Feel free to go with the truth

Trang chủ / Kinh doanh & Thương mại / TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI GIỮA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI

TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI GIỮA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI GIỮA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI” do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI GIỮA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI

STT

TÊN BẢN ÁN

TRANG

Quyết định 16/2019/QĐKDTM – ST ngày 27/11/2019 Tòa án TP. Đà Nẵng

V/v Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài

Nội dung vụ án: Công ty U (Người yêu cầu) tại Philippines và Công ty Thép D (có trụ sở tại Việt Nam) Ký hợp đồng mua bán 6000 tấn thép ngày 12/06/2017 với giá trị hợp đồng là 2.430.000.000 USD. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Thép D không giao hàng theo đúng số lượng, thời hạn ghi trong Hợp đồng mua bán. Công ty U đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án Trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc tế (ICC). ICC đã ta phán quyết yêu cầu Công ty Thép D bồi thường các thiệt hại mà Công ty U yêu cầu.

Nay Công ty U yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Tòa án Trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc tế (ICC)

Nhận định của Tòa án: Xét nội dung phán quyết phù hợp với pháp luật nội dung của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhận định này là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 34 và khoản 1 Điều 37 Luật Thương mại. Phán quyết buộc Công ty D phải bồi thường thiệt hại do hành vi không thực hiện hợp đồng, giá trị bồi thường bằng giá trị khắc phục thiệt hại bằng phương thức mua bù đắp hàng hóa tương tự, với khối lượng nhỏ hơn, giá thành gần tương đương là phù hợp với khoản 2 Điều 41, 300, 301 và 302 Luật Thương mại.

Quyết định: Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết Hồ sơ vụ kiện số 23329/PTA/ASB/HTG ngày 19/10/2018 và Phụ lục của Phán quyết 23329/PTA/ASB/HTG ngày 11/12/2018 của Tòa án Trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc tế (ICC) về việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng mua bán phôi thép cao cấp số DNY-UNI-12.06.2017 ngày 12/6/2017 được ký kết giữa Công ty U, địa chỉ: Punturin, Thành phố Valenzuela, Philippines với Công ty Cổ phần Thép D, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam.

1 – 6

Bản án số: 52/2019/KDTMPT ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Tòa án Cấp cao TP. HCM

V/v “Tranh chấp về quyền sở hữu doanh nghiệp và sở hữu dự án theo hợp đồng liên doanh”

Nội dung vụ án: Công ty Công ty cổ phần Phát triển và Kinh doanh N (gọi tắt là HDT) cùng 2 công ty nước ngoài là Công ty P&D và Công ty LVC ký hợp đồng liên doanh thành lập Công ty TNHH Quy hoạch và Phát triển Nhà Việt Nam – Hàn Quốc (gọi tắt là VK H) để thực hiện dự án là Khu nhà ở cao tầng The Mark. Ngày 30/8/2007 UBND TP. Hà Nội cấp giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) về việc thành lập Công ty VK H. Dự án chưa được thực hiện thì P&D và LVC bị Tòa án Hàn Quốc tuyên bố phá sản. Quản tài viên được Tòa án Hàn Quốc chỉ định đã nhân danh Công ty P&D và Công ty LVC, chuyển nhượng toàn bộ vốn của 2 công ty trong Công ty VK H cho Công ty DWS. Cho rằng việc chuyển nhượng phần vốn góp của P&D và LVC cho DWS đã vi phạm thỏa thuận của các bên tại hợp đồng liên doanh và quy định của Luật Doanh nghiệp về quyền ưu tiên mua của HDT. Bản án tại Hàn Quốc chưa được Tòa án Việt Nam công nhận và thi hành nên Công ty HDT khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng liên doanh ngày 10/3/2007 giữa nguyên đơn với P&D và LVC về việc thành lập VK H đồng thời yêu cầu Tòa án buộc P&D và LVC mỗi công ty phải thanh toán cho nguyên đơn 1.000.000 USD tiền phạt với lý do đã vi phạm hợp đồng liên doanh ngày 10/3/2007.Hủy GCNĐT được cấp lần 2 có sự tham gia của Công ty DWS.

Bản án Sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty HDT về việc yêu cầu Tòa án không công nhận các hợp đồng chuyển nhượng vốn góp tại Công ty VK H cho DWS. Hủy bỏ các quyết định hành chính liên quan tới thay đổi quyền sở hữu góp vốn tại VK H.

Bản án trên bị Công ty VK H và Công ty DWS kháng cáo.

Nhận định của Tòa án Phúc thẩm: Công ty P&D và Công ty LVC bị tuyên bố phá sản, chuyển nhượng vốn góp nhưng không yêu cầu Công ty VK H mua lại phần vốn góp và cũng không chào bán cho thành viên còn lại là HDT, vi phạm Điều lệ VK.Housing và Luật doanh nghiệp, là không đủ điều kiện để chuyển nhượng vốn góp cho người không phải là thành viên là DWS. Do không đủ điều kiện, không có quyền chuyển nhượng nên hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày 16/3/2016 giữa Công ty P&D với DWS và giữa Công ty LVC với DWS là hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 128 Bộ Luật dân sự 2005 nay là Điều 123 Bộ luật dân sự 2015.

Quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty HDT về việc yêu cầu Tòa án không công nhận các hợp đồng chuyển nhượng vốn góp tại Công ty VK H cho DWS. Hủy bỏ các quyết định hành chính liên quan tới thay đổi quyền sở hữu góp vốn tại VK H.

8 – 23

Quyết định số 05/2017/QĐKDTM- ST ngày 21/07/2017 Tòa án TP. Hà Nội

“V/v: Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài

Nội dung vụ án: Công ty GI (bên được thi hành) và Công ty CP T đã ký hợp đồng về việc mua bán than cốc Úc, Bên được thi hành nhất trí bán và Bên phải thi hành nhất trí mua và nhận bàn giao 50.000 tấn than cốc sạch Oaky Creek của Úc, +/-10% sai số do vận chuyển. Do Công ty CP T đã vi phạm hợp đồng khi không đảm bảo mở Thư tín dụng như yêu cầu trong Hợp Đồng. Theo đó, đã thoái thác, từ chối nhận nợ và thanh toán cho hàng hóa được bán theo Hợp đồng nên Công ty GI đã đưa tranh chấp ra SIAC giải quyết. Hội đồng trọng tài đã quyết định Bên phải thi hành phải chịu trách nhiệm về tất cả thiệt hại và mất mát xảy ra do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng.

Nay Công ty GI yêu cầu Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng tài của SIAC.

Nhận định của Tòa án: Thủ tục giải quyết tranh chấp vụ kiện của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore là đúng với Quy tắc SIAC. Đồng thời Quyết định của Phán quyết một phần số 060 năm 2016 ngày 16/5/2016 và Phán quyết cuối cùng số 101 năm 2016 ngày 31/08/2018 không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Do đó, Hội đồng phiên họp có căn cứ để công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài quốc tế Singapore.

Quyết định: Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết một phần số 060 năm 2016 ngày 16/5/2016 và Phán quyết cuối cùng số 101 năm 2016 ngày 31/08/2018 của Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) tại Việt Nam.

05 – 31

Bản án số: 27/2017/KDTM-PT ngày 21 tháng 7 năm 2017

 V/v: “Tranh chấp hợp đồng đầu tư và hợp đồng kinh tế”

Nội dung vụ án: Công ty LRIL là công ty tại Anh (Nguyên đơn) và Công ty CP VLL (Bị đơn) ký Hợp đồng kinh tế ngày 27-8-2008, về việc hợp tác thành lập một liên doanh là để đầu tư và xây dựng khu đô thị mới NTP. Vốn của liên doanh là 1.344.000.000 đồng, trong đó LRIL sẽ góp 1.008.000.000.000 đồng, chiếm tỷ lệ 75% vốn điều lệ; Công ty CP VLA sẽ góp 336.000.000.000 đồng, chiếm tỷ lệ 25% vốn điều lệ. Ngày 25-9-2008, LRIL và Công ty CP VLA (gọi tắt là Công ty VLA) ký Hợp đồng liên doanh thành lập Công ty TNHH NLQ1 (gọi tắt là NLQ1). Căn cứ thỏa thuận, Công ty VLL đã chuyển 255.744.000.000 đồng cho bị đơn để tiến hành bồi thường, giải phóng mặt bằng, do Bị đơn không hoàn thành nghĩa vụ thu xếp để có được chấp thuận quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 của các cơ quan hữu quan ở Việt Nam. Do đó, nguyên đơn và Công ty VLL không xác định được diện tích đất mà bị đơn đã bồi thường, giải phóng mặt bằng. Sau đó dự án này đã bị UBND TP. HCM thu hồi giấy chứng nhận đầu tư. Do vậy nguyên đơn đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền Nguyên đơn đã góp theo Hợp đồng nêu trên.

Bản án Sơ thẩm tuyên: Ghi nhận thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt thực hiện Hợp đồng kinh tế ngày 27-8-2008 và Hợp đồng liên doanh ngày 25-9-2008 ký giữa LRIL và Công ty CP VLA. Ghi nhận thiện chí của Công ty CP VLA có trách nhiệm chuyển trả số tiền 255.744.000.000 đồng (hai trăm năm mươi năm tỷ bảy trăm bốn mươi bốn triệu  đồng) cho LRIL.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn: LRIL phải trả cho Công ty CP VLA tiền phạt vi phạm do không thực hiện một phần hợp đồng là 15.045.120.000 đồng.

Công ty LRIL kháng cáo án sơ thẩm

Nhận định của Tòa án Phúc thẩm: Xét nội dung của L về thời hạn chuyển trả tiền thì thấy: Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện cho L không có thỏa thuận hay cam kết gì với Công ty VLA về thời hạn thanh toán số tiền nợ trên. Tòa án cấp sơ thẩm ấn định thời hạn để Công ty VLA trả cho L “…khi dự án đầu tư, xây dựng, phát triển, khai thác bán, cho thuê khu dân cư nhà ở… được đền bù xong và đưa vào kinh doanh thì Công ty VLA ưu tiên trả cho L trước”. Tuyên như án sơ thẩm là trái với ý chí của L vì L không có thỏa thuận nội dung này. Mặt khác, tuyên như vậy không phù hợp với Luật Thi hành án dân sự vì trong quá trình thi hành án các bên có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án. Tòa án không có quyền tuyên thời 15 gian và điều kiện để thi hành án nếu hai bên không có thỏa thuận. Do đó, chấp nhận yêu cầu của L về nội dung này.

Quyết định: 1/Ghi nhân sự thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt thực hiện hợp đồng kinh tế ngày 27/8/2008 và hợp đồng liên doanh ngày 25/9/2009 ký giữa LRIL và Công ty CP VLA.

2/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Buộc Công ty CP VLA có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền

255.744.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi lăm tỷ bảy trăm bốn mươi bốn triệu đồng) cho LRIL.

3/ Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi Công ty CP VLA trả lãi tiền phạt chậm thanh toán số tiền 1.854.144.000 đồng.

32 – 47

Bản án 84/2017/KDTM-PT ngày 30/03/2017 của Tòa Cấp cao Hà Nội

V/v: về Phán quyết Trọng tài thương mại

Nội dung vụ án: Công ty N tại Việt Nam và Công ty G tại Anh có ký kết 03 Hợp đồng mua bán hàng hóa. Công ty N cho rằng hợp đồng thứ nhất số 669229 không tồn tại do không có chữ ký của Công ty N, hợp đồng thứ 2 do công G không hợp tác nên Công ty N không mở được L/C nên không thể thực hiện. Trọng tài Hiệp hội B quốc tế đã gửi các thông báo, văn bản sai địa chỉ nên Công ty N không nhận được bất cứ tài liệu nào. Hội đồng Trọng tài Hiệp hội B Quốc tế đã giải quyết tranh chấp và có phán quyết đồng ý với yêu cầu của Công ty G, yêu cầu Công ty N thanh toán 1.554.439,29 USD bao gồm nợ gốc và lãi của 3 hợp đồng.

Tại Quyết định thương mại Sơ thẩm số 01/2016/QĐKDTM-ST: Không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định ngày 12/8/2013 của Hội đồng trọng tài Hiệp hội B quốc tế giải quyết vụ tranh chấp các hợp đồng mua bán bông của Công ty G với Công ty N.

Công ty G có đơn kháng cáo.

Nhận định của Tòa án Phúc thẩm: Công ty N không ký vào hợp này nên thỏa thuận trong tài trong hợp đồng này không có giá trị pháp lý đối với Công ty N. Thỏa thuận này không đảm bảo sự tự nguyện về ý chí và không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nên không có căn cứ buộc Công ty N phải thi hành quyết định của Trọng tài Hiệp hội B quốc tế đối với hợp đồng này. Các tài liệu công ty G cung cấp là bản sao và chỉ có bưu phẩm gửi ngày 13/8/2013 là có người nhận tên Sơn còn lại 7 bưu phẩm khác không có tên người nhận. Theo danh sách người đóng bảo hiểm của Công ty N do bên yêu cầu thu thập và xuất trình (tài liệu phô tô, không xác nhận của cơ quan) tại phiên họp phúc thẩm thì tại thời điểm năm 2012 và 2013, Công ty N có 2 người tên là S, một người là nhân viên bảo vệ và một người là công nhân. Vì vậy, trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại các phiên họp sơ thẩm và phúc thẩm, phía Công ty N đều khẳng định không nhận được các văn bản tố tụng của Hiệp hội B quốc tế là có căn cứ.

Quyết định: Không chấp nhận Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài ngày 12/8/2013 của Hội đồng trọng tài – Hiệp hội B quốc tế về giải quyết tranh chấp các hợp đồng mua bán bông giữa Công ty G.

48 – 52

Quyết định Giám đốc thẩm 26/2013/KDTM-GĐT ngày 13/08/2013 của Tòa án Tối Cao.

V/v vụ án tranh chấp hợp đồng dịch vụ

Nội dung vụ án: Công ty TNHH Orange Engineering có địa chỉ tại Hàn Quốc (Công ty Orange – Nguyên đơn) và Công ty Phú Mỹ (Bị đơn) ký Hợp đồng với nội dung công ty Phú Mỹ chỉ định Công ty Orange làm nhà thầu cung cấp dịch vụ thiết kế sân Golf với giá 400.000.000 KRW (tiền Won Hàn Quốc) được thanh toán thành 3 lần. Qúa trình thực hiện, Công ty Orange đã bàn giao CD và bộ bản vẽ chi tiết của Dự án theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng nhưng Công ty Phú Mỹ không tiến hành thanh toán lần 3. Công ty Phú Mỹ cho rằng CD và bản vẽ của Công ty Orange chưa hoàn chỉnh, không đảm bảo chất lượng và xem xét đến các yếu tố khí hậu tại Việt Nam nên không thanh toán. Công ty Orange khởi kiện yêu cầu Công ty Phú Mỹ thanh toán số tiền còn thiếu và lãi suất là số tiền 141.969 USD cùng lãi suất chậm thanh toán tính từ ngày 30/9/2007 đến ngày 31/12/2010 là 141.969 USD x 39 tháng x 12%/12 tháng = 55.367 USD.

Bản án Sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Orange là Chấm dứt hợp đồng dịch vụ giữa Orange Engineering và Công ty Phú Mỹ ngày 15/6/2007. Buộc Công ty Phú Mỹ thanh toán số tiền 3.720.448.347 đồng cho Công ty Orange.

Bản án Phúc thẩm tuyên: Giữ nguyên bản án sơ thẩm

Công ty Phú Mỹ có đơn đề nghị xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Nhận định của Tòa án Tối Cao: Tòa án Sơ thẩm xác định sai quan hệ tranh chấp, đây là tranh chấp hợp đồng dịch vụ trong hoạt động xây dựng. Công ty Orange nhận thầu tại Việt Nam nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thầu. Do đó, cần xem xét hiệu lực hợp đồng đã được ký kết giữa hai bên.

Quyết định: Hủy toàn bộ Bản phúc thẩm  và bản án sơ thẩm Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

53 – 58

Quyết định giám đốc thẩm 11/2013/KDTM-GĐT ngày 16/05/2013 của Tòa án nhân dân tối cao

V/v: vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp đồng tư vấn đầu tư

Nội dung vụ án: Công ty TNHH IS DONGSEO có trụ sở tại Hàn Quốc (Nguyên đơn) và Công ty Hoàng Lan (Bị đơn) ký kết hợp đồng tư vấn liên quan đến khu đất tại Lô E7, đường Phạm Hùng, Hà Nội mặc dù biết lô đất này đã dược phân cho một số nhà đầu tư khác, phí tư vấn là 1.000.000 USD. Công ty IS DONGSEO đã trực tiếp thanh toán 1.000.000 USD tiền mặt cho Bị đơn theo cam kết. Qúa trình thực hiện hợp đồng, bị đơn không thực hiện được cam kết, kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng mặc dù đã được Nguyên đơn gửi nhiều công văn nhắc nhở. Nguyên đơn đã ra thông báo chấm dứt hợp đồng với Bị đơn và yêu cầu thanh toán nhưng bị đơn không thực hiện.  Công ty Dongseo khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

–  Hủy bỏ Hợp đồng tư vấn đầu tư liên quan đến khu đất tại lô E7, Phạm Hùng, Hà Nội giữa Công ty Ilshin và Công ty Hoàng Lan.

–  Buộc Công ty Hoàng Lan hoàn trả 1.000.000 USD và tiền lãi chậm trả.

–  Buộc Công ty Hoàng Lan bồi thường thiệt hại vật chất 50.000.000 đồng và 5.400.000 đồng do tổn thất tinh thần.

Tòa án Sơ thẩm tuyên: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty DONGSEO tuyên Hủy Hợp đồng tư vấn đầu tư ký ngày 28/01/2008 giữa Công ty Hoàng Lan và Công ty ILSHIN; đồng thời, buộc Công ty Hoàng Lan phải hoàn trả cho Công ty DONGSEO 1.000.000 USD và phải chịu tiền lãi chậm trả của số tiền 1.000.000 USD là 20.000 USD (được quy đổi ra VND).

Tòa án Phúc thẩm tuyên: Giữ nguyên bản án Sơ thẩm.

Nhận định của Tòa án Tối cao: Cần làm rõ Công ty DONGSEO chuyển tiền vào Việt Nam đã đúng quy định hay chưa? việc nguyên đơn giao tiền mặt cho bị đơn là đã vi phạm pháp lệnh ngoại hối thì hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm quy định của Pháp lệnh ngoại hối và các khoản 1 và 3 Điều 6 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối, Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật. Ngoài ra việc công ty DONGSEO biết lô đất E7, đối tượng của Hợp đồng đã được phân cho các nhà đầu tư khác nên hợp đồng tư vấn đầu tư ký kêt ngày 28/01/2008 bị vô hiệu bởi có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự năm 2005. Lỗi ở đây thuộc về hai công ty.

Quyết định: Hủy bản án Sơ thẩm và Phúc thẩm. giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

59 – 65

Bản án 531/2007/KDTM-ST ngày 04/04/2007 Tòa án TP. Hồ Chí Minh

V/v tranh chấp giữa các thành viên công ty

Nội dung vụ án: Công ty United concord international có trụ sở tại Hoa Kỳ. (Nguyên đơn – gọi tắt là UCI) cùng Công ty Radiant investments limite (Bị đơn – Gọi tắt là RIL) và Tổng công ty xây dựng sài gòn (gọi tắt là SGC) ký Hợp đồng thành lập Công ty Khách sạn Grand Imperial Saigon (gọi tắt là GISH). Trong quá trình hoạt động, RIL và SGC đã ký các nghị quyết thay đổi chủ tịch hội đồng thành viên, cập nhật điều lệ và thay thế tổng giám đốc mà không được UCI đồng ý. UCI khởi kiện yêu cầu hủy hoặc không công nhận giá trị pháp lý của các nghị quyết trên.

Nhận định của Tòa án: Hình thức, các nghị quyết bằng văn bản mà các bên đang tranh chấp đã được ban hành hợp lệ, các vấn đề được đề cập trong các nghị quyết bằng văn bản mà các bên đang tranh chấp đều thuộc thẩm quyền quyết định của HĐQT của liên doanh. Về nội dung, các nghị quyết nói trên là hợp lệ, dù xét trên số lượng thành viên HĐQT theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hay trên vốn góp của các thành viên trong vốn điều lệ của công ty liên doanh (công ty TNHH) theo Luật doanh nghiệp năm 2005 thì các nghị quyết nói trên đã được HĐQT của GISH thông qua hợp lệ theo nguyên tắc đa số (8/10 thành viên và 81% vốn điều lệ). Nên quyết định này có hiệu lực pháp lý.

Quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi hủy bỏ hoặc không công nhận giá trị pháp lý của các nghị quyết về việc đăng ký lại để hoạt động theo Luật doanh nghiệp mới, chỉ định Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc mới của Công ty Khách sạn Grand Imperial Saigon TNHH và văn thư thông báo của đại diệnCông ty Radiant Investments Limited ký ngày 04/10/2006 liên quan đến các nghị quyết này.

66 – 76

Quyết định giám đốc thẩm 08/HĐTP-KT ngày 30/03/2005 Tòa án nhân dân tối cao

V/v vụ án tranh chấp hợp đồng gia công

Nội dung vụ án: Doanh nghiệp tư nhân Thành Phát (Nguyên đơn – Gọi tắt là Thành Phát) cùng Công ty Glass Tech International Inc có trụ sở tại Hoa Kỳ (Bị đơn – gọi lắt là GTI), có trụ sở tại Mỹ. Năm 1997, Thành Phát ký hợp đồng gia công kính nội thất cho GTI, thực hiện hợp đồng, hai bên đã ký thêm 09 phụ lục hợp đồng đã đăng ký Hải Quan tiếp nhận. Thành Phát đã tạm nhập – tái xuất 38 máy móc theo thỏa thuận, trước đó, GTI đã làm thủ tục tặng cho đại diện bên nguyên đơn 9 máy khác. Ngày 26/05/2001, Thành Phát thông báo ngừng hoạt động gia công vì lý do tài chính do GTI không thanh toán đúng theo phụ lục 09. Ngày 03/08/2001, hai bên thống nhất chấm dứt HĐ. GTI có quyết định số 01/QĐ thông báo chấm dứt hợp đồng số 02/TP-IN97 lý do vì Doanh nghiệp Thành Phát không giao hàng đúng hạn, nhiều vi phạm lao động và đốt huỷ tài liệu chứng từ (ngày 29-9-2001). Thành Phát sau đó nhiều lần yêu cầu GTI nhận hàng và thanh toán tiền gia công. GTI yêu cầu Doanh nghiệp Thành Phát giao hàng trước ngày 15-10-2002. Thành Phát khởi kiện đề nghị Tòa án thanh lý hợp đồng, GTI phải trả phí gia công còn thiếu Số tiền còn lại 96.446.10 USD và lãi từ ngày 26-5-2001 đến 31-5-2003 là 407.130.396đ. GTI phải bồi thường 204.306.000 đồng tiền thuê nhà và đào tạo công nhân.

Tòa án Sơ thẩm tuyên: Xác định HĐ được ký kết giữa hai bên có hiệu lực, 09 phụ lục HĐ vô hiệu. Buộc GTI phải mở L/C hoặc TTR để thanh toán phí gia công còn thiếu của Thành Phát là 58.191,90 USD (≈ 849.834.507 đồng).

Tòa án Phúc thẩm tuyên: Xác định hợp đồng và các phụ lục HĐ có hiệu lực và đã chấm dứt hiệu lực từ ngày 01-12-2001. Buộc Công ty GTI thanh toán cho 109.776,72 USD và bồi thường 119.306.000 đồng. 09 máy móc đã tặng cho thuộc sở hữu của Thành Phát.

Nhận định của Tòa án: Việc GTI đã không chuyển tiền cho Doanh nghiệp Thành Phát trước 30 ngày (trước khi xuất hàng) là vi phạm thoả thuận tại bản bổ sung phụ lục số 09. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến Doanh nghiệp Thành Phát lâm vào khó khăn tài chính, không tiếp tục tiến hành sản xuất được nên GTI phải chịu tránh nhiệm. Toà án cấp sơ thẩm cần điều tra làm rõ để xác định phía Doanh nghiệp Thành Phát có vi phạm hợp đồng hay không để xác định đúng mức độ lỗi của GTI. 09 máy móc mà nguyên đơn tặng bị đơn phải được giải quyết bằng vụ án dân sự khác nên Tòa án tuyên 9 máy này thuộc sở hữu của Nguyên đơn là không hợp lý.

Quyết định: Hủy bản án Sơ thẩm và Phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết, xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

77 – 83

Quyết định 11/2003/HĐTP-KT ngày 06/11/2003 của Tòa án nhân dân Tối cao

V/v: Tranh chấp hợp đồng liên doanh

Nội dung vụ án: Nguyên đơn Công ty Asia Investment and Trading (AIT) và Công ty Indesen (Hong Kong) cùng với ký hợp đồng với Bị đơn là Công ty vàng bạc đá quý thành phố Hồ Chí Minh (SJC) để liên doanh thành lập Công ty liên doanh sản xuất băng từ Sài Gòn (Công ty SG). Hợp đồng đã được Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cấp Giấy phép đầu tư số 648/GP. Bên nguyên đơn góp vốn 55% bên SJC góp vốn 45% gồm quyền sử dụng đất trong 4,5 năm đầu và một phần máy móc thiết bị. Do hoạt động thu lỗ nên Công ty SG được giải thể trước thời hạn. ký “Bảng phân chia tài sản” của Công ty liên doanh, đã thành lập Bna thanh lý nhưng bảng phân chia tài sản này không thực hiện được. Bên Nguyên đơn đã nhiều lần gửi đơn khiếu nại tới cơ quan nhà nước nhưng không được giải quyết.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu: Thực hiện Bảng phân chia tài sản, Quyền sử dụng đất 4.280m2 tại 418/1C Nơ Trang Long, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh là tài sản của liên doanh chưa được chia, nay cần được chia cho các bên; Công ty SG phải thanh toán các khoản nợ lương, BHXH … cho ông Hưng – Nguyên Giám đốc công ty. Công ty SG thanh toán cho Công ty Indesen tiền hàng là 13.081,95 USD. SJC bồi thường số tiền là 453.740,21 USD cho Nguyên đơn do chậm bài giao tài sản gây thiệt hại.

Tòa án Sơn thẩm tuyên: Bác các yêu cầu của nguyên đơn

Bản án Phúc thẩm tuyên: giữ nguyên bản án Sơ thẩm

Nhận định của Tòa án: Việc Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm nhận định hợp đồng liên doanh chưa được các bên thanh lý xong, quá trình thanh lý không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật cho nên buộc các bên phải tiến hành thanh lý lại; nếu các bên không thoả thuận được thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết trong vụ án khác; từ đó bác các yêu cầu của nguyên đơn là không đúng và không phù hợp với thực tế vụ án. Theo đơn khiếu nại Nguyên đơn thì những vấn đề phức tạp nhất như giá trị quyền sử dụng đất, các khoản nợ lương, bảo hiểm xã hội và các khoản nợ khác liên quan đến nội dung thanh lý các bên vẫn chưa thống nhất thực hiện được. , việc giữ nguyên hiệu lực của Bản án kinh tế phúc thẩm số 50/KTPT ngày 09-12-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao TP.Hồ Chí Minh như đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao sẽ không giải quyết được dứt điểm các tranh chấp giữa các bên.

Quyết định: Hủy bản án Sơ thẩm và bản án Phúc Thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.

84 – 89

XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI VỚI DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng:

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế:

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL

Bài viết liên quan