FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 10 phán quyết trọng tài về tranh chấp hợp đồng liên quan đến bất động sản” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
STT |
NỘI DUNG PHÁN QUYẾT |
SỐ TRANG TÀI LIỆU |
|
Phán quyết trọng tài số 03/2021/PQ-TT ngày 17/5/2021 của Trung tâm TT(TR) trong vụ trọng tài giữa Công ty M và Công ty Cổ phần vật tư và thép H.
Phán quyết của trọng tài: Ngày 17 tháng 5 năm 2021, Trung tâm TT (TR) đã ban hành phán quyết trọng tài số 03/2021/PQ-TT với quyết định: 1.Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu chấm dứt Hợp đồng thuê văn phòng số 001/2018-HDTVP-NH/MA ký ngày 16/12/2017 và Hợp đồng thuê mặt bằng số 001/2020-HDTMB-NH/MA ký ngày 20/01/2020. 2.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, buộc Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán tiền thuê mặt bằng cho Nguyên đơn với tổng cộng số tiền 576.464.143 đồng (Năm trăm bảy mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi bốn ngàn một trăm bốn mươi ba đồng). 3.Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn là không phải hoàn trả lại số tiền cọc 700.000.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng) của Hợp dồng thuê văn phòng số 001/2018-HDTVP-NH/MA ký ngày 16/12/2017 và không phải hoàn trả số tiền cọc 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) của Hợp đồng thuê mặt bằng số 001/2020-HDTMB-NH/MA ký ngày 20/01/2020. Không phải hoàn trả lại tổng cộng số tiền cọc của 02 (hai) hợp đồng là 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng). 4.Phí trọng tài và phí hành chính là 127.045.000 đồng (Một trăm hai mươi bảy triệu không trăm bốn mươi lăm nghìn đồng). Nguyên đơn chịu phí trọng tài 96.527.947 đồng (Chín mươi sáu triệu năm trăm hai mươi bảy nghìn chín trăm bốn mươi bảy đồng). Bị đơn chịu phí trọng tài 30.517.053 đồng (Ba mươi triệu năm trăm mười bảy ngàn không trăm năm mươi ba đồng). Nguyên đơn đã nộp đủ phí trọng tài, nên Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn số tiền phí trọng tài là 30.517.053 đồng (Ba mươi triệu năm trăm mười bảy nghìn không trăm năm mươi ba đồng). 5.Như vậy, Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn toàn bộ các khoản tiền nêu tại mục 2 và mục 4, phần IV trên đây với số tiền là 606.981.196 đồng (Sáu trăm lẻ sáu triệu chín trăm tám mươi mốt nghìn một trăm chín mươi sáu đồng) ngay khi phán quyết trọng tài có hiệu lực. 6.Trường hợp Bị đơn chậm thanh toán, Bị đơn phải tiếp tục thanh toán tiền lãi do chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, với mức lãi suất 10%/năm, tương ứng với số tiền chậm trả và thời gian chậm trả. Thông tin phán quyết tại Quyết định số 261/2022/QĐ-PQTT ngày 07/3/2022 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. |
16-20 |
|
Phán quyết Trọng tài số 123/20 HCM ngày 13/05/2021 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam – chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty TNHH Tân Bình, Công ty Cổ phần Việt Nam, ông Đỗ Việt T và ông Dương Quan Đ.
Nội dung vụ viêc: Công ty TNHH Tân Bình là nguyên đơn và bị đơn là ông Dương Quan Đ ký Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số 09/HĐMB/2016 ngày 25/01/2016 về việc mua bán căn hộ có mã số 12-01-A1, trị giá là 833.590.800 đồng, ông Đ đã thanh toán 813.590.800 đồng. Ngày 28/01/2016 ông Dương Quan Đ ký hợp đồng thi công hoàn thiện căn hộ số 09A/HĐMB/2016 ngày 25/01/2016 với Công ty Cổ phần Việt Nam, trị giá 396.637.356 đồng, ông Đ đã thanh toán xong khoản tiền này. Ngày 04/06/2017 Công ty TNHH Tân Bình, Công ty Cổ phần Việt Nam và ông Dương Quan Đ ký Phụ lục hợp đồng, là một phần của Hợp đồng mua bán căn hộ. Công ty Cổ phần Việt Nam đã thi công hoàn thiện căn hộ, nhưng ông Đ chưa được nhận bàn giao căn hộ do Công ty TNHH Tân Bình chưa bàn giao căn hộ. Nguyên đơn đã nộp đơn khởi kiện tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) yêu cầu Hội đồng trọng tài tuyên bố vô hiệu Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư và Phụ lục hợp đồng, nguyên đơn sẽ hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã nhận của bị đơn. Phán quyết của trọng tài: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc tuyên bố Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số 09/HĐMB/2016ngày 25/01/2016 và Phụ lục hợp đồng ngày 04/06/2017 vô hiệu. Thông tin phán quyết tại Quyết định 272/2022/QĐ-PQTT ngày 14/03/2022 về việc yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. |
21-24 |
|
Phán quyết Trọng tài số 85/20 PQQTT ngày 29/01/2021 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty Cổ phần đầu tư Đ và Công ty TNHH MTV V.
Nội dung tranh chấp: Theo nguyên đơn trình bày thì ngày 02/7/2017 Công ty TNHH MTV V (gọi tắt là Công ty V) ký hợp đồng 193 và phụ lục hợp đồng để thuê lại của Công ty cổ phần Đầu tư Đ (gọi tắt là Công ty Đ) quyền sử dụng đất tại Lô số 17A, đường số 01, KCN Tân Đ, xã Đức H, huyện Đức H, tỉnh A có diện tích 12.810m2 để xây dựng nhà máy; thời hạn thuê kể từ ngày nhận bàn giao đất cho đến ngày 28/10/2055, đồng thời Công ty Đ có nghĩa vụ thực hiện thủ tục sang tên, tách sổ và bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với Lô 17A cho Công ty V. Sau khi ký hợp đồng, phía Công ty V đã thanh toán tiền thuê theo đúng hợp đồng và Công ty Đ đã xuất hóa đơn VAT cho Công ty V. Đến ngày 30/01/2019, Sở tài nguyên môi trường tỉnh Long An đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ850326 đứng tên Công ty V, nhưng Công ty Đ không bàn giao cho Công ty V, vì vậy Công ty V căn cứ hợp đồng 193 để khởi kiện ra VIAC với yêu cầu Công ty Đ phải bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Phán quyết của VIAC: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty V, buộc Công ty Đ bàn giao cho Công ty V bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ850326 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh A cấp ngày 30/01/2019, đối với quyền sử dụng đất tại Lô số 17A, đường số1, KCN Tân Đ, xã Đức H, huyện Đức H, tỉnh A. 2. Đình chỉ yêu cầu kiện lại của bị đơn do Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền đối với yêu cầu phát sinh từ Hợp đồng thuê nhà xưởng số 51/HĐTNX/KD-14 và Hợp đồng thuê nhà xưởng số 75/HĐTNX/KD-18 3. Bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền án phí trọng tài (Đối với đơn khởi kiện) là 637.775.000 VNĐ. Ngoài ra phán quyết còn tuyên về nghĩa vụ thi hành phán quyết trọng tài của các đương sự. Thông tin phán quyết tại Quyết định số 1050/2021/QĐST-KDTM Ngày: 20/10/2021 về việc huỷ phán quyết trọng tài. |
25-28 |
|
Phán quyết trọng tài số 50/19 HCM ngày 24/8/2019 của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài V trong vụ trọng tài giữa Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản T, Công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển công nghệ V, Ông Đỗ Việt T và bà Nguyễn Thị Mộng T.
Nội dung tranh chấp: Theo đơn khởi kiện ngày 11/03/2019, đơn khởi kiện bổ sung ngày 24/6/2019, thì bà Nguyễn Thị Mộng T căn cứ các hợp đổng và phụ lục hợp đồng đã ký kết để yêu cầu Công ty T, Công ty phát triển công nghệ V và ông Đỗ Việt T phải bồi thường thiệt hại và chịu phạt vi phạm hợp đồng do đã có vi phạm thỏa thuận trong các hợp đồng đã ký. Cụ thể yêu cầu Công ty T và Công ty phát triển công nghệ V liên đới thanh toán các khoản tiền tổng cộng là 428.307.257; Đồng thời yêu cầu ông Đỗ Việt T sẽ thực hiện ngay nghĩa vụ trên với tư cách là người bảo lãnh trong trường hợp hai công ty trên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán. Cả 2 công ty này đều do ông Đỗ Việt T là người đại diện theo pháp luật. Nội dung phán quyết trọng tài: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mộng T, buộc Công ty T và Công ty phát triển công nghệ V liên đới thanh toán các khoản tiền tổng cộng là 428.307.257 đồng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Phán quyết Trọng tài có hiệu lực. Nếu Công ty T và Công ty phát triển công nghệ V không thanh toán, hoặc thanh toán không đầy đủ thì ông Đỗ Việt T phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trả thay. Trường hợp chậm thanh toán, ông Đỗ Việt T còn phải trả thêm tiền lãi theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015 với mức lãi suất là 10%/năm, tương ứng với số tiền chậm trả và thời gian chậm trả. Ngoài ra phán quyết còn tuyên về nghĩa vụ chịu phí trọng tài của các đương sự. Thông tin phán quyết tại Quyết định về việc huỷ phán quyết trọng tài số 1715/2019/QĐ-PQTT ngày 22/11/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh |
29-33 |
|
Phán quyết trọng tài số 18/19 HCM ngày 19/7/2019 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản TB, Công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển công nghệ V, ông Đỗ VT và bà Phan Thị AĐ.
Nội dung vụ việc: Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản TB (gọi tắt là Công ty TB) và bà Phan Thị AĐ có ký Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số 64/HĐMB/2016 ngày 27/5/2016. Cùng ngày, Công ty Cổ phần Xây dựng và Phát triển công nghệ V (gọi tắt là Công ty Công nghệ V) ký với bà Đào Hợp đồng thi công hoàn thiện căn hộ số 64A/HĐ/2016. Đến ngày 04/6/2017 giữa 3 bên có ký Phụ lục hợp đồng với nội dung: Đến ngày 30/11/2017 bên A gồm Công ty Tân Bình, Công ty Công nghệ V sẽ bàn giao nhà cho bên B là bà Phan Thị AĐ. Nếu hết ngày 30/11/2017 mà bên A chưa giao nhà thì bên A phải bồi thường thiệt hại là 5.000.000 đồng/tháng tính từ ngày 29/10/2016 đến khi giao nhà, đồng thời phải chịu phạt hợp đồng là 9%/năm trên số tiền bên B đã thanh toán. Sau ngày 30/11/2017, ông Đỗ VT là người bảo lãnh nghĩa vụ của bên A. Bên A và bên B cũng thỏa thuận nếu phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết tại Tòa án hay trọng tài. Sau đó, do cơ quan thẩm quyền điều chỉnh thiết kế của chung cư nên chủ đầu tư không thể bàn giao căn hộ cho bà Đ như đã cam kết. Do đó, bà Phan Thị AĐ có đơn khởi kiện gửi đến Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (gọi tắt là VIAC). Phán quyết trọng tài: Buộc Công ty TB, Công ty Công nghệ V liên đới trả cho bà Phan Thi AĐ số tiền 413.585.768 đồng là tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại. Trường hợp Công ty TB, Công ty Công nghệ V không trả thì ông Đỗ VT với tư cách là người bảo lãnh có trách nhiệm trả thay số tiền nói trên. Thông tin phán quyết tại Quyết định số 1550/2019/QĐ-PQTT ngày 05/11/2019 về việc huỷ phán quyết trọng tài. |
34-38 |
|
Phán quyết trọng tài số 20/19 HCM ngày 26/6/2019 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty cổ phần đầu tư T và Công ty TNHH Một thành viên V.
Nội dung vụ việc: Ngày 10 tháng 12 năm 2007, nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư T (viết tắt là Công ty T) và bị đơn Công ty TNHH Một thành viên V (viết tắt là Công ty V) ký Hợp đồng cho thuê lại quyền sử dụng đất số 64/HĐCTL- QSDĐ/KD-07 và Phụ lục hợp đồng số 64/PLHĐCTL-QSDĐ/KD-07 ngày 10/12/2007 về việc thuê lại quyền sử dụng đất lô số 22-24, đường số 9 tại khu công nghiệp T, với diện tích sử dụng 19.795,62m2; thời hạn thuê từ ngày 10/12/2007 đến hết ngày 28/10/2055; giá tiền thuê đất trả trước trong cả thời gian thuê 20USD/m2, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng từ năm 2013 đến tháng 12/2018, Công ty V không thanh toán cho Công ty T phí duy tu cơ sở hạ tầng là 1.243.406.442 đồng và tiền lãi chậm thanh toán là 578.119.797 đồng, Công ty T yêu cầu Công ty V thanh toán 02 khoản tiền trên. Công ty V cho rằng đã thanh toán đầy đủ tiền thuê đất cho Công ty T trong thời gian thuê đất là 395.912,4 USD vào ngày 21/01/2009 và kể từ ngày ký hợp đồng Công ty V không sử dụng mặt bằng và cơ sở hạ tầng, việc Công ty T yêu cầu Công ty V thanh toán phí duy tu, cải tạo cơ sở hạ tầng với số tiền trên, Công ty V không đồng ý. Phán quyết trọng tài quyết định: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn- Công ty Cổ phần Đầu tư T, buộc bị đơn – Công ty TNHH Một thành viên V phải thanh toán cho nguyên đơn phí duy tu cơ sở hạ tầng là 1.243.406.442 (Một tỷ hai trăm bốn mươi ba triệu bốn trăm lẻ sáu nghìn bốn trăm bốn mươi hai) đồng. 2. Nguyên đơn đã nộp đủ phí trọng tài 26.347.000 (Hai mươi sáu triệu ba trăm bốn mươi bảy nghìn) đồng. Buộc bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn tiền phí trọng tài là 81.758.277 (Tám mươi mốt triệu bảy trăm năm mươi tám nghìn hai trăm bảy mươi bảy) đồng; nguyên đơn phải chịu phí trọng tài là 44.588.723 (Bốn mươi bốn triệu năm trăm tám mươi tám nghìn bảy trăm hai mươi ba) đồng. 3. Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn toàn bộ các khoản tiền nêu tại mục 1 và mục 2 của Phán quyết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập Phán quyết trọng tài này. Trong trường hợp chậm thanh toán, bị đơn phải trả thêm tiền lãi chậm trả với mức lãi suất là 10%/năm theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015. Thông tin phán quyết tại Quyết định số 849/QĐ-PQTT về việc huỷ phán quyết trọng tài. |
39-43 |
|
Phán quyết trọng tài số 19/18 ngày 23/02/2019 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam trong vụ trọng tài giữa SA&E và Tổng Công ty cổ phần X.
Nội dung tranh chấp: Ngày 04/5/2011 S A & E (Gọi là S – Nguyên đơn) có ký kết Hợp đồng thầu phụ số 0129A/VC-BXD (Gọi là Hợp đồng thầu phụ) với Tổng Công ty Cổ phần X (Gọi là V – Bị đơn) liên quan đến Dự án Khu đô thị mới B – Giai đoạn 2 cho dịch vụ tư vấn thiết kế kiến trúc và dịch vụ quản lý thiết kế (Chủ đầu tư của dự án là Công ty Liên doanh TNHH Phát triển Đô thị mới A). Phạm vi công việc của S theo Điều 2 của Hợp đồng thầu phụ và Phụ lục Hợp đồng thầu phụ bao gồm: Thiết kế kiến trúc và đánh giá kỹ thuật; Quản lý thiết kế. Tổng giá trị của Hợp đồng thầu phụ là 2.410.000USD (Chưa bao gồm thuế VAT) được thanh toán bằng VND theo tỷ giá hối đoái được Chủ đầu tư thanh toán cho V. Tiến độ thanh toán và điều kiện thanh toán căn cứ theo Điều 5.2 của Hợp đồng thầu phụ và Phần IV của Phụ lục Hợp đồng thầu phụ. Thủ tục thanh toán sẽ được thanh toán sau 10 ngày kể từ ngày khách hàng nhận được khoản thanh toán từ chủ đầu tư. Sau khi hoàn thành phần việc, S đã xuất các hóa đơn GTGT yêu cầu V thanh toán cho từng giai đoạn và đã nhận được các khoản thanh toán tạm ứng cho những phần việc đã làm. Vào các ngày 08/5/2017; 07/7/2017 và 29/8/2017 S gửi 3 thư yêu cầu V thanh toán khoản tiền còn lại của Hợp đồng thầu phụ và tham gia các cuộc họp giải quyết các vấn đề liên quan. Liên quan đến dịch vụ kiểm tra thiết kế và Quản lý thiết kế V cho rằng S vẫn chưa hoàn thành các mốc công việc theo đúng hợp đồng và chưa đáp ứng các điều kiện theo hợp đồng để được nhận thanh toán. Do có tranh chấp đối với Hợp đồng thầu phụ nên S đã khởi kiện V đến Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) yêu cầu giải quyết theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng. Nội dung phán quyết trọng tài: “115. Nguyên đơn (tức S) có quyền nhận thanh toán từ Bị đơn (tức Tổng Công ty Cổ phần X) với khoản tiền gốc là 951.663,00 USD (Bằng chữ: Chín trăm năm mươi mốt nghìn sáu trăm sáu mươi ba đô la Mỹ) theo phần IV của Phụ lục A của Hợp đồng thầu phụ và do đó Hội đồng Trọng tài yêu cầu Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn số tiền nói trên. 116. Về tiền lãi do chậm thanh toán, Hội đồng Trọng tài thấy rằng do áp dụng mức lãi suất không liên quan nên yêu cầu của Nguyên đơn không được chấp nhận. 117.Về chi phí trọng tài, tổng phí trọng tài mà VIAC nhận được từ Nguyên đơn là 37.963 USD (Bằng chữ: Ba mươi bảy nghìn chín trăm sáu mươi ba đô la Mỹ). Theo đó, Bị đơn phải chịu 21.260USD (Bằng chữ: Hai mươi mốt nghìn hai trăm sáu mươi đô la Mỹ). Nguyên đơn sẽ phải chịu 16.703 USD (Bằng chữ: Mười sáu nghìn bảy trăm linh ba đô la Mỹ). Vì Nguyên đơn đã tạm ứng toàn bộ phí trọng tài, nên Bị đơn sẽ hoàn trả Nguyên đơn số tiền là 21.260 USD (Bằng chữ: Hai mươi mốt nghìn hai trăm sáu mươi đô la Mỹ). 118. Về các chi phí đi lại, lưu trú và công tác phí Trọng tài viên, tổng chi phí là 71.307.000đ (Bằng chữ: Bảy mốt triệu ba trăm linh bảy nghìn đồng Việt Nam). Theo đó, mỗi bên sẽ chịu 35.653.500đ (Bằng chữ: Ba mươi lăm triệu sáu trăm năm mươi ba nghìn năm trăm đồng Việt Nam). 119. Về phí luật sư và các chi phí khác liên quan đến quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài yêu cầu Bị đơn trả cho Nguyên đơn 56% của phí luật sư 11.000 USD và chi phí phát sinh là 6.980.900đ, cụ thể 6.160 USD (Bằng chữ: Sáu nghìn một trăm sáu mươi đô la Mỹ) và 3.909.000đ (Bằng chữ: Ba triệu chín trăm linh chín nghìn đồng) tương ứng với phí luật sư và chi phí phát sinh. 120. Bị đơn, trong vòng 30 ngày kể từ ngày Phán quyết này có hiệu lực, phải trả cho Nguyên đơn số tiền được quy định trong mục 115, 117 và 119 đã đề cập ở trên. Trong trường hợp Bị đơn không thanh toán trong thời hạn đã nêu ở trên, Bị đơn sẽ trả cho Nguyên đơn số tiền lãi đối với số tiền quá hạn tương ứng cho thời gian chậm thanh toán với lãi suất 10% mỗi năm được quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015.” Thông tin phán quyết: Phán quyết này đã bị huỷ theo Quyết định về việc huỷ phán quyết trọng tài số 07/2019/QĐ-PQTT ngày 18/7/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội |
44-52 |
|
Phán quyết trọng tài số 85/16 HCM ngày 20/02/2019 của tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty K và Công ty TNHH MTV K (Nay là Công ty TNHH MTV A)
Nội dung vụ kiện: Công ty TNHH MTV K (Nay là Công ty TNHH MTV A – Gọi là A) là Chủ đầu tu Dự án K (Khách sạn, căn hộ dịch vụ, van phòng, trung tâm thuong mại, căn hộ) tại dịa diểm Khu đất số 6, khu dô thị C, quận C, Hà Nội. Công ty K (gọi là K) là nhà thầu xây dựng. Ngày 21/9/2007, Công ty K và Công ty A ký kết Thỏa thuận Hợp đồng ban đầu về việc: “Xây dựng K – khách sạn, căn hộ dịch vụ, văn phòng, trung tâm thương mại và căn hộ ”. Tổng giá của hợp dồng là 721 triệu USD (Chưa bao gồm thuế GTGT, K chịu trách nhiệm về khoản này); Thời hạn hợp dồng là 36 tháng kể từ ngày ký Hợp dồng ban dầu; Hợp dồng cung quy dịnh rõ nhà thầu K phải trả một khoản bồi thuờng thiệt hại dịnh truớc trong truờng hợp dự án không hoàn thành dúng tiến dộ là 0,03% giá hợp dồng trên mỗi ngày chậm tiến độ nhưng tổng cộng không quá 5% giá hợp dồng. Sau khi ký hợp đồng, các bên đã ký thêm 07 phụ lục sửa đổi hợp đồng mang số từ 1 đến 7. Vì có tranh chấp trong việc thanh toán nên ngày 25/10/2016 K đã khởi kiện yêu cầu A thanh toán các khoản tiền mà K cho rằng A phải trả cho K bao gồm các chi phí xây dựng theo các yêu cầu thanh toán tạm thời (IPC) từ số 33 dến số 38, tổng cộng là 67.578.364 USD và tiền phí chậm trả theo Ðiều 11.4 của Hợp đồng xây dựng trên số tiền gốc cho dến thời hạn thanh toán của mỗi hoá đơn. A không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của K mà còn có yêu cầu kiện lại, buộc K bồi thuờng thiệt hại 2 khoản chính gồm: + Chi phí xây dựng bổ sung với số tiền: 13.383.700 USD. + Bồi thuờng thiệt hại dịnh truớc theo Ðiều 13 của Hợp dồng xây dựng do việc chậm trễ hoàn thành dự án trong giai đoạn từ ngày 20/4/2011 dến ngày 27/7/2017 với số tiền là 16.140.616 USD. Phán quyết của trọng tài: “a. Nguyên đơn K có trách nhiệm thanh toán cho Bị đơn V số tiền: 6.060.000 USD b. Nguyên đơn K có trách nhiệm thanh toán và hoàn trả cho Bị đơn V phí trọng tài số tiền: 2.449.664.525 VNÐ c. Nguyên đơn K có trách nhiệm thanh toán và phải hoàn trả cho Bị đơn V phí và phí tổn luật sư của V liên quan dến vụ kiện trọng tài này, bao gồm các khoản tiền sau: (i) 370.300.841,53VND và (ii) 188.637,44USD và (iii) 495.669.550.108 KRW và (iv) 7.075,52 SGD d. Nguyên đơn K có trách nhiệm thanh toán và phải thanh toán cho Bị đơn V tiền lãi don trên các khoản tiền tại các doạn 476 (a), 476 (b) và 476 (c) trên dây, phát sinh ở mức 10% một nam (theo Ðiều 357 của Bộ luật dân sự Việt Nam ban hành năm 2015) từ ngày của Phán quyết chung thẩm này cho đến ngày thanh toán. e. Bị đơn V có trách nhiệm thanh toán và phải thanh toán cho Nguyên đơn K số tiền 4.996.141USD. f. Bị đơn V có trách nhiệm thanh toán và phải thanh toán cho Nguyên đơn K tiền lãi don trên khoản tiền tại doạn 476(e) trên dây, phát sinh ở mức 10% một năm (theo Ðiều 357 của Bộ luật dân sự Việt Nam ban hành nam 2015) từ ngày của Phán quyết chung thẩm này cho đến ngày thanh toán. Phán quyết chung thẩm này là cuối cùng và ràng buộc các bên.” Thông tin phán quyết: Phán quyết này đã bị huỷ theo Quyết định số 08/2019/QĐ-PQTT ngày 25/7/2019 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội |
54-62 |
|
Phán quyết trọng tài số 09/17 ngày 26/9/2017 của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty TNHH nhà hàng J và Công ty TNHH quốc tế G.
Nội dung tranh chấp: Ngày 21/10/2015, Công ty TNHH quốc tế G (viết tắt là Bên liên quan) ký Hợp đồng cho thuê khu bán lẻ với Công ty TNHH nhà hàng J (viết tắt là Bên yêu cầu). Theo đó, Bên liên quan cho thuê khu bán lẻ tại tầng 01 khu bán lẻ thuộc tòa nhà K Hanoi Landmark Tower, phường M T, quận N T L, TP. Hà Nội với diện tích 842,01m2 để Bên yêu cầu mở nhà hàng. Thời hạn thuê từ ngày 21/10/2015 đến ngày 20/10/2020 giá thuê từ ngày 21/10/2015 đến ngày 31/12/2015 là 331.191.000 VND/tháng. Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 20/10/2016 giá cho thuê hàng tháng sẽ được điều chỉnh tăng 5% so với mức giá áp dụng trong giai đoạn từ ngày 21/10/2015 đến ngày 31/12/2015. Từ ngày 21/10/2016 đến ngày 20/10/2020 đơn giá cho thuê hàng tháng sẽ được điều chỉnh tăng 5% so với mức giá áp dụng cho tháng trước tại ngày 21/10 hàng năm. Giá thuê trên có hiệu lực từ thời điểm ký Hợp đồng và chưa bao gồm các loại thuế theo quy định của pháp luật hiện hành. Theo hợp đồng, Bên yêu cầu phải đặt cọc cho Bên liên quan vào ngày ký hợp đồng một khoản tiền là 1.365.000.000 VND. Việc thanh toán tiền thuê sẽ được thực hiện 03 tháng một lần vào ngày đầu tiên của kỳ thanh toán. Trường hợp không thanh toán đúng hạn, Bên yêu cầu sẽ phải trả cho Bên liên quan tiền lãi cho tổng số tiền quá hạn với lãi suất bằng 0,003% một ngày kể từ ngày đến hạn cho tới ngày thanh toán đầy đủ. Nếu Bên yêu cầu không thanh toán đúng hạn khoản tiền thuê, Bên liên quan sẽ tự động trừ khoản tiền này trong số tiền đặt cọc. Trường hợp khoản tiền quá hạn vượt quá 70% của số tiền đặt cọc, Bên liên quan có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Sau khi giao kết hợp đồng ngày 21/10/2015, Bên liên quan đã tiến hành bàn giao khu vực thuê cho Bên yêu cầu và Bên yêu cầu đã mở nhà hàng, tiến hành kinh doanh theo thoả thuận. Tuy vậy, sau đó Bên yêu cầu đã không thực hiện nghĩa đặt cọc theo Điều 3 của hợp đồng mặc dù Bên liên quan đã nhiều lần có công văn yêu cầu. Ngày 16/05/2016, hai bên ký “Biên bản điều chỉnh 1” của hợp đồng ngày 21/10/2015 (sau đây gọi là Biên bản ngày 16/05/2016), theo đó giá thuê sẽ được thanh toán vào ngày 21 hàng tháng. Trường hợp Bên yêu cầu không thanh toán đúng hạn khoản tiền thuê, Bên liên quan sẽ tự động trừ khoản tiền đó trong số tiền đặt cọc. Trường hợp khoản tiền quá hạn vượt quá 70% của số tiền đặt cọc, Bên liên quan có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Việc chấm dứt hợp đồng sẽ có hiệu lực ngay sau khi Bên liên quan gửi thông báo bằng văn bản cho Bên yêu cầu. Sau khi ký Biên bản ngày 16/05/2016, Bên yêu cầu vẫn không thực hiện nghĩa vụ đặt cọc đồng thời tiếp tục vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận. Tính đến thời điểm nộp Đơn khởi kiện, Bên yêu cầu đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với tiền thuê của các tháng 11/2016, 12/2016 và 01/2017 mỗi tháng là 401.651.886 VND. Ngày 27/12/2016, Bên liên quan đã gửi thông báo bằng văn bản chấm dứt hợp đồng và yêu cầu Bên yêu cầu thanh toán tiền thuê. Tuy vậy, Bên yêu cầu không có bất cứ phản hồi nào sau khi nhận được thông báo nêu trên, đồng thời vẫn tiếp tục sử dụng khu vực thuê mà không bàn giao lại cho Bên liên quan. Theo “Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện” đề ngày 29/05/2017, Bên liên quan xác nhận Bên yêu cầu đã thanh toán cho Bên liên quan vào ngày 23/01/2017 tiền thuê tháng 11, 12/2016; vào ngày 07/03/2017 trả tiếp tiền thuê tháng 01/2017 nhưng Bên yêu cầu vẫn tiếp tục vi phạm nghĩa vụ bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê theo hợp đồng cho Bên liên quan. Tại phiên họp ngày 31/05/2017, Bên liên quan trình bày: Bên liên quan đã gửi Bên yêu cầu văn thư đề ngày 22/08/2016 tuyên bố chấm dứt hợp đồng vì Bên yêu cầu không đặt cọc nhưng nay xin rút lại văn thư này vì hợp đồng không quy định về chấm dứt hợp đồng nếu Bên yêu cầu không đặt cọc. Sau đó, theo hợp đồng quy định Bên liên quan đã gửi thông báo chấm dứt hợp đồng đề ngày 27/12/2016, có hiệu lực ngay tuy vậy, Bên liên quan có thể chấp nhận chấm dứt hợp đồng từ ngày 21/01/2017 (kỳ trả tiền tiếp theo). Bên yêu cầu xác nhận đã nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng đề ngày 27/12/2016 của Bên liên quan. Bên liên quan không chấp nhận đề nghị của Bên yêu cầu về việc hoãn thời gian thanh toán đến cuối tháng 06/2017 đối với khoản tiền sử dụng mặt bằng là 1.740.491.506 VND. Đối với khoản tiền lãi 2.771.396 VND, Bên yêu cầu hứa trả trong vòng vài ngày sau phiên họp nhưng Bên liên quan không có ý kiến gì về việc này. Bên liên quan cho rằng, Bên yêu cầu đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền lãi, tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt và nghĩa vụ bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê cho Bên liên quan. Bên liên quan đã thực hiện đúng mọi thỏa thuận giữa hai bên. Căn cứ vào hợp đồng và các quy định của pháp luật, Bên yêu cầu phải thanh toán tiền lãi, tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt và nghĩa vụ bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê cho Bên liên quan. Bên liên quan khởi kiện yêu cầu Bên yêu cầu thanh toán tổng số tiền là 1.206.088.315 VND bao gồm tiền thuê mặt bằng và tiền lãi phát sinh. Tại Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày 29/05/2017, Bên liên quan đề nghị Hội đồng trọng tài buộc Bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Bên liên quan khu vực cho thuê; buộc Bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt mà không bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê cho Bên liên quan với số tiền là 1.740.491.506 VND (thời gian từ ngày 21/01/2017 đến ngày 31/05/2017); buộc Bên yêu cầu thanh toán cho Bên liên quan khoản tiền lãi chậm thanh toán đối với khoản tiền thuê các tháng 11/2016, 12/2016 và 01/2017 là 2.771.396 VND, tính theo hợp đồng ngày 21/10/2015. Tổng cộng số tiền Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan tính đến ngày 31/05/2017 là 1.743.262.904 VND. Bên yêu cầu cho rằng, trong Bản tường thuật bào chữa đề ngày 20/04/2017 và tại phiên họp ngày 31/05/2017, Bên yêu cầu nêu một số lý do cho việc không thể trả ngay tiền thuê nhà, như tình hình kinh tế khó khăn, 11 nhà hàng H Q ở khu vực K mở theo nhà hàng của Bên yêu cầu khiến lượng khách bị giảm mạnh, hiện tại máy điều hòa theo hình thức máy lạnh trung tâm được lắp đạt có công suất còn thiếu và hay bị hỏng, thậm chí còn hay xảy ra trường hợp bị rò rỉ nước, nước rỏ xuống từ trần nhà. Đặc biệt năm 2015, nguyên nhân lớn nhất khiến nhà hàng giảm khách là do hệ thống máy lạnh không hoạt động được. Hơn nữa, tính năng của hệ thống thoát khí cũng không tốt nên trường hợp khi nướng thịt trực tiếp trên bàn như đặc trưng của nhà hàng H Q thì khói không thoát hết ra được nên khách hàng bày tỏ rất nhiều sự bất mãn. Theo Bên yêu cầu thì những vấn đề như vậy đương nhiên là Bên liên quan cũng có phần trách nhiệm, Bên yêu cầu đã liên tục đưa ra vấn đề này nhưng vẫn chưa được giải quyết. Để giải quyết vấn đề, Bên yêu cầu cũng đã tự mua 12 máy điều hòa để lắp đặt rồi và cũng đã yêu cầu với công ty quản lý trực tiếp tòa nhà nhưng Bên liên quan cũng không có những chỉ đạo tích cực và về căn bản tình hình vẫn chưa được giải quyết. Hiện tại Bên liên quan vẫn chưa phát hành hóa đơn đỏ từ tháng 01/2017 nên Bên yêu cầu không thể trả tiền thuê nhà. Bên liên quan đã trả lời tại phiên họp ngày 31/05/2017 là theo hợp đồng, sau khi nhận được tiền thuê nhà, Bên liên quan sẽ phát hành hóa đơn như nhiều lần trả tiền trước đây, Bên yêu cầu đều có hóa đơn đỏ sau khi trả tiền. Bên yêu cầu không có ý kiến gì về phản hồi này của Bên liên quan. Tại phiên họp ngày 31/05/2017, Bên yêu cầu xác nhận mọi số liệu về tiền thuê, tiền lãi và tiền sử dụng mặt bằng nêu trong Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày 29/05/2017 của Bên liên quan là đúng và đề nghị Bên liên quan cho hoãn thời gian thanh toán đến cuối tháng 06/2017 đối với khoản tiền sử dụng mặt bằng 1.740.491.506 VND. Đối với khoản tiền lãi 2.771.396 VND, Bên yêu cầu hứa trả trong vòng vài ngày sau phiên họp. Bên yêu cầu đề nghị Hội đồng trọng tài yêu cầu Bên liên quan phát hành hóa đơn đỏ từ tháng 01/2017 cho Bên yêu cầu để Bên yêu cầu nộp tiền thuê nhà và đề nghị Bên liên quan cho trả chậm vào cuối tháng 06/2017 toàn bộ số tiền mà Bên yêu cầu đã chấp nhận nêu trong Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày 29/05/2017 của Bên liên quan. Bên yêu cầu cũng đề nghị Hội đồng trọng tài không công nhận việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của Bên liên quan và mong muốn tiếp tục duy trì và thực hiện hợp đồng thuê kèm với cam kết sẽ tuân thủ đúng các nghĩa vụ thanh toán tiền thuê trong tương lai. Phán quyết trọng tài: – Buộc Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan số tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt là 1.740.491.506 VND; – Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan khoản tiền lãi chậm thanh toán là 2.771.396 VND; – Bên yêu cầu phải chịu toàn bộ phí trọng tài trong Vụ tranh chấp với số tiền là 118.504.000 VND. Do Bên liên quan đã nộp toàn bộ phí trọng tài trong Vụ tranh chấp, Bên yêu cầu phải hoàn trả cho Bên liên quan phí trọng tài là 118.504.000 VND; – Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan các khoản tiền nêu trên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập Phán quyết trọng tài. Trường hợp Bên yêu cầu chậm thanh toán các khoản tiền nêu trên thì Bên yêu cầu còn phải chịu tiền lãi phát sinh theo Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 với mức lãi suất bằng 10%/năm, trên tổng số tiền chậm trả. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập Phán quyết trọng tài, Bên yêu cầu phải hoàn trả cho Bên liên quan khu vực thuê nêu tại Điều 1.1 của Hợp đồng cho thuê khu bán lẻ ký ngày 21/10/2015. Thông tin phán quyết tại Quyết định số 09/2017/QĐ-PQTT ngày 28/9/2017 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội |
63-73 |
|
Phán quyết trọng tài tố 03/2017/PQTT-Tt.17 Ngày 17/8/2017 Của Trung tâm Trọng tài Thương mại Tài chính Ngân hàng Việt Nam (Vifibar) trong vụ trọng tài giữa ông Đồng Vũ Ph, bà Trần Thị Ch và Công ty TNHH TLKTP.
Ngày 24/11/2015 ông Ph, bà Ch có lập hợp đồng thế chấp số 66/HĐTC-SCB-CN 20-10.15 tại Phòng công chứng số 3 tỉnh Tiền Giang, có nội dung như sau: ông Ph, bà Ch dùng tài sản là quyền sử dụng đất gồm: + Thửa đất số 148, diện tích 4.529,2m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H06325 ngày 08/11/2007; + Thửa đất số 149, diện tích 256m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H06326 ngày 08/11/2007; + Thửa đất số 189, diện tích 1.000m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01268 ngày 09/12/2011; + Thửa đất số 191, diện tích 1.444,8m2 và nhà ở có diện tích 167,57m2 được cấp giấy chứng nhận số 0120 ngày 20/4/2006; Tổng trị giá tài sản là 21.635.000.000đ, thế chấp cho Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn để bảo lãnh cho CT TNHH TLKTP vay tiền của Ngân hàng, phạm vi bảo lãnh là 20.000.000.000đ. Tuy nhiên, theo thỏa thuận ban đầu giữa ông Ph, bà Ch với Công ty trách nhiệm hữu hạn Khang Thịnh Phát là chỉ thế chấp tài sản để vay số tiền 9.500.000.000đ. Ngày 13/01/2016, CT TNHH TLKTP lợi dụng hợp đồng thế chấp số 66/HĐTC-SCB-CN 20-10.15 tiếp tục ký hợp đồng tín dụng số 05.12/HĐTD-SCB-CN20/10.15 với Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn rút thêm số tiền vay là 10.000.000.000đ, trong đó có 6.726.000.000đ là không có sự bảo lãnh của ông Ph, bà Ch. Từ khi vay thêm tiền đến nay CT TNHH TLKTP không trả tiền vốn gốc và tiền lãi cho Ngân hàng. Phán quyết trọng tài: Buộc CT TNHH TLKTP phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn tổng cộng số tiền vốn vay và tiền lãi là 137.846.941.606đ, trong đó có khoản tiền 6.726.000.000đ vốn và tiền lãi phát sinh mà CT TNHH TLKTP vay thêm không thông báo cho ông Ph, bà Ch biết. Đồng thời, phát mãi các tài sản của ông Phương và bà Cho đã thế chấp để thu hồi khoản nợ trên. Thông tin phán quyết tại Bản án số 07/2019/DS-ST ngày 08/4/2019 của Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang |
75-81 |
|
Phán quyết trọng tài số 26/12 ngày 25/4/2013 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty Cổ phần địa ốc Hồng Phát và China Policy Limited.
Nội dung vụ việc: Năm 2005, Cty cổ phần địa ốc Hồng Phát (HP) được tỉnh Long An cấp phép đầu tư dự án khu dân cư cao cấp và trường đua ngựa. Dự án có quy mô 500ha, tại huyện Đức Hoà, với vốn đầu tư 140 triệu USD. Ngày 01/6/2007, Công ty Cổ phần địa ốc Hồng Phát (“Công ty Hồng Phát” có pháp nhân tại Việt Nam) và CPL (một công ty nước ngoài, đăng ký tại British Virgin Islands – BVI) cùng ký kết “Thỏa thuận khung”. Mục đích của “Thỏa thuận khung” là để tạo lập thỏa thuận giữa hai bên về các điều khoản cơ bản, các nguyên tắc và các thông số để lập một Công ty liên doanh nhằm thực hiện dự án Khu dân cư cao cấp, trường đua ngựa và câu lạc bộ đua ngựa tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (gọi tắt “Dự án”) trên khu đất gầng 500ha. Theo “Thoả thuận khung”, 2 bên sẽ ký kết hợp đồng thành lập “công ty liên doanh”, với vốn điều lệ 21,4 triệu USD (HP góp 30% bằng giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ); CPL góp 70% bằng tiền mặt). CPL tạm ứng 15,6 triệu USD (số tiền này được tính vào tiền góp vốn của CPL khi thành lập công ty liên doanh) để trả cho chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Trước khi lập Thỏa thuận khung, Công ty Hồng Phát đã lập thủ tục đầu tư và được UBND tỉnh Long An giao làm chủ đầu tư Dự án. Quá trình thực hiện Thỏa thuận khung, hai bên đã xảy mâu thuẫn gay gắt dẫn đến tranh chấp, thậm chí CPL còn tố cáo chủ đầu tư đến cơ quan pháp luật. Sau khi tố cáo vu khống bất thành, ngày 21/8/2012, CPL nộp đơn khởi kiện đến Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam – VIAC, yêu cầu Công ty Hồng Phát: – Hoàn thành và cùng CPL thực hiện “Hợp đồng liên doanh” và tất cả các tài liệu liên doanh khác cần thiết để nộp, xin thành lập Công ty liên doanh; – Thực hiện quá trình xin giấy phép cần thiết và có được chứng nhận đầu tư cho Công ty liên doanh được thành lập để thực hiện Dự án; và – Góp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với phần đất giai đoạn 1 (273ha) dưới tên của Hồng Phát vào Công ty liên doanh. Phán quyết của trọng tài: VIAC phán quyết: “Hai công ty tiếp tục thực hiện “thoả thuận khung” để thành lập “công ty liên doanh”. HP nhiều lần đề nghị CPL ngồi lại đàm phán, thoả thuận, cùng tiếp tục thực hiện dự án, thành lập công ty liên doanh; chia sẻ chi phí phát sinh, mà theo thống kê của HP là tăng thêm 34 triệu USD. Nhưng CPL vẫn không đáp ứng. Thông tin phán quyết tại Tạp chí điện tử Luật sư: Phán quyết Trọng tài liên quan đến Dự án ‘KDC cao cấp và trường đua ngựa’ tại Long An kéo dài hơn 8 năm: Thi hành án bị ‘tắc’ rồi làm sai… |
84-89 |
LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 10 phán quyết trọng tài về tranh chấp hợp đồng liên quan đến bất động sản
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn