FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 11 bản án tội môi giới hối lộ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 11 bản án tội môi giới hối lộ
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số: 149/2017/HS-ST ngày 11/08/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Do có nhu cầu xây dựng nhà không hợp pháp trên mảnh đất có diện tích khoảng 100m2 nên anh Hoàng Văn B, anh Phạm Văn T, chị Đặng Thị H nhờ Trương Văn H tìm người lo lót để khi xây nhà không bị tháo dỡ thì H đồng ý. Qua sự giới thiệu của anh Phạm Xuân D, H gặp Mai Trọng Đ nhờ tìm người lo lót xây dựng nhà thì Đ đồng ý. Đ gặp Lê Văn K (là cán bộ của Trung đoàn E261) nhờ K giúp đỡ liên hệ để việc xây dựng nhà được thực hiện mà không bị tháo dỡ. Đ và H thỏa thuận thống nhất với anh T, anh B, chị H số tiền lo lót là 35.000.000đ. Khoảng 19h30 ngày 05/09/2016, Đ cùng chị H, anh T và anh B đến nhà H. Tại đây, Đ viết giấy nhận tiền để xây dựng nhà và cam kết công trình không bị đập phá, tháo dỡ. Sau khi ký giấy xong anh T, chị H, anh B giao tổng số tiền 35.000.000đ cho Đ và H. Sau khi nhận tiền, Đ chia cho H 1.500.000đ, cho anh D 1.500.000đ, đưa cho K 15.000.000đ. Số tiền còn lại Đ sử dụng hết. Ngày 10/09/2016, H tiến hành xây dựng nhà cho anh T, anh B tại vị trí đất nêu trên thì bị Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V lập biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai, cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị. Đến cuối tháng 10/2016, anh B tiếp tục đưa cho Đ số tiền 5.000.000đ để đề nghị Đ tiếp tục lo lót cho Đội trật tự đô thị phường T, thành phố V để anh B tiếp tục xây dựng nhà. Đ đồng ý và đưa cho K 3.000.000đ, còn 2.000.000đ Đ sử dụng hết. Sau đó, H tiếp tục xây nhà cho anh B và hoàn thiện xong. Đến ngày 31/10/2016, Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V tiến hành cưỡng chế tháo dỡ công trình nêu trên. Bản cáo trạng số 134/CT-VKS ngày 18/07/2017, Viện kiểm sát đã truy tố Mai Trọng Đ, Trương Văn H về tội “Môi giới hối lộ” theo khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự năm 2015. Nhận định của Tòa án: Căn cứ lời khai của bị cáo Đ và nội dung Biên bản đối chất ngày 20/02/2017 chưa đủ chứng cứ để chứng minh Lê Văn K là người nhận hối lộ, nhưng các bị cáo nhận thức rõ hành vi đã thực hiện là hành vi làm môi giới trung gian theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Trên thực tế thì người đưa hối lộ đã đạt được yêu cầu vì Uỷ ban nhân dân đã cưỡng chế phá dỡ công trình đối với công trình xây dựng do Hoàng Văn B, Phạm Văn T, Đặng Thị H là chủ đầu tư chứ không phải Trung đoàn E 261. Vì vậy, hành vi các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới hối lộ ” theo quy định tại khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự năm 2015. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đ hai lần thực hiện hành vi phạm tội, tiền hối lộ trong mỗi lần đều trị giá trên 2.000.000đ. Nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần. Bị cáo H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện giao nộp số tiền do phạm tội mà có. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố : Các bị cáo Mai Trọng Đ, Trương Văn H phạm tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt Mai Trọng Đ 01năm tù. Xử phạt Trương Văn H 06 tháng tù. |
01 – 06 |
|
Bản án số: 222/2017/HS-PT ngày 06/09/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Đỗ Hữu Q và Nguyễn Thành C đều là thanh niên trong độ tuổi khám nghĩa vụ quân sự năm 2017. Do không muốn con mình nhập ngũ nên bị cáo Đỗ Văn K (là cha ruột của Đỗ Hữu Q) và bị cáo Hoàng Thị Thu H (là mẹ ruột của Nguyễn Thành C) đã đến gặp bị cáo Nguyễn Văn L nhờ giúp đỡ và được bị cáo L nhận lời. Bị cáo L liên hệ với bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ (Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự xã G), đặt vấn đề về việc giúp đỡ C và Q cách thức trốn nghĩa vụ quân sự. Bị cáo Đ đồng ý và thỏa thuận mỗi trường hợp là 3.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo Đỗ Văn K và bị cáo Hoàng Thị Thu H đã trực tiếp đến nhà bị cáo L, mỗi người đưa cho bị cáo L số tiền 3.000.000 đồng nhằm mục đích thông qua bị cáo L nhờ bị cáo Đ tìm cách giúp C và Q khám sức khỏe không đạt yêu cầu để trốn thực hiện nghĩa vụ quân sự. Sau đó bị cáo Đ gọi điện thoại cho Nguyễn Thanh L (nhân viên của Trung tâm y tế huyện T) nhờ giúp đỡ cho C và Q tìm cách trốn nghĩa vụ quân sự thông qua việc khám sức khỏe. Thanh L đồng ý giúp bị cáo Đ bằng cách hướng dẫn hai thanh niên trên cách khai báo khi khám sức khỏe để không đạt tiêu chuẩn tham gia nghĩa vụ quân sự. Vào ngày 02/12/2016, ngày khám tuyển sức khỏe nghĩa vụ quân sự, Nguyễn Thanh L gọi điện thoại cho Q và C yêu cầu không đi khám nghĩa vụ quân sự và hẹn sẽ bố trí khám lại sau. Sau đó, Thanh L tiếp tục gọi điện thoại nói đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự vào ngày 08/12/2016. Đến ngày 08/12/2016, Thanh L hướng dẫn, tư vấn cách thức khám và cách khai báo nhằm không đạt tiêu chuẩn về sức khỏe tham gia nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, do nghi ngờ có gian dối, Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã G đã kiểm tra và phát hiện, các thanh niên này đã trúng tuyển nghĩa vụ quân sự và đã nhập ngũ. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2017/HSST ngày 20/6/2017 và Thông báo đính chính bản án số: 01/TB-TA ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ phạm tội “Nhận hối lộ”; bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Làm môi giới hối lộ”; các bị cáo Hoàng Thị Thu H và Đỗ Văn K phạm tội “Đưa hối lộ”. Xử phạt bị cáo Đ 02 năm 06 tháng tù. Xử phạt bị cáo L 10 tháng tù. Xử phạt bị cáo H 20.000.000 đồng và bị cáo K 20.000.000 đồng. Ngày 04/7/2017, bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu làm rõ sự thật vì bị cáo không nhận số tiền 6.000.000 đồng. Ngày 03/7/2017, bị cáo Nguyễn Văn L kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu xem xét lại bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Viện kiểm sát đã đánh giá, phát biểu quan điểm về vụ án như sau: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ và Nguyễn Văn L là chưa đúng với hành vi của các bị cáo. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử cấp sơ thẩm cũng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung. Nhận định của Tòa án: Bị cáo Đ không phải là thành viên Hội đồng nghĩa vụ quân sự cấp xã. Cấp sơ thẩm chưa thu thập các chứng cứ quan trọng liên quan đến Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã G là điều tra chưa đầy đủ. Bởi vì, chủ thể của tội “Nhận hối lộ” phải là người có chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Xét thấy: Có căn cứ để cho rằng hành vi của bị cáo Nguyễn Vũ Hữu Đ phạm vào một tội khác; cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đ về tội “Nhận hối lộ” là không đúng; đồng thời, các bị cáo khác trong vụ án cũng cần phải được điều tra lại để xác định đúng hành vi của từng bị cáo trong vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2017/HSST ngày 20/6/2017 và Thông báo đính chính bản án số: 01/TB-TA ngày 12/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện T. |
07 – 14 |
|
Bản án số: 16/2018/HS-ST ngày 19/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Đối với bị cáo Phan Văn G: Vào khoảng tháng 12/2015, thông qua Phan Văn G, bà Nguyễn Thị X gặp Hoàng Thị H. Bà X đưa cho H số tiền 20.000.000 đồng nhờ H lo các thủ tục giấy tờ để bà X sửa chữa, xây dựng không phép căn nhà tôn đang ở thành nhà cấp 4. H nhận tiền của bà X rồi đưa cho người thanh niên tên N (làm nghề xây dựng) làm theo yêu cầu của bà X. Nhưng khi bà X sửa chữa, xây dựng nhà thì bị chính quyền địa phương cưỡng chế tháo dỡ nên H đã trả lại tiền cho bà X. Sau đó bà X tiếp tục hỏi Phan Văn G nhờ giúp đỡ để xây dựng nhà không phép và không bị cưỡng chế thì G đồng ý, G nhận số tiền 10.000.000đ của bà X để đi liên hệ. G gặp Lê Văn D ( cán bộ trật tự đô thị Phường M, thành phố VT) đưa cho D 10.000.000đ nhờ D giúp đỡ việc xây dựng không phép. Sau khi đưa tiền cho D, G tiếp tục xây dựng, sữa chữa nhà cho bà X nhưng vẫn bị đội đô thị Phường M, thành phố VT lập biên bản tháo dỡ, yêu cầu dừng thi công. Tuy nhiên, G tiếp tục thi công và hoàn thiện nhà cho bà X ở cho đến nay. Đối với bị cáo Hoàng Thị H: Khoảng cuối tháng 04-2016, anh Hoàng Văn S gặp Hoàng Thị H nhờ việc anh Lê Văn H muốn xây dựng nhà kho chứa đồ tại khu đất, mặc dù biết rõ khu đất này không được phép xây dựng nhưng H vẫn đồng ý đứng ra nhận lo lót cho cán bộ địa phương để công trình xây dựng không bị cưỡng chế, tháo dỡ. Sau đó, H3 gặp Nguyễn Quang V (cán bộ thanh tra phòng Tài nguyên môi trường) đưa cho V số tiền 30.000.000đ để xây dựng không phép nhà kho. Khi anh S, T đang xây nhà kho tại hẻm 165B đường L, Phường H, thành phố VT thì cán bộ đô thị Phường H, thành phố VT lập biên bản tháo dỡ, yêu cầu dừng thi công. Ngày 19/07/2016, anh Hoàng Văn S đã làm đơn tố cáo hành vi của Hoàng Thị H đến Cơ quan điều tra. Bản cáo trạng số 297/CT-VKS ngày 15-12-2016, Viện kiểm sát đã truy tố Hoàng Thị H và Phan Văn G về tội “ Môi giới hối lộ ” theo điểm a khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự năm 2015. Nhận định của Tòa án: Các bị cáo đều nhận thức rõ hành vi các bị cáo thực hiện là hành vi làm môi giới trung gian theo yêu cầu của những người đưa hối lộ. Trong đó bị cáo G môi giới hối lộ mà của hối lộ là 10.000.000 đ, bị cáo H môi giới hối lộ mà của hối lộ là 30.000.000đ. Vì vậy, hành vi các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới hối lộ ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Cha bị cáo H được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Thị H và Phan Văn G phạm tội “Môi giới hối lộ ”. Xử phạt Hoàng Thị H 01 năm 06 tháng tù. Xử phạt Phan Văn G 09 tháng tù, thời hạn tù. Biện pháp tư pháp: Buộc Phan Văn G phải nộp số tiền 10.000.000đ sung quỹ nhà nước; Buộc Hoàng Thị H phải nộp số tiền 30.000.000 đ sung quỹ nhà nước. |
15 – 20 |
|
Bản án số: 91/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Khoảng tháng 11/2016, Trần Văn H là cháu gọi Nguyễn Bá H bằng đượng có nhờ H quen biết ai giúp H xây dựng trái phép căn nhà tạm tại số đường L để sửa xe. H nhận lời và tìm gặp Hoàng Thị H nhờ H lo lót cho các cán bộ địa phương để nhà của H không bị cưỡng chế, tháo dỡ. Sau đó, H nhận 3.000.000 đồng từ anh Văn H thông qua ông H nhưng Thi H không đi lo lót cho ai mà sử dụng tiền cho mục đích cá nhân. Vài ngày sau, Văn H dựng nhà tạm mái lợp tôn, khung gỗ, vách tôn tại địa chỉ trên, cán bộ đô thị có xuồng nhắc nhở nhưng không tháo dỡ. Tháng 12/2016 và tháng 04/2017, Vũ Văn B và Lê Thanh S ở cạnh địa chỉ 116 đường L, có đến nhà ông H nhờ để xây dựng nhà trái phép tại địa chỉ trên. Nguyễn Bá H nhận lời và gọi điện thoại cho H để tiếp tục nhờ H lo lót cho cán bộ đô thị phường M nhằm xây dựng nhà trái phép không bị tháo dỡ thì H nói với Bá H số tiền lo dựng nhà của B là 7.000.000 đồng và của S là 4.000.000 đồng. Sau đó H nhận tiền và đưa lại cho Bá H 900.000 đồng. Số tiền còn lại Thị H sử dụng cho mục đích cá nhân, không lo lót hay đưa cho ai. Cùng với hành vi tương tự, 02/2017 Nguyễn Bá H nhận 6.000.000 đồng của anh Trần Quốc D rồi đưa lại cho Hoàng Thị H, H sử dụng 5.500.000 đồng cho cá nhân, cho Bá H 500.000 đồng. Tháng 4/2017 Nguyễn Bá H nhận của anh Trần Thanh H số tiền 15.000.000 đồng rồi đưa cho H. Như vậy, bằng thủ đoạn gian dối Hoàng Thị H chiếm đoạt của 05 người nêu trên tổng số tiên 35.000.000 đồng thông qua Nguyễn Bá H và cho Nguyễn Bá H 1.400.000 đồng. Bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/02/2018 Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Nguyễn Bà H về tội “Môi giới hối lô” theo điểm c khoản 2 Điều 365 Bộ luật hình sự 2015; Hoàng Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999. Nhận định của Tòa án: Do có nhu câu xây dựng nhà trái phép trên đất nông nghiệp mà không bị ngăn cản và tháo dỡ nên khoảng từ tháng 11/2016 đến tháng 4/2017, Trần Văn H, Vũ Văn B, Lê Thanh S, Trần Quốc Dvà Trần Thanh H đã nhờ Nguyễn Bá H làm môi giới để hồi lộ các cán bộ chính quyền. Nguyễn Bá H đã nhận số tiền 35.000.000 đồng để nhờ Hoàng Thị H lo lót, hồi lộ cho cán bộ có chức năng để việc xây dựng nhà trái phép không bị cưỡng chẽ, tháo dỡ. Mặc dù không có khả năng lo việc xây dựng nhà trái phép nhưng do cân tiên tiêu xài nên Hoàng Thị H đã 05 lần dùng thủ đoạn gian dối bằng cách nói với Bá H biết sẽ và đã lo xong, Bá H nhận tiền của người có nhu cầu xây nhà và đưa cho Thị H, Thị H đã chiếm đoạt 05 lần với lồng số tiền 35.000.000 đồng của 05 người để tiêu xài cá nhân. Sau 05 lần làm môi giới hồi lộ, Nguyễn Bá H đã được Thị H cho 1.400.000 đồng. Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Nguyễn Bá H và Hoàng Thị H về các tội danh như bản cáo trạng là có căn cứ, đúng ngưới, đúng tội, đúng pháp luật. Tóa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Bá H phạm tội “Môi giới hối lộ” và Hoàng Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá H 02 năm tù. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị H 42 tháng tù. |
21 – 29 |
|
Bản án số: 123/2018/HS-PT ngày 10/09/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2016 đến tháng 4/2017, Nguyễn Bá H đã 05 lần nhận tiền của 05 người là Trần Văn M, Vũ Văn N, Lê Thanh O, Trần Quốc P và Trần Thanh Q, tổng số tiền là 35.000.000 đồng rồi đưa lại cho Hoàng Thị Y với mục đích nhờ Y lo lót, hối lộ cho cán bộ có chức năng, quyền hạn của phường N, thành phố V để việc xây dựng nhà trái phép của những người này không bị cưỡng chế, tháo dỡ. Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2018/HSST ngày 13/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố V đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bá H phạm tội Môi giới hối lộ”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bá H 02 năm tù. Xử phạt Hoàng Thị Y 24 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 21/6/2018, Nguyễn Bá H có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm xin được hưởng án treo. Ngày 06/7/2018, Nguyễn Bá H có Tờ tường trình bổ sung đơn kháng cáo”, trình bày nguyên nhân phạm tội, tỏ thái độ hối hận về hành vi phạm tội, xin được hưởng án treo và cam kết không bao giờ tái phạm. Nhận định của Tòa án: Án sơ thẩm đã đánh giá hành vi 05 lần môi giới hối lộ mà bị cáo Nguyễn Bá H đã thực hiện, mỗi lần đều đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, nên đã áp dụng điểm e khoản 2 Điều 365 Bộ luật hình sự năm 2015 Phạm tội 02 lần trở lên” để xử phạt bị cáo là có căn cứ. Xét bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ theo Khoản 1 Điều 51 và các tình tiết giảm nhẹ khác đã được phân tích ở trên theo Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ Khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, tức là áp dụng các hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 365 BLHS để xử phạt đối với bị cáo. Xét bị cáo có nhiều bệnh mạn tính như cao huyết áp, tiểu đường, thiếu máu não, tim mạch…; quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa án đã phải hoãn phiên tòa một lần vì bị cáo phải nằm viện điều trị; phiên tòa ngày 06/9/2018 phải tạm ngừng tuyên án vì bị cáo sức khỏe yếu. Xét bị cáo có khả năng tự cải tạo mà không cần tiếp tục phải giam giữ, do đó, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt Cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là hình phạt được qua định tại Khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Tuyên bố: Nguyễn Bá H phạm tội Môi giới hối lộ”. Xử phạt Nguyễn Bá H 02 năm Cải tạo không giam giữ. |
30 – 35 |
|
Bản án số: 350/2019/HS-PT ngày 17/06/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Năm 2015, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đang tiến hành điều tra đối với Nguyễn Minh H, Tổng Giám đốc Công ty VN P và một số đối tượng khác về hành vi “Buôn lậu”. Dương Kim S là Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội, đại diện cho bị can Nguyễn Minh H. Do có liên quan đến vụ án, nên Ngô Anh Q là Phó Tổng Giám đốc Phụ trách tài chính Công ty VN P đã gặp và nhờ S thông qua các mối quan hệ xã hội “lo giúp” cho Q, Lê Thị Vũ P là Kế toán trưởng và Bùi Ngọc D là Trưởng phòng Nghiên cứu phát triển Công ty VN P không bị khởi tố và sẽ trả tiền theo yêu cầu của Dương Kim S. S biết Lê Phú T là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TB có mối quan hệ quen biết với một số cán bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nên đã nhờ T tìm cách “lo giúp” theo yêu cầu của Q. T nhận lời và gặp chị Ngô Thị Thanh H nhờ giúp, chị H trả lời không giúp được vì chỉ là Kiểm tra viên và chị H giới thiệu cho T gặp anh Nguyễn Trung T1 là Kiểm sát viên trung cấp (Vụ 1) Viện kiểm sát nhân dân tối cao. T đã gặp anh T1, anh T1 trả lời việc này vượt quá khả năng nên không giúp được, tuy nhiên T1 có trao đổi với T một số thông tin liên quan đến vụ án. Sau đó, T nói với S là cán bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nhận lời nhưng với điều kiện phải chi 500.000 USD. S thông báo lại cho Q, sau đó Q chuyển tiền theo yêu cầu của S. Tổng số tiền Q chuyển cho S để “chạy án” là 10.820.000.000 đồng, số tiền này Ngô Anh Q lấy từ khoản tiền chênh lệch nâng giá thuốc, để ngoài sổ sách kế toán của Công ty VN P. Sau khi nhận được tiền từ Q, S khai nhận đã chuyển tiền cho Lê Phú T 05 lần, với tổng số tiền là 8.132.650.000 đồng nhưng T khai chỉ thừa nhận từ S 7.205.650.000 đồng. Tại Bản án hình sự số 471/2018/HSST ngày 24/11/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên bố bị cáo Ngô Anh Q phạm tội “Đưa hối lộ”; bị cáo Dương Kim S và Lê Phú T phạm tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt bị cáo Ngô Anh Q 05 năm tù. Xử phạt bị cáo Dương Kim S 03 năm tù. Xử phạt bị cáo Lê Phú T 02 năm tù. Ngày 29/11/2018, bị cáo Ngô Anh Q kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm, xin được Miễn trách nhiệm hình sự và xem xét trả cho Công ty Cổ phần VN P số tiền 10.820.000.000 đồng. Ngày 07/12/2018, bị cáo Dương Kim S và Lê Phú T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Nhận định của Tòa án: Do biết có liên quan đến vụ án buôn lậu thuốc xảy ra tại Công ty VN P, nhằm mục đích tránh bị khởi tố nên Ngô Anh Q, khi đó là Phó Tổng Giám đốc Công ty VN P đã nhờ Dương Kim S, khi đó đang là luật sư bào chữa cho bị can Nguyễn Minh H trong vụ án “Buôn lậu thuốc”, tìm cách để đưa hối lộ cho người có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ án để giúp cho Ngô Anh Q và một số nhân viên của Công ty Cổ phần VN P tránh bị khởi tố. Dương Kim S nhận lời và nhờ Lê Phú T, khi đó là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần đầu tư TB tìm cách “lo giúp” việc mà Ngô Anh Q đặt vấn đề. T nhận lời và đã liên hệ với một số cán bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao để “chạy án”. Quá trình thực hiện việc này, T đã yêu cầu S phải chuyển tiền để đi lo lót. Theo đó, từ ngày 22/4/2015 đến ngày 18/5/2015, Q đã 03 lần chuyển cho S với tổng số tiền 10.820.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền từ Q, S đã chuyển cho T 05 lần, với tổng số tiền 7.205.650.000 đồng. Cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo Ngô Anh Q về tội “Đưa hối lộ” theo khoản 4 Điều 364 của Bộ luật hình sự; các bị cáo Dương Kim S và Lê Phú T về tội “Môi giới hối lộ” theo khoản 4 Điều 365 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Đối với bị cáo Ngô Anh Q: Tại phiên tòa phúc thẩm, Ngô Anh Q là người chủ động trong việc tìm người để đưa hối lộ, “chạy án”, chủ động gặp và liên hệ với Dương Kim S; bị cáo không chủ động khai báo trước khi bị phát giác; số tiền mà bị cáo đưa hối lộ lại rất lớn (trên 10 tỷ đồng); vì vậy kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ. Không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đối với bị cáo Dương Kim S: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Dương Kim S cung cấp thêm tài liệu, ngày 20/5/2019, bị cáo Dương Kim S có công phát hiện và báo cho Công an đối tượng đang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, từ đó giúp Công an quận HM có kế hoạch và phá án. Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận cùng với các tình tiết giảm nhẹ khác để giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Đối với Lê Phú T: cùng với các tình tiết giảm nhẹ như đã nhận định nêu trên, xác định, cả Lê Phú T và Dương Kim S đều không hưởng lợi gì, xuất phát từ việc nể nang Ngô Anh Q mà thực hiện hành vi phạm tội, từ đó cũng giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Anh Q; chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Dương Kim S và Lê Phú T. Tuyên bố bị cáo Ngô Anh Q phạm tội “Đưa hối lộ”; bị cáo Dương Kim S và Lê Phú T phạm tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt bị cáo Ngô Anh Q 05 năm tù. Xử phạt bị cáo Dương Kim S 17 tháng 17 ngày tù. Xử phạt bị cáo Lê Phú T 14 tháng 30 ngày tù. |
36 – 43 |
|
Bản án số: 509/2019/HS-PT ngày 10/09/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Vào ngày 18/07/2016, các đối tượng Sỹ Vĩnh S và Sin Hỷ Ph bị Cơ quan CSĐT – Công an quận B khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”. Vụ án do các cơ quan tiến hành tố tụng quận B thụ lý điều tra, truy tố, xét xử. Do muốn lo tại ngoại cho S và Ph, thông qua giới thiệu của một đối tượng tên H, bà Sín Cẩm C (vợ của S, chị gái của Ph) đã liên hệ gặp Vũ Ngọc Th để nhờ giúp đỡ. Sau đó, Th dẫn C và L đến gặp ông Th1 (Trưởng Cơ quan đại diện Báo Bảo vệ Pháp luật Khu vực Phía Nam thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Ngày 22/08/2016, Th đưa C và L lên gặp ông Th1 tại phòng làm việc, C đã đưa đơn kêu oan và 100 triệu đồng cho Th và ông Th1. Khoảng 01 tháng sau, S và Ph vẫn không được thả, C và L gọi điện thoại nhiều lần cho Th và ông Th1 nhưng không liên lạc được. Ngày 16/03/2017, S bị tòa tuyên 8 năm 6 tháng tù, Ph bị tòa tuyên 6 năm tù, lúc này C nhiều lần liên hệ ông Th1 để đòi tiền nhưng không gặp được. Sau đó, C kể cho bạn là Nguyễn Thanh T về việc bị Th, ông Th1 lừa số tiền như trên. T đã lên kế hoạch và đề nghị L gọi điện thoại cho Th nói là muốn tiếp tục lo chạy án cho anh chồng của L là Sín Nhọc D, cũng bị bắt trong cùng vụ án (T đóng giả là vợ của D). Lúc này Th mới tiếp chuyện và hẹn gặp L, T. Đến ngày 25/03/2017, Th hẹn T và L để trao đổi bàn bạc về việc lo chạy giảm án. Th báo giá giảm án cho 03 người, mỗi người giảm 03 năm, tổng cộng là 600 triệu đồng và nói do Th và ông Th1 đã nhận của L và C số tiền 100 triệu đồng trước đó nên còn 500 triệu đồng, đưa trước số tiền 300 triệu đồng, còn 200 triệu đồng sau khi xong việc sẽ thanh toán hết. T giả đồng ý, T và L yêu cầu Th viết giấy đã nhận tiền 100 triệu đồng của L. Sau khi Th viết xong, T đã gọi cho C rồi đưa Th đến Công an Phường 4, quận T để trình báo sự việc. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HSST ngày 28/03/2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc Th phạm tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt: Vũ Ngọc Th 03 năm tù. Ngày 01/4/2019, bị cáo Vũ Ngọc Th có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Nhận định của Tòa án: Thông qua giới thiệu của người tên H, bà Sín Cẩm C và bà Nguyễn Thị Tuyết L đã liên hệ với Vũ Ngọc Th để nhờ tìm người giúp đỡ can thiệp cho các đối tượng Sỹ Vĩnh S và Sín Hỷ Ph đang bị khởi tố về hành vi cố ý gây thương tích được tại ngoại và giảm án. Th nói có quen với ông Nguyễn Quốc Th1 và sẽ liên hệ với ông Th1 để giúp bà Tú, bà L. Sau đó, ngày 22/8/2016, Th đã dẫn bà C, bà L lên phòng làm việc của ông Th1, tại đây bà C, bà L đã đưa đơn kêu oan và số tiền 100.000.000 đồng cho Th và ông Th1. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Vũ Ngọc Th phạm tội “Môi giới hối lộ” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Hơn nữa, trong vụ án bị cáo cũng không thu lợi gì, bản thân bị cáo tuổi đã cao, sức khỏe không tốt, đã bị giam giữ hơn 02 năm. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên có căn cứ để giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Ngọc Th. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2019/HS-ST ngày 28/03/2019. Tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc Th phạm tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt: Vũ Ngọc Th 02 năm 05 tháng 06 ngày tù. |
44 – 48 |
|
Bản án số: 432/2020/HS-PT ngày 05/08/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Ngày 14/9/2011, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 1 nhận được đơn tố cáo của Trần Ngọc Đ tố cáo Trần Phi L có hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn giả là người có quen biết với người có chức vụ quyền hạn để lo chạy xin được giấy phép kinh doanh karaoke nhưng sau đó chỉ làm giấy giả để giao. Khoảng tháng 3/2011, Lê Văn T5 có nhu cầu xin Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép kinh doanh karaoke nhưng biết chủ trương của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngưng cấp mới giấy phép kinh doanh karaoke trên địa bàn Thành phố, nhưng Lê Văn T5 vẫn tìm cách. Khi gặp Đặng Tiến Đ3, nghe nói chạy được giấy phép kinh doanh Karaoke nên T5 đã nhờ Đ3 làm chí phí là 32.000 USD (trong đó 450.000.000 đồng là tiền làm giấy phép Karaoke). Sau đó, Đ3 liên hệ với Trần Phi L, L giới thiệu là thạc sỹ luật, biết thủ tục xin cấp giấy phép karaoke và có thể làm được giấy tờ thật, giá thỏa thuận là 350.000.000 đồng. Sau đó L liên hệ với Trần Văn T1, T1 nhận lời với L là làm được giấy phép karaoke cho T5 với giá 300.000.000 đồng. Trần Văn T1 lại giao cho Hoàng Thu N3 làm, nhưng là làm giấy phép kinh doanh karaoke giả, với giá 12.000.000 đồng/bộ. Kết luận giám định số 837/KLGĐ-TT ngày 19/10/2011 của Phòng Kỹ thuật hình sự kết luận: giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cấp cho nhà hàng Karaoke và giấy phép kinh doanh Karaoke cấp cho ông Lê Văn T5 là giả. Khoảng tháng 3/2011, Nguyễn Quang B có nhu cầu xin Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép kinh doanh karaoke nhà hàng N8 do Nguyễn Quang B đứng tên, nhưng chủ trương của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngưng cấp mới giấy phép kinh doanh karaoke trên địa bàn Thành phố, nhưng Nguyễn Quang B vẫn tìm cách. B gặp bạn là Trần Ngọc Đ, giao toàn bộ việc này cho Trần Ngọc Đ làm, bao gồm cả giấy chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy chữa cháy, cùng số tiền đưa cả trước và sau cho Trần Ngọc Đ là 500.000.000 đồng. Sau khi nhận sự ủy nhiệm từ B, thông qua sự giới thiệu Trần Ngọc Đ liên hệ với Trần Phi L, L nói quen biết nhiều và xin được giấy phép karaoke theo yêu cầu của B, giá thỏa thuận là 500.000.000 đồng. Sau đó L liên hệ với Trần Văn T1, T1 nhận lời với L là làm được giấy phép karaoke cho B với giá 300.000.000 đồng. T1 lại giao cho Hoàng Thu N3 làm, nhưng là làm giấy phép kinh doanh karaoke giả, với giá 12.000.000 đồng/bộ. Ngày 12/9/2011, Nguyễn Quang B mang giấy phép đến Sở văn hóa Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh để kiểm tra thì được biết là giấy phép giả. Kết luận giám định số 837/KLGĐ-TT ngày 19/10/2011 của Phòng Kỹ thuật hình sự kết luận: giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh nghiệp cấp cho nhà hàng Karaoke N8 và giấy phép kinh doanh Karaoke cấp cho ông Nguyễn Quang B là giả. Khoảng tháng 3/2011, Chu Minh T15 có nhu cầu xin Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép kinh doanh karaoke cho quán M16 do Chu Minh T15 đứng tên, nhưng chủ trương của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngưng cấp mới giấy phép kinh doanh karaoke trên địa bàn Thành phố, nhưng Chu Minh T15 vẫn tìm cách. T15 gặp được Trần Minh H9, H9 liên hệ với Thái Quang N7, cả hai cùng nhận làm việc này cho T15 với giá thỏa thuận là 700.000.000 đồng. Sau khi nhận sự ủy nhiệm từ T15, thông qua sự giới thiệu của Huỳnh Văn T12 – (là nhân viên của công ty do Trần Phi L là giám đốc), L nói với T12 là mình làm ở Bộ Công an quen biết nhiều và xin được giấy phép Karaoke theo yêu cầu của T15, giá thỏa thuận là 350.000.000 đồng. Sau đó, T12 báo lại cho H9 và N7 biết; H9 và N7 tự bỏ tiền túi của mình mỗi người 10.000.000 đồng để đưa cho T12 tổng cộng là 20.000.000 đồng, T12 đưa lại cho L 17.000.000 đồng. Sau đó L liên hệ với Trần Văn T1, T1 nhận lời với L là làm được giấy phép karaoke cho T15 với giá 300.000.000 đồng. Trần Văn T1 lại giao cho Hoàng Thu N3 làm, nhưng là làm giấy phép kinh doanh karaoke giả, với giá 12.000.000 đồng/bộ. Kết luận giám định số 837/KLGĐ-TT ngày 19/10/2011 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an kết luận: giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh cấp cho Doanh nghiệp tư nhân M16 và giấy phép kinh doanh Karaoke cấp cho ông Chu Minh T15 là giả. Khoảng tháng 7/2011, Nguyễn Thị H10 (là Việt kiều Canada) có nhu cầu xin cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy phép kinh doanh Karaoke cho nhà hàng V8. Thông qua người quen là Trần Ngọc Đ, H10 được biết Trần Phi L có mối quan hệ rộng, có khả năng làm được giấy phép kinh doanh Karaoke. Tuy nhiên, do H10 không có ở Việt Nam nên giao cho Trần Ngọc Đ đứng ra làm thay việc này. H10 có gặp Trần Phi L, giá hai bên trực tiếp thỏa thuận là 800.000.000 đồng. Thông qua Trần Văn T1 giới thiệu, L gặp được Nguyễn Văn V4 và Lê Thanh H, V4 và H đều nói là sẽ làm được giấy phép Karaoke nhà hàng V8 cho L với giá 750.000.000 đồng bao gồm cả giấy phép phòng cháy chữa cháy. L đưa bộ hồ sơ này cho V4 để đưa cho Lê Thanh H làm. Tại bản án hình sự sơ thẩm 172/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Phi L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Môi giới hối lộ” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản’ và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc Đ, Nguyễn Quang B, Lê Văn T5, Thái Quang N7, Nguyễn Thị Mỹ T9 và Nguyễn Đình D5 phạm tội “Đưa hối lộ”. Tuyên bố bị cáo Lê Thanh H phạm tội “Môi giới hối lộ” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuyên bố các bị cáo Đặng Tiến Đ3, Huỳnh Văn T12, Nguyễn Văn V4 phạm tội “Môi giới hối lộ”. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thu N3 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Xử phạt bị cáo Trần Phi L 03 tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 10 năm tù về tội “Môi giới hối lộ” và 02 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là 15 năm tù. Xử phạt bị cáo Trần Văn T1 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 12 năm tù. Xử phạt bị cáo Lê Thanh H 03 năm tù về tội “Môi giới hối lộ” và 01 năm tù về tội “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 04 năm tù. Xử phạt bị cáo Hoàng Thu N3 01 năm 06 tháng tù. Xử phạt bị cáo Lê Văn T5 03 năm tù. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Đ 05 năm tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang B 04 năm tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V4 02 năm tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T9 01 năm tù. Xử phạt bị cáo Đặng Tiến Đ3 04 năm tù. Xử phạt bị cáo Thái Quang N7 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình D5 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T12 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm. Các bị cáo Trần Phi L, Nguyễn Quang B, Nguyễn Thị Mỹ T9, Trần Ngọc Đ, Nguyễn Đình D5, Lê Văn T5, Nguyễn Văn V4, Thái Quang N7 kháng cáo đề nghị xem xét lại tội danh và hình phạt. Các bị cáo Trần Văn T1, Lê Thanh H, Hoàng Thu N3 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Đặng Tiến Đ3 kháng cáo đề nghị xem xét lại tội danh. Nhận định của Tòa án: Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2011 đến tháng 7/2011, mặc dù biết các yêu cầu: được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp các giấy phép kinh doanh karaoke tại địa bàn quận T thời điểm năm 2011; cấp bằng lái xe ô tô mà không T17 qua việc học và thi sát hạch; được dự thi lớp sau đại học chuyên khoa 1 bệnh viện C5 khi đã hết hạn nộp hồ sơ đăng ký dự thi không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép, nhưng các bị cáo Lê Văn T5, Nguyễn Quang B, Trần Ngọc Đ, Thái Quang N7, Nguyễn Đình D5 và Nguyễn Thị Mỹ T9 đã thực hiện hành vi đưa tiền cho Trần Phi L để L dùng số tiền ấy tác động đến người có thẩm quyền để những người này thực hiện các yêu cầu trên. Thực tế, bị cáo Trần Phi L không phải là người có khả năng kết nối với người có thẩm quyền như bị cáo tự giới thiệu. Bị cáo đã có hành vi giới thiệu sai về bản thân nhằm mục đích làm cho người đưa hối lộ tin tưởng mà giao tiền cho bị cáo. Bị cáo chỉ kết nối với người lừa đảo để kết quả là làm ra các giấy tờ giả. Trường hợp của Nguyễn Thị Mỹ T9, khi nhận tiền từ Thu, L cũng nói rằng mình quen biết nhiều cán bộ cấp cao nên sẽ nộp được bộ hồ sơ đăng ký dự thi lớp đào tạo nâng cao Chuyên khoa 1 Bệnh viện C5, nhưng không thực hiện được như đã hứa hẹn. Trần Phi L đã nhận tổng số tiền là 1.286.000.000 đồng từ các bị cáo Trần Ngọc Đ, Đặng Tiến Đ3, Huỳnh Văn T12, Nguyễn Thị Mỹ T9 và Nguyễn Đình D5. Kết quả 04 giấy phép kinh doanh Karaoke của Lê Văn T5, Trần Ngọc Đ, Nguyễn Quang B, Thái Quang N7 và 02 giấy phép lái xe ô tô cho Nguyễn Đình D5 đều là giấy tờ giả; Trong danh sách trúng tuyển lớp sau đại học chuyên khoa 1 bệnh viện C5 không có tên Nguyễn Thị Mỹ T9. Sau khi nhận tiền, L đã giao cho Trần Văn T1, Lê Thanh H lần lượt là 407.000.000 đồng và 295.000.000 đồng. Số tiền bị cáo chiếm đoạt là 584.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo L theo 02 tội: Tội ‘Môi giới hối lộ” theo khoản 3 Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với chuỗi hành vi làm 04 giấy phép kinh doanh Karaoke cho Lê Văn T5, Trần Ngọc Đ, Nguyễn Quang B, Thái Quang N7. Đối với 04 giấy phép kinh doanh Karaoke cho Lê Văn T5, Trần Ngọc Đ, Nguyễn Quang B, Thái Quang N7: Cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo L tội “Môi giới hối lộ” là chưa phản ánh đúng bản chất hành vi phạm tội của bị cáo. Vì thực tế bị cáo không có khả năng kết nối được với những người có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh Karaoke, mà bị cáo đưa tiền cho T1, H để 02 bị cáo trên thuê người làm giả. Kiến nghị của Tòa án cấp sơ thẩm đề nghị xem xét lại tội danh của bị cáo L đối với hành vi này là có căn cứ. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng không nhận 450.000.000 đồng từ bị cáo T5, nên hành vi phạm tội của bị cáo chỉ thuộc khoản 3 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là không có căn cứ, vì bị cáo Đặng Tiến Đ3 thừa nhận có nhận 450.000.000 đồng từ Lê Văn T5 mục đích để đưa cho L chạy giấy phép kinh doanh Karaoke cho T5, còn lại Đặng Tiến Đ3 được hưởng chênh lệch một phần. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo L, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 1. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với nội dung liên quan đến bị cáo Lê Văn T5. 2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Lê Thanh H, Nguyễn Đình D5, Thái Quang N7. Phần tội danh và hình phạt của các bị cáo Lê Thanh H, Nguyễn Đình D5, Thái Quang N7 theo Bản án hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật. 3. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Hoàng Thu N3, Trần Ngọc Đ, Nguyễn Quang B, Đặng Tiến Đ3, Nguyễn Thị Mỹ T9; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Trần Phi L, Trần Văn T1, Nguyễn Văn V4; sửa một phần bản án sơ thẩm. Tuyên bố bị cáo Trần Phi L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Môi giới hối lộ” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T1 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản’ và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc Đ, Nguyễn Quang B, Nguyễn Thị Mỹ T9 phạm tội “Đưa hối lộ”. Tuyên bố các bị cáo Đặng Tiến Đ3, Nguyễn Văn V4 phạm tội “Môi giới hối lộ”. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thu N3 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Xử phạt bị cáo Trần Phi L 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; 10 năm tù về tội “Môi giới hối lộ” và 02 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả ba tội là 15năm tù. Xử phạt bị cáo Trần Văn T1 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 12 năm tù. Xử phạt bị cáo Hoàng Thu N3 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Đ 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang B 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V4 02 năm tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ T9 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm. Xử phạt bị cáo Đặng Tiến Đ3 03 năm tù. |
49 – 73 |
|
Bản án số: 798/2020/HS-PT ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Ngày 19/6/2017, Nguyễn Thị Mỹ L1 bị khởi tố và bắt tạm giam 03 tháng về tội “Môi giới mại dâm”. Nguyễn Thị Mỹ V (là chị ruột của L1) đã đến gặp Lý Thị Hương L, L nhận lời giúp V chạy án cho L1 được tại ngoại và hưởng án treo với giá 450.000.000 đồng. Sau đó, L được Vũ Văn H (anh rể L) giới thiệu gặp Nguyễn Thị T để nhờ T giúp, Ngày 11/10/2017, L đến nhà T, tại đây, L đã giao cho T số tiền là 250.000.000 đồng để T gặp và đưa tiền cho Điều tra viên nhằm mục đích giúp Nguvễn Thị Mỹ L1 được tại ngoại và hưởng án treo khi xét xử. Ngày 27/10/2017, Viện kiểm sát ra Cáo trạng truy tố Nguyễn Thị Mỹ L1 về tội “Môi giới mại dâm”, tuyên phạt L1 03 năm tù giam. Do L1 không được xử án treo nên V gặp T để đòi lại tiền, nhưng T cho rằng số tiền T đã chuyển cho Điều tra viên Trương Khánh D, nên không đồng ý trả lại. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2020/HSST ngày 12/06/2020, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Xử phạt: Bị cáo Lý Thị Hương L 03 năm 06 tháng tù về tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 03 năm tù về tội “ Môi giới hối lộ”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V 02 năm tù về tội “Đưa hối lộ”. Ngày 16/6/2020, bị cáo Lý Thị Hương L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 19/6/2020, bị cáo Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 22/6/2020, bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Nhận định của Tòa án: Nguyễn Thị Mỹ V đã thỏa thuận và đưa cho Lý Thị Hương L số tiền 450.000.000 đồng để L đưa cho người có thẩm quyền tại cơ quan tiến hành tố tụng giúp cho Nguyễn Thị Mỹ L1 (em gái của Nguyễn Thị V) được tại ngoại trong quá trình điều tra vụ án “Môi giới mại dâm”. L nhận số tiền trên từ V; sau đó L thỏa thuận và đưa lại cho Nguyễn Thị T 250.000.000 đồng để T lo việc xin cho L1 tại ngoại. Cấp sơ thẩm xét xử hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V phạm tội “Đưa hối lộ”; bị cáo Lý Thị Hương L, Nguyễn Thị T phạm tội “Môi giới hối lộ” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lý Thị Hương L, Nguyễn Thị Mỹ V không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Đối với bị cáo Nguyễn Thị T, quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo T đã nộp số tiền 250.200.000 đồng để thi hành quyết định bản án sơ thẩm; thể hiện bị cáo đã ăn năn, hối cải. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lý Thị Hương L, Nguyễn Thị Mỹ V. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2020/HS-ST về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị T. Tuyên bố bị cáo Lý Thị Hương L, Nguyễn Thị T phạm tội “Môi giới hối lộ” bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V phạm tội “Đưa hối lộ”. Xử phạt: Bị cáo Lý Thị Hương L 03 năm 06 tháng tù. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 02 năm 06 tháng tù. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Mỹ V 02 năm tù. |
74 – 79 |
|
Bản án số: 10/2021/HS-PT ngày 14/06/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về Tội môi giới hối lộ
Nội dung bản án: Ngày 10/05/2018, Công ty Lâm nghiệp Ia H’Drai được Cơ quan Cảnh sát điều tra giao bảo quản vật chứng gồm: 01 xe máy cày, 02 rơ mooc và toàn bộ số gỗ tang vật; là vật chứng trong vụ án. Vì địa hình hiểm trở, thời tiết không thuận lợi, sợ bị mất mát, hư hỏng nên Công ty đã xin ý kiến cấp có thẩm quyền và có chủ trương di chuyển xe máy cày và rơ mooc là tang vật về Tổ liên ngành để quản lý, bảo quản được thuận lợi. Trương Xuân P được Công ty chỉ đạo tìm người về sửa xe máy cày rồi phối hợp với cơ quan chức năng để di chuyển tang vật về nơi cần bảo quản. Ngày 14/6/2018, P đã liên lạc và nhờ Lê Văn sửa xe máy cày và kéo tang vật về. Sau đó, N điện thoại cho Hồ Quang S và biết anh Trần Hữu N2 sửa được xe. Đến ngày 14/6/2018, N2 điện cho Trần Hữu Quốc để cùng N2 đi xem xe. N2 biết được xe máy cày tang vật hiện tại có giá trị hơn. Thông qua N, P đã đi gặp N, biết N2 muốn đổi máy cày tang vật. Sau đó, P thống nhất sẽ về bàn bạc với anh em rồi báo lại sau, N2 đã nhét vào túi quần P một phong bì có số tiền là 2.000.000 đồng. Sau khi về, P đã điện thoại cho N và sau khi xong việc thì đưa thêm 20.000.000 đồng để P bồi dưỡng cho mấy anh em trong tổ công tác, N nói lại cho N2 thì được N2 đồng ý. Xe tang vật được N2 bảo với Q và H chạy ra khỏi hiện trường. Khi đi đến chốt liên Ngành thì bị chặn lại. Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HS-ST ngày 06/4/2021 đã quyết định xử phạt bị cáo Lê Văn N. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn N phạm tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt bị cáo Lê Văn N 18 tháng tù. Xử phạt các bị cáo Trương Xuân P 7 năm tù và Trần Hữu N2 2 năm tù về các tội nhận hối lộ và đưa hối lộ. Ngày 15/4/2021 bị cáo N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Nhận định của Tòa án: Ngày 14/6/2018, sau khi được Trương Xuân P liên lạc nhờ đi vào sửa xe máy cày tang vật để kéo về, qua nhiều lần liên hệ Lê Văn N biết được Trần Hữu N2 có khả năng sửa xe máy cày. Tuy N không phải là người có chức vụ, quyền hạn trong việc bảo quản xe tang vật nhưng bị cáo N2 đã gợi ý về việc trao đổi xe N đã dứng ra làm trung gian, môi giới để P và N2 gặp, trao đổi với nhau và thỏa thuận về việc đưa và nhận hối lộ để thực hiện việc đổi xe. Bản án hình sự sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội môi giới hối lộ là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn N. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn N, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HS-ST. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn N 18 tháng tù tội “Môi giới hối lộ”. |
80 – 83 |
|
Bản án số: 288/2023/HS-PT ngày 16/05/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về Tội môi giới hối lộ.
Nội dung bản án: Trần Nhật M1 cùng đồng bọn thực hiện nhiều vụ phạm tội, trong đó có vụ lấy trộm xe mô tô vào ngày 17/8/2019. Sau khi biết M1 bị bắt, Trần Thị Ánh N là mẹ của M1 và Hồ Thị Thu T3 (là bạn gái của M1) thông qua một người tên Dương liên hệ với Nguyễn Thị Tuyết H để nhờ giúp. H quen biết Điều tra viên tên H3 thuộc Công an huyện H1, có thể giúp M1 được tại ngoại điều tra, hưởng án treo và dẫn N, T3 cùng đến trụ sở Công an huyện H1. H nói H3 báo chi phí “lo” cho M1 được tại ngoại là 100.000.000 đồng; nếu muốn M1 được tuyên mức án thấp thì phải đợi hồ sơ kết thúc, bản án 18 tháng tù giá 80.000.000 đồng, án treo giá 100.000.000 đồng. Ngoài ra, H lấy riêng “tiền cà phê” là 10.000.000 đồng. N đồng ý. Tuy nhiên, sau vài ngày M1 vẫn chưa được thả. Lúc này, H yêu cầu bà N phải đưa đủ 20.000.000 đồng còn lại, nhưng N không đồng ý và nói không “lo” cho M1 nữa, yêu cầu H trả lại tiền. H đồng ý và hẹn vài ngày sau sẽ trả tiền. N cho rằng H đã lừa đảo chiếm đoạt tiền của mình nên ngày 28/10/2019 và ngày 04/11/2019 N làm đơn tố cáo H. Bản án hình sự sơ thẩm số 557/2022/HS-ST đã xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tuyết H 02 năm tù về tội “Môi giới hối lộ”. Xử phạt bị cáo Trần Thị Ánh N 02 năm tù về tội “Đưa hối lộ”. Ngày 19/12/2022, bị cáo Trần Thị Ánh N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo. Nhận định của Tòa án: Vào ngày 30/9/2019, Trần Nhật M1 là con của bị cáo Trần Thị Ánh N bị Công an phát hiện cùng đồng phạm thực hiện nhiều vụ phạm tội. Thông qua giới thiệu, bị cáo N đã liên hệ với Nguyễn Thị Tuyết H để nhờ giúp lo cho M1 được tại ngoại. Khi bị cáo H nói là có quen biết và sẽ nhờ Điều tra viên tên H3 thuộc Công an huyện H1 lo giúp M1 được tại ngoại điều tra, hưởng án treo với giá là 100.000.000 đồng, bị cáo H lấy thêm 10.000.000 đồng tiền cà phê, thì bị cáo N đã đồng ý. Vào các ngày 03/10/2019, 04/10/2019 và 05/10/2019, bị cáo N đã đưa cho bị cáo H tổng số tiền là 90.000.000 đồng. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: cần phải điều tra làm rõ vai trò của Dương, việc thỏa thuận của H và N “lo” cái gì, cho ai. H đặt vấn đề như thế nào và N đặt vấn đề như thế nào để làm rõ thỏa thuận của H và N. H lo về thủ tục pháp lý hay là đưa cho người có chức vụ quyền hạn. Từ đó làm rõ ý thức của N. Theo H thì H đưa tiền cho H3. H3 có thẩm quyền giải quyết vụ việc của M1 không? H3 có nhờ Công an huyện Củ Chi để giải quyết việc của M1 không? Công an huyện Củ Chi là nơi giữ M1. H và H3 có nhờ Công an huyện Củ Chi không? Nếu có, cụ thể là ai? Những vấn đề này, trong quá trình điều tra và Tòa án cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ. Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Thị Ánh N. Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 557/2022/HS-ST ngày 06/12/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh điều tra xử lý theo thủ tục chung. |
84 – 92 |
LINK PDF: Tổng hợp 11 bản án tội môi giới hối lộ
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn