa kế” của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
Nội dung sự việc: Cụ Đỗ Tá Tr và cụ Nguyễn Thị T kết hôn với nhau 1953. Hai cụ sinh được một người con là bà Đỗ Thị T; năm 1963 hai cụ nhận nuôi ông Đỗ Tá T. Ngoài ra, cụ Tr còn có một người con riêng với cụ Nguyễn Thị M là anh Đỗ Tá Thanh T. Năm 1999 cụ Tr chết, năm 2011 cụ T chết, các đương sự có cung cấp cho Tòa án bản di chúc photo do hai cụ lập nhưng không có bản gốc để đối chiếu.
Trong quá trình chung sống cụ Tr, cụ T có mua được một thửa đất số 351, diện tích 273m2, tọa lạc tại khu phố H, phường Đ, thị xã T, tỉnh B. Trên đất các cụ xây 01 nhà cấp 4 lợp ngói và 01 nhà trần ở phía Tây thửa đất. Tài sản khác có 01 bộ bàn ghế Á Âu, 01 tủ Chè, 01 sập gỗ, số tiền 150 triệu đồng cụ T gửi cụ Ý, số tiền 83.000.000 đồng là tiền nhà nước đền bù ruộng của cụ Tr và cụ T.
Sau khi cụ T chết (năm 2011), đến năm 2015 do không thống nhất được việc chia di sản thừa kế nên bà T đã khởi kiện đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế.
Tại Bản án sơ thẩm quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn. Di sản thừa kế gồm: Thừa đất số 351, tờ bản đồ số 5 diện tích 273m2; số thửa mới (năm 2015) là 234, tờ bản đồ số 93 diện tích 286,2m2 (diện tích chi thừa kế trong vụ án là 286,2m2); 01 nhà cấp bốn, 01 nhà trần 01 tầng ở hướng Tây của thửa đất; số tiền cho thuê nhà đất 180 triệu đồng; tiền của cụ T để lại 120 triệu đồng; tiền đền bù ruộng của hai cụ là 83 triệu đồng.
Chia cụ thể cho:
Bà T: Được quyền sử dụng diện tích 117,3m2 đất ở, sở hữu các tài sản xây dựng gắn liền với diện tích đất được chia và được sở hữu các tài sản. |
Ông T: Được quyền sử dụng diện tích 168,9m2 đất ở; ông T, bà H được sử dụng các tài sản xây dựng gắn liền với diện tích đất được chia: Nhà 03 tầng và cổng inox trị giá 447.685.000đồng; nhà 01 tầng đổ bê tông diện tích 10.8m2 trị
giá 14.283.300 đồng; nhà để xe trị giá 3.182.000 đồng; được sở hữu 147.705.400 đồng do bà T trích trả.
Anh Thanh T được chia và sở hữu phần kỷ phần thừa kế do ông T và bà T có nghĩa vụ trích trả là 565.140.800 đồng.
Ngày 07/8/2017 và ngày 08/8/2017 anh Đỗ Tá Thanh T và bà Đỗ Thị T có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm.
Nhận định của Tòa án phúc thẩm:
– Trong các lời khai của các đương sự bà T, anh Thanh T đều thừa nhận ông T được cụ Tr, cụ T nhận về nuôi khi mới được hai tháng tuổi tới khi trưởng thành. Mặc dù Tòa án không thu thập được giấy khai sinh của ông T nhưng xét về quan hệ nuôi dưỡng và chăm sóc giữa ông T và cụ Tr, cụ T thì việc Tòa án thị xã T xác định ông T là con nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, ông T đủ điều kiện là diện trong hàng thừa kế hợp pháp của cụ Tr, cụ T. Như vậy, kháng cáo của bà T và anh Thanh T khi cho rằng bản án chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất cho ông T là không đúng với quy định về con nuôi là không có cơ sở chấp nhận.
– Tại phiên tòa ngày 19/7/2017, Hội đồng xét xử thông báo kéo dài thời gian nghị án đến ngày 25/7/2017, nhưng đến ngày 25/7/2017 Hội đồng xét xử quay lại phần thủ tục tranh tụng. Sau đó, lại thông báo kéo dài thời gian nghị án đến ngày 28/7/2017 nhưng trong thời gian Hội đồng xét xử nghị án, thẩm phán giải quyết vụ án lại đi thu thập xác minh chứng cứ là vi phạm thủ tục tố tụng.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy bản án sơ thẩm có nhiều vi phạm nghiêm trọng về nội dung và thủ tục tố tụng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. |
Tòa án phúc thẩm quyết định: Hủy bản án sơ thẩm số 15/2017/DSST ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
57 – 70
|
06
|
Bản án số: 44/2018/DS-PT ngày 21/9/2018 về việc “Tranh chấp xác nhận quyền thừa kế theo di chúc” của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
Nội dung vụ án: Cụ Vũ Xuân Đ1 (chết ngày 14-3-2005) và cụ Nguyễn Thị T1 (chết ngày 26-4-2014). Khi còn sống không có con nên đã nhận ông Vũ Xuân Đ, bà Vũ Thị H2, ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H1 về làm con nuôi từ khi còn nhỏ cho đến khi dựng vợ, gả chồng.
Di sản của cụ Đ1 và cụ T1 để lại là một nhà mái bằng một tầng diện tích khoảng 50m2 trên diện tích đất 116m2 tại thửa đất số 99, tổ dân phố số 9, thị trấn T. Sau khi cụ Đ1 và cụ T1 chết, toàn bộ số tài sản này do ông Đ quản lý được hơn 3 năm. Nay, ông Đ đề nghị Tòa án giải quyết giao di sản của cụ Đ1 và cụ T1 cho ông quản lý, sử dụng theo đúng nội dung biên bản họp gia đình vào ngày13-02-2005. |
Bản án sơ thẩm quyết định: Giao cho ông Vũ Xuân Đ, bà Phạm Thị G được quyền sở hữu, sử dụng một nhà mái bằng một tầng diện tích 44,59m2 và quản lý, sử dụng diện tích đất 111m2 tại thửa đất số 99, tổ dân phố số 9, thị trấn T để làm nơi thờ cúng cho cụ Vũ Xuân Đ1, cụ Nguyễn Thị T1 và nơi họp mặt con cháu.
Ngày 03-4-2018, ông A, bà H1, bà H2 là bị đơn trong vụ án có đơn kháng cáo, không nhất trí với bản án sơ thẩm vì đã giao cho ông Đ sở hữu nhà đất để thờ cúng. Việc Bản án công nhận biên bản họp gia đình vào ngày 13-02-2018 là không đúng, đề nghị xét xử phúc thẩm lại.
Ngày 12-4-2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu có Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-KNPT với nội dung: Nguyên đơn yêu cầu công nhận quyền được hưởng di sản chứ không phải yêu cầu chia thừa kế.
Nhận định của Tòa án phúc thẩm:
– Xét nội dung kháng nghị: Ông Vũ Xuân Đ khởi kiện “Yêu cầu xác nhận quyền thừa kế theo di chúc, còn các bị đơn bác bỏ quyền thừa kế theo di chúc của ông Đ. Mặc dù vẫn là một trong 4 loại quan hệ pháp luật tranh chấp về thừa kế nhưng quan hệ pháp luật cụ thể cần được xác định là “Tranh chấp xác nhận quyền thừa kế theo di chúc” không phải “Tranh chấp chia thừa kế”, nên kháng nghị của VKSND huyện Hải Hậu về nội dung này là có căn cứ chấp nhận.
– Việc cụ Đ1 , cụ T1 nhận ông Vũ Xuân Đ, ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H1, bà Vũ Thị H2 làm con nuôi từ khi còn nhỏ, sau đó chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, khi nhận nuôi do cả 4 người đều là cháu họ nên không làm thủ tục nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Xét việc cụ Đ1, cụ T1 nhận con nuôi có gia đình, họ hàng, làng xóm đều biết, đến nay cả ông Đ, ông A, bà H1, bà H2 đều thừa nhận không có tranh chấp. Như vậy, việc cấp sơ thẩm xác định ông Đ, ông A, bà H1, bà H2 là con nuôi thực tế của cụ Đ1 và cụ T1 là đúng.
– Xét kháng cáo của các bị đơn: Khi lập biên bản họp gia đình ngày 13-02-2005, mặc dù cụ Đ1 và cụ T1 vẫn khỏe mạnh, minh mẫn, thể hiện ý chí là sẽ bán ngôi nhà cấp bốn để sử dụng cho việc chi tiêu sinh hoạt, trả nợ làm nhà của 2 cụ. Còn ngôi nhà mái bằng một tầng sẽ để làm nơi thờ cúng họp mặt con cháu. Tuy nhiên việc cấp sơ thẩm coi biên bản họp gia đình là di chúc hợp pháp của cụ Đ1, cụ T1 là không đúng.
Tòa án phúc thẩm quyết định:
– Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H1, bà Vũ Thị H2, sửa Bản án sơ thẩm.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện xác nhận quyền thừa kế theo di chúc của vợ chồng ông Vũ Xuân Đ; |
2. Giao cho ông Vũ Xuân Đ, ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H1, bà Vũ Thị H2 được quyền sở hữu chung một nhà mái bằng một tầng diện tích 44,59 m2
cùng các tài sản trên đất và được quyền sử dụng chung diện tích đất 111m2 tại tờ Bản đồ số 31, số thửa 99 tại Tổ dân phố số 9, thị trấn T, huyện H, tỉnh N.
Ông Vũ Xuân Đ có nghĩa vụ giao lại quyền sở hữu chung (Tài sản trên) cho ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H1, bà Vũ Thị H2; |
Ông Vũ Xuân Đ, ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị H1, bà Vũ Thị H2 có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của Bản án và nếu có thực hiện việc đền bù đối với diện tích 18m2 đất đã thu hồi để làm đường thì ông Đ, ông A, bà H1, bà H2 có quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền trong việc giải phóng mặt bằng để được giải quyết quyền lợi.
|
71 – 81
|
07
|
Bản án số: 38/2018/DS-ST ngày 02/10/2018 về việc “Tranh chấp chia thừa kế tài sản” của Tòa án nhân dân huyện T2, tỉnh Kiên Giang. |
|
82 – 107
|
08
|
Bản án số: 108/2020/DS-PT ngày 16/06/2020 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản và yêu cầu hủy quyết định cá biệt” của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. |
|
108 – 117
|
09
|
Bản án số: 63/2020/DS-ST ngày 24/9/2020 về việc “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp |
|
118 – 125
|
10
|
Bản án số: 13/2020/DS-ST ngày 28/9/2020 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” của Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh T. |
|
126 – 135
|
11
|
Bản án số: 35/2020/DS-PT ngày 28/9/2020 về việc “Chia thừa kế nhà, đất”của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
|
136 – 145
|
12
|
Bản án số: 12/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” của Toà án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng. |
|
146 – 153
|