FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 10 bản án về tuyên hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã công chứng, chứng thực” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT | NỘI DUNG TÓM TẮT | SỐ TRANG |
1 | Bản án số: 519/2023/DS-PT ngày 28/07/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
Về việc: “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, tranh chấp thừa kế, tranh chấp hợp đồng vay tàu sản và đòi công sức quản lý, giữ gìn, bảo quản tài sản” Nội dung vụ án: Nhà đất số 69 đường T, phường T, Quận 1, TP HCM là tài sản giữa bà Ninh và ông Phạm Văn D, có Bằng khoán điền thổ số 1654 do Chính quyền SG cũ cấp. Ông D và bà Ninh có 7 người con: Phạm Thế T, Phạm Thị Dương M, Phạm Thủ N, Phạm Thị Thế L, Phạm Trường S, Phạm Văn Đông H, Phạm Thị Khánh V. Ông D có một người con riêng là bà Phạm Thị Minh H. Năm 1982, ông D chết không để lại di chúc. Năm 1984, cả gia đình bà Ninh xuất cảnh sang Ốt-ta-oa C, có nhờ em trai ông D là ông Phạm Văn Ngộ trông coi. Năm 1995, bà Ninh hồi hương và có đơn tranh chấp đòi nhà với ông Ngộ. Vụ án đã được giải quyết bằng Bản án dân sự phúc thẩm công nhận Nhà đất số 69 thuộc QSH của bà Ninh và các đồng thừa kế của ông D. Sau đó, bà Ninh và các đồng thừa kế của ông D đã lập thủ tục đứng tên đại diện trên GCN. Khi bà Ninh ủy quyền cho con là bà Phạm Thị Khánh V đi nhận thì bà V đã tự ý giữ giấy tờ nhà. Bà Ninh phát hiện bà V cùng chồng là ông Ngô Vĩnh Hồ đã có hành vi giả chữ ký của bà Ninh và 04 đồng thừa kế khác để ký 02 hợp đồng ủy quyền có chứng nhận của Đại sứ quán Việt Nam tại Ốt-ta-oa C. Đồng thời, bà V, ông Hồ đã mang 02 hợp đồng ủy quyền giả chữ ký trên về Việt Nam đến VPCC Đ, TP H để lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và hợp đồng tặng cho với nội dung tặng cho bà V toàn bộ căn nhà nêu trên. Do đó, nguyên đơn bà Ninh khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên bố vô hiệu 02 hợp đồng ủy quyền số 60/05/2015 ngày 25/5/2015- CNCK và 61/5/2015- CNCK ngày 25/5/2015. Tuyên hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 00017408 quyển số 06/TP/VPCC-SCC/TK ngày 08/6/2015. Tuyên hủy Hợp đồng tặng cho số 00017409 ngày 08/6/2015 đối với căn nhà số 69 đường T. Buộc bà V phải trả nhà và giấy tờ nhà đất. Bị đơn bà V có đơn phản tố yêu cầu Tòa án chia thừa kế di sản của ông D để lại là Nhà đất số 69 đường T. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 1609/2022/DS-ST ngày 20/9/2022 của TAND TP HCM, quyết định: – Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị N và yêu cầu độc lập của ông Phạm Trường S về việc tuyên bố Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế bổ sung số công chứng 00023033, quyển số 08/TP/VPCC-SCC/TK là vô hiệu. – Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền chứng nhận số 60/05/2015-CNCK, số 61/05/2015-CNCK là vô hiệu. – Tuyên bố Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số công chứng 00017408, quyển số 06/TP/VPCC-SCC/TK ngày 08/06/20115 và Hợp đồng tặng số 00017409 tại VPCC Đ, TP H là vô hiệu. – Buộc bà Phạm Thị Khánh V, ông Ngô Vĩnh Hồ phải trả lại nhà đất này và các giấy tờ liên quan cho bà Phan Thị N và các đồng thừa kế của ông Phạm Văn D. – Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Phạm Thị Khánh V:. Xác định 1/2 nhà đất số 69 T là di sản của ông Phạm Văn D chết để lại. Xác định những người thừa kế được hưởng di sản của ông Phạm Văn D gồm: Bà Phan Thị N và các ông/bà: Phạm Thế T, Phạm Thị Dương M, Phạm Thủ N, Phạm Thị Thế L, Phạm Trường S, Phạm Văn Đông H, Phạm Thị Khánh V và Phạm Thị Minh H. Ngoài ra còn xác định phần công sức quản lý, tôn tạo của bà V….. Ngày 23/9/2022, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trương Thị Kim T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm. Ngày 26/9/2022, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Phạm Trường S có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm Nhận định của Tòa án phúc thẩm: – Đối với kháng cáo không xác định bà Phan Thị Ninh có Quốc tịch Việt Nam: Tại Hộ chiếu, CMND số 225277492, SHK có chủ hộ là bà Bùi Thị Tý địa chỉ 108B Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa đã xác định bà Phan Thị Ninh chuyển đến địa chỉ trên vào ngày 28/01/2000, nơi thường trú trước khi chuyển đến là C, hồi hương về Việt Nam. Từ các chứng cứ trên có đủ cơ sở xác định bà Phan Thị Ninh thường trú tại 108B Trần Phú, Nha Trang, Khánh Hòa là người có Quốc tịch Việt Nam và CMND của bà Ninh là 225277492. Do vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo – Tại Công văn số 4972/CNQ1 ngày 14/10/2016 của VPĐKĐĐ TP. HCM đã xác định: “Ngày 19/9/2016, bà Phạm Thị Khánh V đã rút toàn bộ hồ sơ bản chính nhà 69 T…” Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện bà V đang lưu giữ. Bản án sơ thẩm xác định VPĐKĐĐ lưu giữ giấy tờ trên là không chính xác. – Bà V thay mặt, nhân danh và vì lợi ích của bà Ninh và các đồng thừa kế của ông D, nộp tiền thi hành án và hỗ trợ người phải thi hành án, để nhận tài sản được thi hành án là Nhà đất số 69 T là có căn cứ. Cấp sơ thẩm xác định công sức của bà V tương đương 1/9 giá trị của toàn bộ nhà đất số 69 T là phù hợp, vì việc bà V có công sức đòi nhà, bảo quản, giữ gìn làm tăng giá trị nhà đất số 69 đường T. Tòa án phúc thẩm quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Phan Thị Ninh và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Trường S, sửa một phần bản án sơ thẩm số 1609/2022/DS-ST ngày 20/9/2022 của TAND Tp HCM. Cụ thể tuyên – Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị N và yêu cầu độc lập của ông Phạm Trường S về việc tuyên bố Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế bổ sung số công chứng 00023033, tại VPCC Đ, TP H là vô hiệu – Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền chứng nhận số 60/05/2015-CNCK, số 61/05/2015-CNCK ngày 25/5/2015 tại Ốt-ta-oa C là vô hiệu. – Tuyên bố Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số công chứng 00017408, quyển số 06/TP/VPCC-SCC/TK và Hợp đồng tặng cho phần quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số công chứng 00017409 tại VPCC Đ, TP H là vô hiệu. – Buộc bà Phạm Thị Khánh V và những người đang ở tại nhà đất số 69 đường T phải trả lại nhà đất này và GCN QSDĐ cho bà Phan Thị N và đồng thừa kế của ông Phạm Văn D… |
01-31 |
2 | Bản án số: 525/2023/DS-PT ngày 01/08/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
Về việc: “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” Nội dung vụ án: Ngày 01/6/2015 bà Nguyễn Thị Kim T có nhận chuyển nhượng của anh Nguyễn Thanh D1 thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4 diện tích 2.330 m2 (thực đo 2.488,9 m2 ) tại ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Trà Vinh giá chuyển nhượng 250.000.000 đồng. Hợp đồng được công chứng và đăng ký. Thửa đất này có nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn Đ cha ruột anh D1 đứng tên, năm 2012 ông Đ chết các đồng thừa kế lập văn bản thỏa thuận phân chia cho anh D1 toàn bộ thửa đất. Anh D1 chuyển nhượng lại cho bà T. Sau khi làm thủ tục sang đất xong bà T đến thửa đất thì biết: Ông Nguyễn Văn T1 đang sử dụng một phần đất diện tích 711,7m2 . Ông Trần Văn N1 đang sử dụng một phần đất diện tích 823,2 m2. Còn lại 954 m2 do bà Nguyễn Thị L, Diệp Thị H, và Nguyễn Thị A N đang sử dụng. Nay bà Nguyễn Thị Kim T khởi kiện yêu cầu Bà Nguyễn Thị L, bà Diệp Thị H, bà Nguyễn Thị AN, anh Nguyễn Thanh D1, ông Nguyễn Văn T1 ông Nguyễn Văn N2 trả lại cho bà diện tích đất 2.330m2 thửa số 32, tờ bản đồ số 4. Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị L, Diệp Thị H và lời trình bày của bà Nguyễn Thị A N và bà Nguyễn Thị Thu B đại diện của bà Diệp Thị H yêu cầu: – Hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng ngày 07/5/2015. – Hủy GCN đã cấp cho ông Nguyễn Thanh D1 ngày 12/5/2015. – Hủy HĐ CN quyền sử dụng đất diện tích 2.330m2, thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4 giữa ông D1 và bà T lập ngày 01/6/2015. – Hủy xác nhận của VP ĐKĐĐ tỉnh C chi nhánh huyện C ngày 24/11/2015 về nội dung “Chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Kim T…theo hồ sơ số 004142.CN.001” Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 09/6/2022 của TAND tỉnh Trà Vinh đã tuyên xử: – Hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được công chứng ngày 07/5/2015 tại Văn phòng C. – Hủy GCN QSDĐ số BY 787448 của UBND huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh D1 – Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4 – VP ĐKĐĐ tỉnh C chi nhánh huyện C thu hồi hoặc điều chỉnh lại đăng ký biến động đất đối với thửa đất trên. – Giao diện tích 2.330m2, thửa đất số 32, tờ bản đồ số 4 cho các thừa kế hàng thứ nhất của ông Nguyễn Văn Đ quản lý sử dụng. – Buộc ông Nguyễn Thanh D1 trả cho bà Nguyễn Thị Kim T số tiền 379.890.000 đồng Ngày 20/6/2022, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án Nhận định của Tòa án phúc thẩm: – Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Đ đã được cấp QSDĐ. Sau khi ông Đ mất, ông Nguyễn Thanh D1 tự ý làm thủ tục thừa kế phân chia di sản. Xét thấy Văn bản phân chia di sản ngày 07/5/2015 có chứng thực của Văn phòng C. Tuy nhiên, kết luận giám định không phải chữ ký của bà Nguyễn Thị Thu B, Nguyễn Thị A N. Bên cạnh đó hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Văn Đ còn có bà Nguyễn Thị L và các con của vợ trước của ông Đ là bà Nguyễn Thị Thu H1, bà Nguyễn Thị H2, ông Nguyễn Văn T2. Việc UBND huyện C cấp quyền sử dụng đất cho ông D là không đúng pháp luật. Cho nên HĐ chuyển nhượng giữa bà Kim T và ông Thanh D1 là trái pháp luật nên bị vô hiệu, từ đó tuyên hủy hợp đồng – HĐXX nhận thấy, lỗi của giao dịch vô hiệu là của một mình ông Nguyễn Thanh D1. Bà T không thể biết và cũng không buộc phải biết Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 07/5/2015 hoặc GCN quyền sử dụng đất được cấp cho ông D1 là trái pháp luật. Vì vậy, cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu. Tòa án phúc thẩm quyết định: – Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim T. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh. – Buộc ông Nguyễn Thanh D1 trả cho bà Nguyễn Thị Kim T số tiền 509.780.000 đồng – Các nội dung khác theo bản án sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2022 |
32-41 |
3 | Bản án số: 532/2023/DS-PT ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
Về việc: “Chia tài sản chung của hộ gia đình, yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt” Nội dung vụ án: Vào năm 1997, bà nội của anh Huỳnh Hùng Minh H là cụ Huỳnh Thị K đứng tên chủ hộ khẩu, được UBND huyện G cấp GCN QSDĐ số 00167/QSDĐ, diện tích 11.482 m2 tọa lạc ấp M, xã B, thị xã G gồm các thửa đất số 1481, 1484, 1489, 1993, 1495, 1528 trong đó 890m đất thổ, còn lại là đất lúa, ao. Tại thời điểm bà K được cấp GCN QSDĐ, trong hộ có bà Huỳnh Thị K (chủ hộ) và 09 nhân khẩu (đủ 18 tuổi trở lên) gồm: Huỳnh Văn S, Võ Thị T1, Huỳnh Hùng Minh H, Huỳnh Hùng Minh P, Huỳnh 4 Thùy S1, Huỳnh Hùng Minh T2, Huỳnh Hùng Minh N, Huỳnh Hùng Minh S2, Huỳnh Thùy Lệ C1. Năm 2008, bà K chết, sau đó bà Huỳnh Thị T (cô ruột anh H) đưa ra “Tờ di chúc” của bà Huỳnh Thị K lập ngày 18/11/2007 có 05 người làm chứng. Trên cơ sở đó bà T tiến hành chia di sản thừa kế của bà K theo di chúc nói trên đối với toàn bộ phần đất cho ông Huỳnh Văn S, bà Huỳnh Thị T và bà Huỳnh Thị H5 (bà H5 chết năm 2010, có 03 người con là Đinh Văn H2, Đinh Thị Thanh H3, Đinh Thị L1) và mọi người đều đã được cấp GCNQSDĐ. Nay ông H khởi kiện yêu cầu: – Được chia phần đất có diện tích 1.148,2m2 trong toàn bộ diện tích 11.482m của 06 thửa đất số 1481, 1984, 1989, 1422, 1495, 1528 (trong đó có 89 m2 đất thổ). – Hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 425, quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD ngày 06/11/2008 giữa bà Huỳnh Thị H5, bà Huỳnh Thị T, ông Huỳnh Văn S được Ủy ban nhân dân xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang chứng thực. – Hủy các GCNQSDĐ số HO8013V-BĐ, số H08014V-BĐ, số H08012V-BĐ, số H08015V-BĐ do UBND thị xã G cấp cho bà Huỳnh Thị T đối với thửa đất tọa lạc tại xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. – Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 357, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/7/2011 được ký giữa bà Huỳnh Thị T và bà Võ Thị Hồng L2 đối với thửa đất số 28708.M1.2605, tờ bản đồ M1, tọa lạc tại xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2013/DS-ST ngày 18/9/2013, TAND tỉnh Tiền Giang quyết định: (Lần 1) Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Hùng Minh H và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là ông Huỳnh Văn S, bà Võ Thị T1, Huỳnh Hùng Minh P, Huỳnh Thùy S1, Huỳnh Hùng Minh T2, Huỳnh Hùng Minh N, Huỳnh Hùng Minh S2, Huỳnh Thùy Lệ C1 kiện bà Huỳnh Thị T “Chia tài sản chung của hộ gia đình”. Sau khi xét xử sơ thẩm lần thứ nhất, anh H, anh T2, chị S1, anh P, bà T1, anh S2, anh N có đơn kháng cáo. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 56/2014/DS-PT ngày 17/3/2014 Tòa án nhân dân tối cao tại TP Hồ Chí Minh quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 35/2013/DSST ngày 18/9/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang giải quyết lại vụ án. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2016/DS-ST ngày 19/9/2016, TAND tỉnh Tiền Giang quyết định: (Lần 2) Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Hùng Minh H và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Huỳnh Văn S, bà Võ Thị T1, ông Huỳnh Hùng Minh P, bà Huỳnh Thủy S5, ông Huỳnh Hùng Minh T2, ông Huỳnh Hùng Minh N, ông Huỳnh Hùng Minh S2, bà Huỳnh Thùy Lệ C1 đòi bà Huỳnh Thị T chia tài sản chung của hộ gia đình. Sau khi xét xử sơ thẩm lần hai, anh H, anh T2, chị S5, anh P, bà T1, anh S2, anh N tiếp tục có đơn kháng cáo. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 86/2017/DS-PT ngày 25/5/2017, TAND cấp cao tại TP HCM quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 40/2016/DSST ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang giải quyết lại vụ án Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2021/DS-ST ngày 09/11/2021, TAND tỉnh Tiền Giang quyết định: (Lần 3) – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Hùng Minh H, Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Huỳnh Văn S, bà Võ Thị T1, anh Huỳnh Hùng Minh P, chị Huỳnh Thủy S5, anh Huỳnh Hùng Minh T2, anh Huỳnh Hùng Minh N, anh Huỳnh Hùng Minh S2, chị Huỳnh Thùy Lệ C1 Ngày 22/11/2021, nguyên đơn là anh Huỳnh Hùng Minh H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị T1, anh Huỳnh Hùng Minh P, chị Huỳnh 11 Thùy S1, anh Huỳnh Hùng Minh T2, anh Huỳnh Hùng Minh N, anh Huỳnh Hùng Minh S2, và chị Huỳnh Thị Lệ C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Nhận định của Tòa án phúc thẩm: – Các đương sự đều thừa nhận: Cụ Huỳnh Thị K và cụ Huỳnh Văn Đ1 là vợ chồng. Cụ K chết ngày 10/3/2008, cụ Đ1 chết năm 1950. Hai cụ có 03 người con chung gồm: Bà Huỳnh Thị H5, chết năm 2009, có con là Đinh Văn H2 (Lưỡng), Đinh Thị L1 và Đinh Thị Thanh H3. Ông Huỳnh Văn S, chết năm 2016, có vợ là bà Võ Thị T1, các con là Huỳnh Hùng Minh H, Huỳnh Thùy S1, Huỳnh Hùng Minh P, Huỳnh Hùng Minh N, Huỳnh Hùng Minh T2, Huỳnh Hùng Minh S2, Huỳnh Thùy Lệ C1, Huỳnh Thùy Ngọc T3. Bà Huỳnh Thị T. – Về tài sản tranh chấp: Lúc còn sống, vợ chồng cụ K có tạo lập được 11.482m2 đất gồm các thửa 1481, 1484, 1989, 1993, 1495 và 1528, tờ bản đồ M1, tại ấp M, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Cụ K là người kê khai theo sổ mục kê 299 các thửa đất nêu trên. Sau đó đất được đưa vào tập đoàn thì khoảng năm 1988 khi rã tập đoàn thì Nhà nước trả lại và được UBND huyện G cấp GCN QSDĐ số K 604054 ngày 07/7/1997 ghi người được cấp đất là hộ bà Huỳnh Thị K. Diện tích đất hộ cụ K được cấp GCN QSDĐ là 11.482m2 , trừ đi diện tích đất bị thu hồi và việc đo đạc trước đây không chính xác thì các thửa đất này theo đo đạc thực tế còn 10.828,1m2. Như vậy, khu đất 10.828,1m2 theo GCN QSDĐ số 00167/QSDĐ ngày 07/9/1997 do UBND huyện G cấp cho hộ cụ Huỳnh Thị K được xác định là tài sản chung của hộ gia đình gồm 10 thành viên như đã nêu trên. – Sau khi cụ K chết, bà Huỳnh Thị T đưa ra Tờ di chúc đề ngày 28/11/2007 có nội dung chia 11.482m2 đất cho các người con của cụ K. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có lấy lời khai của người làm chứng là bà Võ Thị Hồng L2, nhưng bà L2 trình bày có ký tên vào tờ di chúc nhưng do thời gian quá lâu nên bà không nhớ nội dung. Kết quả xác minh 04 người có tên còn lại trong tờ di chúc thì họ không có đăng ký HK thường trú tại ấp M, xã B, thị xã G. – Ngày 06/11/2008, hàng thừa kế thứ nhất của cụ K gồm ông S, bà H5 và bà T thống nhất lập “Văn bản phân chia di sản thừa kế” được UBND xã B, huyện G chứng thực có nội dung thỏa thuận chia 11.482m2 đất nêu trên cho 03 người con của cụ K gồm: – Chia cho bà Huỳnh Thị H5 345,6m2 ; Chia cho ông Huỳnh Văn S 6.925,5m2 ; Chia cho bà Huỳnh Thị T 4.210,9m”. Trên cơ sở văn bản phân chia này, UBND thị xã G đã cấp GCN QSDĐ đất cho ông S, bà H5, bà T Tòa án phúc thẩm quyết định: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Hùng Minh H: – Tuyên bố “Văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế” số 425, quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD ngày 06/11/2008 giữa bà Huỳnh Thị H5, bà Huỳnh Thị T, ông Huỳnh Văn S, được UBND xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang chứng thực vô hiệu. – Hủy các GCNQSDĐ do UBND thị xã G cấp cho bà Huỳnh Thị T các thửa đất số 28708.71.2606, 28708.M1.1493, 28708.M1.2605, 28708.M1.2607 tờ bản đồ M1, diện tích 2423m” tại ấp M, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang – Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 357, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐND ngày 28/7/2011 được ký giữa bà Huỳnh Thị T và bà Võ Thị Hồng L2 đối với thửa đất số 28708.M1.2605, tờ bản đồ M1 – Xác định quyền sử dụng đất các thửa 1493, 2601, 2602, 2603, 2604, 2605, 2606, 2607, tờ bản đồ M1, diện tích còn lại theo đo đạc thực tế 10.828,1m2 , tọa lạc tại xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang là tài sản chung của cụ Huỳnh Thị K, ông Huỳnh Văn S, bà Võ Thị T1, anh Huỳnh Hùng Minh H, anh Huỳnh Hùng Minh P, chị Huỳnh Thùy S1, anh Huỳnh Hùng Minh T2, anh Huỳnh Hùng Minh N, anh Huỳnh Hùng Minh S2 và chị Huỳnh Thị Lệ C……. |
42-67 |
4 | Bản án số: 62/2023/DS-PT ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân TP Hải Phòng
Về việc: “Hủy văn bản thỉa thuận, tranh chấp chia di sản thừa kế” Nội dung vụ án: Bố đẻ ông Phạm Văn PH là cụ Phạm Quốc Tuấn (mất năm 2010). Cụ Tuấn có vợ cả là cụ Đỗ Thị Vấn (mất năm 1977). Cụ Tuấn và cụ Vấn sinh được 03 người con là Phạm Văn PH, Phạm Thị H và Phạm Thị HU. Sau khi cụ Vấn mất, cụ Tuấn kết hôn với cụ Đào Thị G và sinh được 04 người con là: Phạm Văn HA, Phạm Thị PH, Phạm Quốc T và Phạm Văn NG. Cụ G có 01 con riêng là bà Phạm Thị Thuần. Khi còn sống, cụ Tuấn, cụ Vấn được bố mẹ là Phạm Văn Phán và Đỗ Thị Bần cho diện tích đất 1.016m2 , tại thửa đất 141, tờ bản đồ số 07 thuộc thôn CH Thắng, xã Đặng Cương. Diện tích đất trên chưa được cấp bìa đỏ, chưa sang tên, chưa chuyển nhượng cho bất kỳ ai và đứng tên Phạm Quốc Tuấn (tức Hạnh) tại trang 61 sổ địa chính năm 2000 của UBND xã Đặng Cương. Ngày 18/8/2020, các thành viên trong gia đình gồm cụ G, bà H, bà HU, ông HA, bà PH, ông T, ông NG thống nhất ký kết văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có chứng thực của UBND xã Đặng Cương với nội dung sau: Xác nhận toàn bộ di sản trên là của cụ Tuấn và cụ Vấn chết đi để lại và phân chia như sau: Ông NG được nhận phân chia diện tích 317m2 để làm tài sản riêng; Ông PH và vợ là bà CH được nhận phân chia diện tích 276m2 ; ông T được nhận phân chia diện tích 298m2 để làm tài sản riêng. Sau thỏa thuận phân chia, vợ chồng ông PH đã bỏ toàn bộ kinh phí làm lối đi, xây dựng căn nhà 02 tầng để thờ cúng trên phần đất được chia. Nhưng sau đó cụ G cùng các con đã cố tình ngăn cản. Ông PH đề nghị Tòa án giải quyết: Tuyên hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế lập ngày 18/8/2020. Yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cụ Tuấn, cụ Vấn theo diện tích đo vẽ thực tế. Phần di sản của ông PH, bà H và bà HU được hưởng yêu cầu Tòa án xem xét phân chia tại vị trí có căn nhà 02 tầng vợ chồng ông hiện đang xây dựng. Phần di sản của cụ Vấn là diện tích thửa đất hiện tại do ông T đã xây nhà và phần ông đang xây công trình đã hết thời hiệu, đề nghị áp dụng thời hiệu để giao cho các đồng thừa kế là con cụ Vấn quản lý. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2023/DS-ST ngày 10/3/2023 của TAND huyện An Dương, TP Hải Phòng. Tuyên xử: – Hủy bỏ Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế giữa ông Phạm Văn PH, cụ Đào Thị G, bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị HU, ông Phạm Văn HA, ông Phạm Quốc T, ông Phạm Văn NG, bà Phạm Thị PH – Xác định thửa đất số 141, tờ bản đồ số 07 thuộc thôn CH Thắng, xã Đặng Cương, huyện An Dương có diện tích 1071m2 là di sản thừa kế của cụ Phạm Quốc Tuấn (Hạnh) và cụ Đỗ Thị Vấn chết đi để lại gồm các mốc giới theo sơ đồ. – Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Phạm Văn PH. Xác lập lối đi chung có diện tích 148,1m2 gồm các mốc giới A,B,5,2,A trên sơ đồ phân chia. Diện tích còn lại 922,9 m2 gồm các mốc giới 1,2,5,6,1 chia ra mỗi cụ còn lại 461,45m2 ; chia cụ thể có sơ đồ kèm theo. – Bị đơn là cụ Đào Thị G và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Văn HA, bà Phạm Thị PH, ông Phạm Quốc T, ông Phạm Văn NG; bà Phạm Thị Thuần kháng cáo đối với toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm. Nhận định của Tòa án phúc thẩm: – Nguồn gốc đất thửa số 141, tờ bản đồ số 07 của bố mẹ đẻ cụ Tuấn để lại cho cụ Tuấn và cụ Vấn sử dụng từ lâu; hai cụ sử dụng ổn định đến năm 1977 thì cụ Vấn chết. Sau khi cụ Vấn chết, cụ Tuấn kết hôn với cụ G và sinh sống tại thửa đất trên. Sổ địa chính năm 2000 lưu trữ ghi nhận diện tích 1.016m2 kê khai cụ Phạm Văn Hạnh (tức cụ Phạm Văn Tuấn). Như vậy, đủ cơ sở xác định thửa đất số 141 diện tích 1.016m2 là tài sản cụ Tuấn được bố mẹ để lại cho. Do đó thửa đất số 141 nêu trên là tài sản chung của cụ Tuấn và cụ Vấn, vì vậy khi cụ Vấn chết ½ diện tích đất là di sản thừa kế của cụ Vấn, ½ diện tích đất còn lại là tài sản của cụ Tuấn. Đến năm 1978, cụ Tuấn kết hôn với cụ G, thời điểm này vẫn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 nên phần diện tích đất của cụ Tuấn trở thành tài sản chung của vợ chồng cụ Tuấn cụ G. Như vậy, cụ G là chủ sử dụng đối với ¼ diện tích đất thuộc thửa đất số 141 và ¼ diện tích đất còn lại là di sản thừa kế của cụ Tuấn. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản thừa kế của cụ Tuấn là ½ diện tích đất thuộc thửa đất số 141 là không phù hợp. – Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được UBND xã Đặng Cương, huyện An Dương chứng thực ngày 18/8/2020 do hoàn toàn tự nguyện của các bên nên phát sinh hiệu lực. Các bên đều cho rằng Văn bản thỏa thuận trên ảnh hưởng đến quyền lợi của mình, không thể thực hiện được thỏa thuận nên không đồng ý thực hiện; đề nghị Tòa án tuyên hủy bỏ. Xét thấy yêu cầu này xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự nên chấp nhận. – Đối với phần di sản của cụ Vấn đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế: Các bên đều yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện theo Điều 623 Bộ luật Dân sự Tòa án phúc thẩm quyết định: – Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2023/DS-ST ngày 10/3/2023 của TAND huyện An Dương, TP Hải Phòng, cụ thể: – Hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế giữa ông Phạm Văn PH, cụ Đào Thị G, bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị HU, ông Phạm Văn HA, ông Phạm Quốc T, ông Phạm Văn NG, bà Phạm Thị PH; được UBND xã Đặng Cương chứng thực ngày 18/8/2020; số chứng thực 61/2020, quyển 01 TP/CC-SCT/HĐGD – Xác định thửa đất số 141, tờ bản đồ số 07 thuộc thôn CH Thắng, xã Đặng Cương có diện tích 1.071m2 là di sản thừa kế của cụ Phạm Quốc Tuấn và cụ Đỗ Thị Vấn chết đi để lại theo sơ đồ. – Xác lập lối đi chung có diện tích 148,1m2 gồm các mốc giới A,B,5,2,A theo sơ đồ – Diện tích còn lại 922,9 m2 gồm các mốc giới 1,2,5,6,1 xác định di sản của cụ Phạm Quốc Tuấn và cụ Đỗ Thị Vấn mỗi cụ là 461,45m2 ; thỏa thuận phân chia cụ thể có sơ đồ phân chia đất kèm theo bản án…. |
68-86 |
LINK TẢI PDF: Tổng hợp 10 bản án về tuyên hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã công chứng, chứng thực
……………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn