FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ KẾ TOÁN GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
MỤC LỤC
STT |
TÊN VĂN BẢN |
TRANG |
1. |
Bản án số 13/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 của Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tóm tắt nội dung vụ án: Bị cáo Phạm Vũ P là công chức, được điều động và phân công giữ chức vụ Giám đốc Văn hóa – Thông tin và Thể thao huyện Mang Thít từ ngày 01/4/2019 theo Quyết định số 1180 ngày 27/3/2019 của Ủy ban nhân dân huyện Mang Thít. Bị cáo Nguyễn Hoài P là viên chức, phụ trách kế toán và bị cáo Trần Mỹ H là viên chức, phụ trách thủ quỹ từ ngày 12/4/2019 theo Quyết định số 14a của Trung tâm Văn hóa – Thông tin và Thể thao huyện Mang Thít. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, các bị cáo Phạm Vũ P, bị cáo Nguyễn Hoài P và bị cáo Trần Mỹ H đã lập khống các chứng từ kế toán để quyết toán nguồn kinh phí không tự chủ, đã rút từ ngân sách nhà nước trong các đợt tổ chức chương trình thể dục, thể thao, văn hóa nghệ thuật. Cụ thể như sau: Giải Vô địch Taekwondo tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Giải Vô địch Vovinam tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Giải Vô địch Bóng đá tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Hội diễn nghệ thuật quần chúng tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Chi tiếp khách; Mua trang thiết bị dụng cụ thể dục thể thao; Hội diễn phục vụ tuyên truyền cải cách hành chính 2019; Thu tiền cho thuê mặt bằng; Lập chứng từ quyết toán chấm công trực thư viện ngoài giờ. Tổng số tiền mà các bị cáo đã chiếm đoạt là: 134.386.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi của bị cáo Phạm Vũ P, Nguyễn Hoài P và Trần Mỹ H đã cấu thành nên tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 221 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít truy tố các bị cáo Phạm Vũ P, Nguyễn Hoài P và Trần Mỹ H về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” là có cơ sở đúng pháp luật. Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, bị cáo Phạm Vũ P là người tổ chức, bị cáo Nguyễn Hoài P là người thực hành, bị cáo Trần Mỹ H là người giúp sức. – Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. – Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải; Bị cáo đã nộp lại toàn bộ số tiền gây thất thoát. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo quy định tại các điểm b, s, khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Phạm Vũ P đạt nhiều thành tích xuất trong công tác. Bị cáo Nguyễn Hoài P có bác ruột, cậu ruột là Liệt sĩ nên xem là tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự. Các bị cáo có nơi cư trú ổn định, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ sức răn đe đối với các bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Tuyên bị cáo Trần Mỹ H phạm tội: “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Trần Mỹ H 02 (Hai) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban thị trấn Cái Nhum nhận được bản án và quyết định thi hành án. – Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài P phạm tội: “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài P 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban xã Tân An Hội nhận được bản án và quyết định thi hành án. – Tuyên bố bị cáo Phạm Vũ P phạm tội: “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Phạm Vũ P 03 (Ba) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban xã Mỹ An nhận được bản án và quyết định thi hành án. |
1 – 14 |
2. |
Bản án số 02/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tóm tắt nội dung vụ án: Trong khoảng thời gian công tác tại Trường Tiểu học Triệu Vân từ năm 2016 đến năm 2017, Lê Thị H lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Kế toán, đã thực hiện hành vi giả mạo, khai man tài liệu kế toán, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 256.953.108 đồng. Cụ thể: Ngày 08/8/2016, Lê Thị H lập dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2017 và lập Nhu cầu kinh phí thực hiện Nghị định số 61, Nghị định số 19 và Nghị định số 116 trình Lương Viết H ký, rồi gửi cho Phòng GD-ĐT và Phòng TC-KH. Trong đó, H đã lập hệ số lương dự toán của 08 giáo viên cao hơn so với Quyết định lương thực tế họ đang hưởng gồm Lê Thị Thanh T, Lê Thị Lan P, Lê Thị Thúy D, Võ Đại T, Nguyễn Thị Khánh H, Đỗ Thị Hoài A, Lê Thị Hoài P, Trần Thị T. Ngày 28/9/2016, H lập danh sách cán bộ, giáo viên hưởng lương theo Nghị định 116 và Nghị định 19 có mặt tại trường đến ngày 27/9/2016 trình Hùng ký gửi Phòng GD-ĐT theo yêu cầu, để Phòng GD-ĐT tổng hợp gửi Phòng TC-KH thẩm định. Tại Danh sách này, Hạnh đã lập hệ số lương của 11 giáo viên cao hơn so với Quyết định lương thực tế đang hưởng, trong đó có 08 giáo viên nêu trên và có thêm 03 giáo viên là Trần Thị Tuyết L, Trần Đăng T và Lê Văn H. Sau khi nhận được Nhu cầu truy lĩnh phụ cấp thực hiện Nghị định số 61, Nghị định số 19 và Nghị định số 116 của Trường Tiểu học Triệu Vân, Phòng GDĐT đã yêu cầu Trường Tiểu học Triệu Vân cung cấp các hồ sơ liên quan đến việc thực hiện chế độ Phụ cấp ưu đãi và Phụ cấp thu hút gồm: Quyết định tuyển dụng ban đầu của giáo viên khi về trường và Quyết định lương hiện hưởng để tiến hành thẩm định. Để đối phó với yêu cầu đó, H và H đã làm giả 15 Quyết định của 11 giáo viên nêu trên, bằng cách cắt, dán hệ số lương, thời gian quyết định lên nền quyết định cũ có sẳn sau đó phô tô thành bản mới (phô tô tại quán phô tô Khương Y ở thôn 8, xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong) rồi nộp cho Bộ phận Tài vụ Phòng GD-ĐT. Sau khi thẩm định, Phòng GD-ĐT đã lập Dự toán chuyển cho Phòng TCKH tiến hành thẩm định trình Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành quyết định cấp kinh phí. Ngày 30/12/2016, Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành Quyết định số 1695/QĐ-UBND về việc phân bổ Dự toán chi ngân sách sự nghiệp giáo dục – đào tạo năm 2017 cho Phòng GD-ĐT và các trường học trên địa bàn huyện. Trong đó, Trường Tiểu học Triệu Vân được cấp kinh phí với số tiền 2.761.300.000 đồng, gồm có 35% Phụ cấp ưu đãi theo Nghị định số 61, Nghị định số 19 với số tiền 452.412.000 đồng, cao hơn thực tế59.597.000 đồng. Ngày 10/4/2017, Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành Công văn số 695/UBND về việc triển khai thực hiện Nghị định 116. Ngày 27/4/2017, H lập Danh sách cán bộ, giáo viên nhận chế độ phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thu hút theo Nghị định 116 và Nghị định 19 năm 2016 và năm 2017, Danh sách này H không trình H ký mà nộp cho Phòng GD-ĐT qua gmail của bà Võ Thị Thanh N (vothithanhnhan.pgdtp@quangtri.edu.vn), kế toán Phòng GD-ĐT vào lúc 09h03’ ngày 27/4/2017. Trong Danh sách này, H đã thay đổi thời gian nhận công tác, lập thêm hệ số phụ cấp, nâng hệ số lương của 11 giáo viên tương tự như danh sách lập ngày 28/9/2016 và thay đổi thời gian nhận công tác, lập thêm hệ số phụ cấp đối với 07 giáo viên, gồm: Trần Quang K, Lê Bá D, Hoàng Hữu T, Đặng Thị Thu T, Lê Thị Thanh T, Nguyễn Thị Thanh T, Lê Thị Mỹ H. Ngày 20/6/2017, Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành Quyết định số 699/QĐ-UBND v/v phân bổ kinh phí thực hiện Nghị định 116 và Nghị định 19 năm 2016, 2017. Trong đó, Trường Tiểu học Triệu Vân được phân bổ kinh phí với số tiền là 1.514.540.000 đồng, cao hơn so với thực tế là 255.574.000 đồng. Như vậy, với hành vi giả mạo, khai man tài liệu kế toán của Lê Thị H và Lương Viết H nên Trường Tiểu học Triệu Vân đã được cấp kinh phí thực hiện Nghị định số 61, Nghị định số 19 và Nghị định số 116 năm 2016, 2017 cao hơn thực tế số tiền là 315.171.000 đồng. Tổng số tiền thiệt hại: 256.953.108 đồng Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi của các bị cáo Lương Viết H và Lê Thị H đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo điểm a khoản 1 Điều 221 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: – Đối với bị cáo Lê Thị H: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hạnh thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại với số tiền là 125.600.000 đồng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo theo giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2019, mẹ bị cáo là bà Trần Thị H được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. – Đối với bị cáo Lương Viết H, quá trình điều tra bị cáo chưa thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị cáo H đã thành khẩn khai báo. Bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại với số tiền là 130.000.000 đồng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có bố là ông Lương Văn K được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba và Huân chương chiến thắng hạng Nhất, mẹ là bà Nguyễn Thị N được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất và Huân chương chiến thắng hạng Nhất, vợ là bà Nguyễn Thị V được Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục và được UBND tỉnh Quảng Trị tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong năm học 2005-2006 nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của từng bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo Lê Thị H và Lương Viết H đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên xét thấy không cần thiết bắt các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo được hưởng án treo giao họ cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với các bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Lương Viết H và Lê Thị H phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. – Xử phạt bị cáo Lương Viết H 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/01/2020. – Xử phạt bị cáo Lê Thị H 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/01/2020. |
15 – 31 |
3. |
Bản án số 204/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tóm tắt nội dung vụ án: Từ năm 2014 đến năm 2017, Hội Nông dân tỉnh Lạng Sơn đã sử dụng kinh phí từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước cấp, nguồn phí ủy thác, hoa hồng từ Ngân hàng Chính sách Xã hội, nguồn thu từ hoạt động quỹ hỗ trợ nông dân, nguồn thu từ hội phí vào việc triển khai thực hiện các chương trình tập huấn, hội thi, hội nghị… Sau khi thực hiện xong đã lập hồ sơ, chứng từ thanh quyết toán theo quy định. Do kinh phí của Hội eo hẹp, lợi dụng vào việc tổ chức các chương trình này, Vũ Trọng B – Chủ tịch Hội đã chỉ đạo Lê Thị V (Kế toán) làm trái quy định về Kế toán, lập khống một số bộ chứng từ quyết toán liên quan đến các nội dung tập huấn, hội thi và hội nghị để rút tiền từ Ngân sách Nhà nước chi phí cho các công việc chung của Hội. Lê Thị V đã lập khống 12 bộ chứng từ, quyết toán với tổng số tiền 788.440.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của các bị cáo xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018, tội phạm được quy định tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999; căn cứ điểm e khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015, thì hành vi của các bị cáo bị xét xử về tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 221 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Vũ Trọng B và Lê Thị V phạm tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng theo điểm d khoản 2 Điều 221 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn; các bị cáo đều là cán bộ có chức vụ, quyền hạn, có sự thống nhất với nhau trong việc lập hồ sơ khống để rút tiền từ Ngân sách phục vụ cho công tác của đơn vị. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Mặc dù việc rút tiền từ Ngân sách để phục vụ mục đích chung của đơn vị, không có vụ lợi cá nhân, nhưng sau khi biết hành vi của mình là vi phạm phát luật, các bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền vào Ngân sách. Các bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra trong việc giải quyết vụ án. Bị cáo Vũ Trọng B hiện đang mắc bệnh hiểm nghèo; có nhiều thành tích xuất sắc trong quá trình công tác, được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Hội Nông dân Việt Nam tặng Bằng khen; bị cáo có bố đẻ là ông Vũ Trọng L được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba và Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba. Bị cáo Lê Thị V cũng có nhiều thành tích xuất sắc trong quá trình công tác, được Hội Nông dân Việt Nam tặng Huy chương vì sự nghiệp Nông dân Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục; bị cáo có bố đẻ là ông Lê Văn H được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và hạng Ba. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cho các bị cáo hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s; 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b; 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t; 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1 và 01 tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Cả hai bị cáo đều có 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố các bị cáo Vũ Trọng B và Lê Thị V phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. – Xử phạt bị cáo Vũ Trọng B 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. – Xử phạt bị cáo Lê Thị V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. |
32 – 41 |
4. |
Bản án số 12/2019/HS-ST ngày 08/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tóm tắt nội dung vụ án: Do UBND xã hàng năm không có nguồn kinh phí cấp cho việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho UBND xã và làm đường, sửa chữa trụ sở UBND xã D. Bị cáo Hoàng Văn D, sinh năm 1965 trú tại thôn T, xã D, huyện S, tỉnh Bắc Giang là cán bộ tài chính kế toán xã D đã tự lập 04 bộ hóa Xác định Hoàng Văn D đã làm gây thất thoát cho nhà nước số tiền là 141.680.000đ (Một trăm bốn mươi mốt triệu, sáu trăm tám mươi nghìn đồng). Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi của bị cáo Hoàng Văn D đã thực hiện không đúng về quản lý, sử dụng ngân sách quy định tại Thông tư 60/2003/TT- BTC ngày 23/6/2003 của Bộ tài chính quy định về quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn; Điều 82 Nghị định 60/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước năm 2002; khoản 5, 9 Điều 72 Luật ngân sách nhà nước năm 2002; Khoản 1, khoản 4 Điều 6 Luật kế toán năm 2003. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, cần áp dụng hình phạt thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để răn đe bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tích cực khắc phục hậu quả toàn bộ thiệt hại, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo có bố mẹ đẻ được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến,tại phiên tòa nguyên đơn dân sự xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo phạm tội do năng lực yếu và không có động cơ vụ lợi cá nhân. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng có đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Bị cáo Hoàng Văn D (Hoàng Anh D) phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 01 (một) năm 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. |
42 – 51 |
5. |
Bản án số 118/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tóm tắt nội dung vụ án: Bị cáo Lê Đức M được bổ nhiệm giữ chức vụ Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty TNHH một thành viên DVMT và QLĐT TQ (nay là Công ty cổ phần DVMT và QLĐT TQ) kể từ ngày 16/4/2010 theo Quyết định bổ nhiệm số 435/QĐ-CT, ngày 16/4/2010. Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụđược giao kể từ ngày được bổ nhiệm đến tháng 4 năm 2014, bị cáo đã có một số hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng. Ông Lê Đức M chỉ đạo cán bộ công ty lập hồ sơ, chứng từ khống, không đúng thực tế nạo vét, vận chuyển bùn cống, hố ga trên địa bàn thành phố Tuyên Quang để rút số tiền 138.420.000 đồng của Công ty TNHH một thành viên DVMT và QLĐT TQ, trong đó số tiền chi trả thuê nhân công thực tế là 21.360.000đ (hai mươi mốt triệu, ba trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn) và sử dụng 117.060.000đ (một trăm mười bẩy triệu, không trăm sáu mươi nghìn đồng chẵn) vào việc mua 08 bộ bóng đèn chiếu sáng và vật tư để lắp đặt, thay thế hệ thống đèn chiếu sáng tại sân quần vợt (sân Tenis) do Câu lạc bộ tenis thành phố quản lý. Việc lắp đặt, thay thế hệ thống đèn chiếu sáng nêu trên không thuộc công trình, dự án nào do Công ty cổ phần DVMT và QLĐT TQ thi công, xây dựng cũng không phải công trình phúc lợi công cộng. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi của Lê Đức M đã vi phạm Luật ngân sách nhà nước, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước số tiền 117.060.000 đồng do Công ty đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang giao chỉ tiêu kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước chi phục vụ công cộng năm 2013. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện dưới lỗi cố ý; hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực kế toán, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước đồng thời ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo điểm a khoản 1 Điều 221 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, cần chấp nhận. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả; bị hại đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bản thân bị cáo có thành tích trong quá trình công tác được Ban chấp hành Trung ương tổng Hội xây dựng Việt Nam, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang, Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động tỉnh Tuyên Quang tặng Bằng khen; bố đẻ bị cáo là ông Lê Quang S được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất; mẹ đẻ bị cáo là bà Sử Thị G được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Do vậy bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s, điểm v khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Lê Đức M phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Lê Đức M 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 02 (hai) năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. |
52 – 62 |
… CÒN TIẾP |
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ KẾ TOÁN GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG
—————
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn