Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 10 bản án, quyết định giám đốc về việc tranh chấp giữa người việt nam ở nước ngoài đòi lại tài sản nhờ người ở trong nước đứng tên mà quá trình giải quyết có yêu cầu phản tố

Tổng hợp 10 bản án, quyết định giám đốc về việc tranh chấp giữa người việt nam ở nước ngoài đòi lại tài sản nhờ người ở trong nước đứng tên mà quá trình giải quyết có yêu cầu phản tố

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 10 bản án, quyết định giám đốc về việc tranh chấp giữa người việt nam ở nước ngoài đòi lại tài sản nhờ người ở trong nước đứng tên mà quá trình giải quyết có yêu cầu phản tố” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 10 bản án, quyết định giám đốc về việc tranh chấp giữa người việt nam ở nước ngoài đòi lại tài sản nhờ người ở trong nước đứng tên mà quá trình giải quyết có yêu cầu phản tố

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

  1. 1
Bản án 223/2020/DS-PT ngày 10/07/2020 Tòa án Nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

V/v“về tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”

Nội dung vụ án:

Ông Nguyễn Văn S là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và là bạn bè quen biết với bà Nguyễn Thùy V, ông Lý Huy C từ năm 2000. Và đã đề nghị ông C, bà V tìm hiểu và đứng tên mua dùm ông S một căn nhà tại Bình Dương để ông S khi về Việt Nam có nơi sinh sống và làm việc. Ông C, bà V đồng ý đề nghị này của ông S. Năm 2014, ông C, bà V thông báo với ông S rằng họ đang thương thảo với chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở và sẽ đứng tên mua giùm ông S một căn trong một khu dân cư có giá trị khoảng 1.000.000.000 đồng. Ông S đã đồng ý với phương án này. Sau đó, ông S đã đưa cho ông C, bà V số tiền 45.000 USD, chính là tiền để mua căn nhà và quyền sử dụng đất. Ngược lại, ông C, bà V đã trao lại cho ông S 01 giấy xác nhận có chữ ký của họ, trong đó nêu rõ: Ông C, bà V chỉ là người đứng tên nhà giùm ông S.

Sau một thời gian làm việc thì giữa ông S và ông C, bà V xảy ra mâu thuẫn với nhau. Đến tháng 01/2017, ông C, bà V đơn phương không cho ông S vào làm việc tại Công ty cổ phần D, đồng thời, ông C, bà V yêu cầu ông S phải trả lại căn nhà và quyền sử dụng đất mà ông S đã nhờ ông C, bà V đứng tên giùm. Ông S không đồng ý nên tranh chấp xảy ra. Do đó, ông S khởi kiện.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S về việc buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải bồi thường thiệt hại cho ông S do hành vi trái pháp luật của ông C, bà V gây ra với số tiền 200.000.000 đồng.

Đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu phản tố của ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V về việc:

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Ngày 07/3/2014, ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V ký kết hợp đồng mua bán và nhận bàn giao căn nhà 35E3 khu biệt thự P với Công ty cổ phần B. Ông Nguyễn Văn S cho rằng do ông là người nước ngoài, không thể đứng tên nhà đất tại Việt Nam nên đã nhờ vợ chồng ông C, bà V đứng tên giùm. Sau khi nhận bàn giao nhà, ông C, bà V không ở trong căn nhà này mà giao cho ông S sử dụng. Ông C, bà V cho rằng chỉ cho ông S ở nhờ nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh về việc cho ở nhờ. Ông S thực tế đã cư trú tại căn nhà từ tháng 8/2016. Sau đó, đến ngày 14/10/2016, ông C, bà V lập giấy xác nhận có nội dung xác định ông bà đã đứng tên nhà giùm ông Nguyễn Văn S, cụ thể “Địa chỉ ngôi nhà chúng tôi đứng hộ là: 35E – KP6 – P P1 – TX Th Việt Nam (Khu dân dư P)”.

Ông C, bà V cho rằng việc xác nhận đứng tên giùm căn nhà nhằm mục đích để ông S làm chứng minh nhân dân, hộ khẩu tại Việt Nam, hoàn thiện thủ tục hồi hương; đồng thời địa chỉ nhà trong giấy xác nhận cũng không chính xác. Hội đồng xét xử xét thấy, lý do ông C, bà V đưa ra là không có căn cứ vì thực tế không có quy định nào buộc người Việt Nam định cư tại nước ngoài phải sở hữu nhà ở tại Việt Nam mới được làm chứng minh nhân dân, nhập hộ khẩu tại Việt Nam. Hơn nữa, nếu cho rằng cần thiết phải có nhà ở tại Việt Nam mới được làm hộ khẩu thì cũng không thể chỉ dựa trên giấy xác nhận của ông C, bà V lập mà bắt buộc ông S phải có tên trong hợp đồng mua bán nhà ở hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà. Thực tế cũng không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh việc ông S đang thực hiện việc nhập hộ khẩu tại Việt Nam.

Đối với sai sót về địa chỉ căn nhà nêu trong giấy xác nhận, Hội đồng xét xử thấy rằng do lỗi đánh máy hoặc vì một lý do nào khác nên dẫn đến việc ghi nhầm số nhà “35E3” thành “35E”. Ngoài lỗi này thì văn bản cũng có nhiều lỗi chính tả khác, thể hiện sự cẩu thả trong việc lập văn bản. Thực tế khu dân cư P không có căn nhà mang số “35E, khu phố 6”, chỉ có căn nhà “35E3, khu phố 6”.

Việc ông C, bà V ký văn bản xác nhận là tự nguyện, không bị ép buộc, do đó có căn cứ để xác định căn nhà 35E3 khu biệt thự P thuộc quyền sở hữu của ông S, nhờ ông C, bà V đứng tên giùm.

Ngoài vụ án này, giữa ông S và ông C, bà V còn có tranh chấp việc góp vốn Công ty, đã được Tòa án giải quết.

Việc ông S chuyển tiền cho bà V cho thấy lời trình bày của ông S cho rằng do có mối quan hệ thân quen từ trước nên ông S chuyển tiền cho bà V để góp vốn thành lập công ty và mua nhà ở Việt Nam là có thật.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ xác định nhà đất tọa lạc tại số 35E3 khu biệt thự P, do ông Nguyễn Văn S bỏ tiền ra mua, nhờ ông C, bà V đứng tên giùm trên hợp đồng mua bán nhà. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn S là người nước ngoài, hiện không sinh sống tại Việt Nam nên cần giao nhà đất cho ông C, bà V quản lý sử dụng; buộc ông C, bà V trả lại giá trị quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất cho ông S.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 

1/. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S về việc buộc ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V phải bồi thường thiệt hại cho ông S do hành vi trái pháp luật của ông C, bà V gây ra với số tiền 200.000.000 đồng.

2/. Đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu phản tố của ông Lý Huy C, bà Nguyễn Thùy V về việc.

1-11

  1. 2
Bản án số: 62/2020/DS-PT ngày: 18/12/2020 Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

V/v: “Kiện đòi tài sản và tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên

bố văn bản công chứng vô hiệu”

Nội dung vụ án:

Do bà P đang làm việc ở nước ngoài, nên bà P có nhờ vợ chồng ông Tr, bà T đứng tên chủ quyền nhà và đất giúp bà. Việc thỏa thuận nhờ đứng tên chủ quyền tài sản  được lập thành “Bản cam kết” và được công chứng. Cụ thể, bà P xuất tiền để ông Tr bà T nhận chuyển nhượng giúp thửa đất số 74 và đăng ký thay đổi sang tên ông Tr bà T ngày 02/3/2012. Sau khi mua nhà và đất nói trên, bà P đã nhờ ông Th đứng ra tiến hành xây dựng nhà trên đất. Sau đó, bà P thỏa thuận với ông Tr bà T thế chấp tài sản nhà và đất cho Ngân hàng S1 chi nhánh Đắk Lắk, phòng giao dịch Thành phố B để vay số tiền là 4.500.000.000 đồng, thời hạn vay là 15 năm. Do có nhu cầu bán nhà đất để trả nợ, bà P thỏa thuận với ông Tr bà T bán căn nhà và đất nói trên cho vợ chồng ông Huỳnh Phi H2 và bà Trần Thị Thu H3 với giá tiền là 6.650.000.000 đồng. Phía ông H2 bà H3 trả trước số tiền 3.725.000.000 đồng, để ông Tr bà T trả cho ngân hàng S1 lấy GCNQSDĐ ra để lập thủ tục chuyển nhượng. Sau khi lấy GCNQSDĐ từ ngân hàng S1 ra, thì ông H2 bà H3 phải trả hết số tiền còn lại là 2.925.000.000 đồng cho bà T ông Tr. Thực hiện thỏa thuận nói trên, sau khi lấy GCNQSDĐ từ ngân hàng, bà T ông Tr đã đăng ký xóa thế chấp và lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông H2 bà H3. Ông H2 bà H3 đã trả hết tiền còn lại và bà T đã ký nhận của ông H2, bà H3 số tiền 2.925.000.000 đồng. Hiện nay hợp đồng chuyển nhượng cho ông H2 bà H3 đã hoàn thành, ông H2 bà H3 đã nhận nhà ở, phía bà T đã nhận tiền chuyển nhượng đầy đủ nhưng đến nay bà T ông Tr không giao trả cho bà P số tiền nói trên theo thỏa thuận và cam kết.

Đối với yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Xuân T bà Phạm Thị Bích C có ý kiến như sau:

– Việc bà T yêu cầu Toà án tuyên vô hiệu “Giấy cam kết” ngày 05/12/2012 của phòng công chứng số Y tỉnh Đắk Lắk là không đúng theo quy định của pháp luật

– Bà T cho rằng vợ chồng bà T đã bỏ số tiền 3.200.000.000 đồng để xây dựng căn nhà 6 tầng. Công trình đã được UBND Thành phố B cấp giấy phép xây dựng số 04/GPXD và được lập Biên bản xác nhận công trình hoàn thành số là không có căn cứ.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1/ Đình chỉ một phần đơn khởi kiện của bà Lê Thị Kim P đối với số tiền 2.425.000.000 đồng.

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Kim P. Buộc ông Phan Hải Tr, bà Nguyễn Thị Xuân T phải trả cho bà Lê Thị Kim P số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng).

3/ Đình chỉ đối với đơn kiện phản tố của bà Nguyễn Thị Xuân T về việc buộc bà Lê Thị Kim P phải trả cho ông Phan Hải Tr, bà Nguyễn Thị Xuân T số tiên 3.200.000.000 đồng và yêu cầu tuyên bố Giấy cam kết ngày 05/12/2012 của Văn phòng công chứng số Y Đắk Lắk vô hiệu.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà C xác định thực tế bà T ông Tr chỉ còn nợ bà P số tiền 500.000.000 đồng nên bà C, bà P cũng xin rút một phần yêu cầu khởi kiện và chỉ yêu cầu bà T ông Tr trả cho bà P số tiền 500.000.000 đồng. Do việc rút một phần đơn khởi kiện của bà C, bà P là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận và đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà P đối với số tiền 2.425.000.000 đồng là đúng pháp luật.

Đối với Đơn phản tố của bà Nguyễn Thị Xuân T về việc yêu cầu bà Lê Thị Kim P trả cho bà T ông Tr số tiền 3.200.000.000 đồng mà Ông Bà bỏ ra xây dựng nhà và yêu cầu tuyên bố Bản cam kết ngày 05/12/2012 của Văn phòng công chứng số Y Đắk Lắk vô hiệu, nhưng ngày 07/9/2020 bà T có đơn rút yêu cầu phản tố. Hội đồng xét xử xét thấy việc bà T tự nguyện rút yêu cầu phản tố là hoàn toàn tự nguyên, phù hợp với quy định của pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Xuân T, là đúng quy định pháp luật.

Từ các nhận định, phân tích ở trên thấy quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ, trình tự thủ tục tố tụng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của bị đơn về việc yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 

1/ Đình chỉ một phần đơn khởi kiện của bà Lê Thị Kim P đối với số tiền 2.425.000.000 đồng.

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Kim P. Buộc ông Phan Hải Tr, bà Nguyễn Thị Xuân T phải trả cho bà Lê Thị Kim P số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng)

3/ Đình chỉ đối với đơn kiện phản tố của bà Nguyễn Thị Xuân T về việc buộc bà Lê Thị Kim P phải trả cho ông Phan Hải Tr, bà Nguyễn Thị Xuân T số tiên 3.200.000.000 đồng (ba tỷ hai trăm triệu) và yêu cầu tuyên bố Giấy cam kết ngày 05/12/2012 của Văn phòng công chứng số Y Đắk Lắk vô hiệu.

12-22

  1. 3
Bản án: 579/2022/DS-PT ngày 26/8/2022 Tòa án Nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

V/v: “Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất”.

Nội dung vụ án:

Năm 1997 ông L mang tiền về Việt Nam 13.500 đô la Mỹ nhờ em rể là ông Phan Huy C nhận chuyển nhượng đất của ông Nguyễn Văn D và nhờ em ruột là bị đơn bà Nguyễn Thị S đứng tên hộ với diện tích đất là 8.170m2 tại thửa 225, tờ bản đồ số 07 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00739/QSDĐ. Sau khi nhận chuyển nhượng xong, thì phần đất bỏ trống có cây tạp, năm 2005, ông L có nhờ vợ chồng em vợ ông là bà Nguyễn Thị S và ông Trần Minh T1 sang trông coi giữ đất và trồng cây trên đất. Hàng tháng ông gửi tiền về khoảng 200 đô la Mỹ cho vợ chồng ông T1 để chăm sóc trồng trọt cây cối. Ngoài phần đất này ra thì ông L có nhờ bà S nhận chuyển nhượng từ ông D phần đất với diện tích khoảng 500m2 (liền kề với phần đất thửa 225) để đi vô thửa đất 225 với giá 2.000 đô la Mỹ, khoảng 20.000.000 đồng. Phần đất này nhận chuyển nhượng giấy tay, chưa có giấy hiện bà S đăng ký kê khai tại sổ mục kê. Nay ông L có ý định hồi hương về Việt Nam sinh sống nên yêu cầu bị đơn là bà S trả lại toàn bộ hai phần đất nêu trên để ông quản lý sử dụng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị S – có đại diện hợp pháp là ông Phạm Xuân T có ý kiến và yêu cầu phản tố như sau:

Năm 1997, bà Nguyễn Thị S nhận chuyển nhượng phần đất có diện tích 8.170m2 tại thửa 225, tờ bản đồ số 07 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00739/QSDĐ do Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ (cũ) cấp ngày 14/7/1997 cho bà Nguyễn Thị S từ ông Nguyễn Văn D. Sau khi nhận chuyển nhượng bà đã tiến hành trồng cây và xây nhà, đến năm 2013, vợ chồng ông Trần Minh T1 và bà

Nguyễn Thị S không có chỗ ở và liên hệ với bà để xin cho ở nhờ và có lập văn bản thỏa thuận ngày 11/9/2013 có công chứng. Tiếp theo, năm 1998, bà có nhận chuyển nhượng đất của ông D thêm diện tích tại thửa 193 nhưng ông D chưa được cấp giấy diện tích khoảng 300m2. Nay với yêu cầu khởi kiện của ông L, bà không đồng ý mà có yêu cầu phản tố: công nhận chia cho bà giá trị thửa đất số 225 và toàn bộ cây trồng trên đất. Đối với phần đất liền kề thửa 225 là thửa 193 bà yêu cầu công nhận cho bà, trường hợp ông L nhận đất thì phải trả giá trị đất cho bà.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành L.

2/ Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị S.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí xem xét thẩm định, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Xét yêu cầu kháng cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Đối với diện tích 8.008,6m2 nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00739/QSDĐ. Mặc dù ông Nguyễn Thành L không có chứng cứ trực tiếp như giấy tờ thể hiện chuyển tiền hay văn bản thỏa thuận nhờ bà Nguyễn Thị S đứng tên trên Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất của thửa đất tranh chấp nêu trên. Tuy nhiên xét lời trình bày của nguyên đơn được những người làm chứng là Ông C, ông Q là người có đất kế đất ông D giới thiệu cho Ông C tìm đất cho ông L. Đồng thời những lời trình bày của những người em của ông L cũng là em của bà S đều cho rằng ông L gửi tiền về cho Ông C nhận chuyển nhượng cho ông L. Những lời trình bày này hoàn toàn phù hợp với lời trình bày của những người liên quan là vợ chồng ông Trần Minh T1, bà Nguyễn Thị S cho rằng chính ông L là người bảo vợ chồng ông, bà qua chăm sóc phần đất trên. Ngoài ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bà Nguyễn Thị S mặc dù luôn phủ định lời khai của nguyên đơn, nhưng lại đồng ý chia 50% giá trị đất cho ông L. Do đó cấp sơ thẩm xác định phần đất thửa thuộc thửa 225 là do ông L gửi tiền về nhận chuyển nhượng đất và nhờ bà S đứng tên hộ là có căn cứ. Ông Nguyễn Thành L là người có 02 quốc tịch Việt Nam và Hoa Kỳ, do đó Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ buộc bà Nguyễn Thị S phải giao đất cho ông L vì ông L là người đủ điều kiện được giao đất theo quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với phần đất tại thửa 193, diện tích thực tế 259,6m2 , loại đất CLN: Nguyên đơn cũng cho rằng nhờ bà S nhận chuyển nhượng, quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm xác định thửa đất này ông D chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông D chuyển nhượng cho bà S là giấy tay, bà S đã kê khai phần đất này nhưng hiện nay cũng chưa có Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất. Những người làm chứng không có lời khai gì về phần đất nhận chuyển nhượng của thửa đất này và phần đất này, nên Tòa sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành L.

2/ Buộc ông Nguyễn Thành L có nghĩa vụ trả lại giá trị đất cho bà S đối với phần diện tích đất 259,6m2 tại thửa 193, loại đất CLN với giá trị 142.780.000 đồng.

23-31

  1. 4
Bản án số: 116/2019/DS-PT ngày 30/7/2019 Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

V/v: “Đòi lại nhà đất; yêu cầu hủy hợp đồng cho thuê nhà đất; yêu cầu trả tiền có được do cho thuê tài sản của người khác”

Nội dung vụ án:

Nhà, đất tại số 41 do cha mẹ ông Hoàng Minh T là cụ Hoàng Công Kh1 (chết ngày 20/6/2011) và cụ Nguyễn Thị Kh2 (chết ngày 24/02/2008) tạo lập, được cấp Sổ chứng nhận sở hữu nhà số 389/94/CNSHN. Năm 1991, cụ Kh1 định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1994, cụ Kh2 cũng sang Hoa Kỳ sinh sống. Trước khi sang Hoa Kỳ, cụ Kh2 có lập “Giấy ủy quyền” ngày 07/7/1994 ủy quyền cho ông Nguyễn Đình H1 tạm thời quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên; đồng thời, cụ Kh2 cũng cho một số người thuê nhà và nhờ ông H1 thu tiền thuê nhà, đóng thuế, quản lý sửa chữa, làm báo cáo tài chính và gửi số tiền cho thuê nhà còn lại sang Hoa Kỳ cho cụ Kh2. Sau khi cụ Kh1 và cụ Kh2 chết, ông T là người thừa kế hợp pháp nên được sở hữu tài sản nêu trên. Ông T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 3 đối với nhà đất nêu trên. Ông T phát hiện ông H1 và vợ là bà Đào Thị Th tự ý cho thuê nhà và giả mạo danh nghĩa chủ nhà ký hợp đồng cho Bà Nguyễn Thị H2 thuê nhà để kinh 4 doanh làm tiệm giày PA và PT. Việc ông H1, bà Th tự ý cho thuê nhà như vậy là vi phạm nội dung giấy ủy quyền mà bà Kh2 đã ủy quyền cho ông H1. Hiện nay, ông T được biết, ngoài bà H2 thì ông H1, bà Th còn tự ý cho nhiều người khác thuê nhà nữa. Ông T đã yêu cầu ông H1, bà Th báo cáo tài chính, thanh lý và chuyển giao các hợp đồng thuê nhà cho ông, trả lại nhà đất cho ông nhưng ông H1, bà Th tìm cách thoái thác, không trả lại tài sản cho ông. Vì vậy, ông T khởi kiện.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1/ Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Nguyễn Đình H1 về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại nhà, đất.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Xét kháng cáo của ông Nguyễn Đình H1 yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho ông Hoàng Minh T ngày 09/5/2013: Xét thấy, trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho ông T có Giấy xác nhận số 59/XNNG/2012 ngày 30/7/2012 của Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco, Hoa Kỳ xác nhận ông Hoàng Minh T là người có nguồn gốc Việt Nam và Giấy miễn thị thực do Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco, Hoa Kỳ cấp ngày 30/7/2012 cho ông Hoàng Minh T có nội dung “được nhập cảnh nhiều lần” và “mỗi lần nhập cảnh tạm trú không quá 90 ngày”. Theo qui định thì ông T thuộc đối tượng người Việt Nam ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Đồng thời, Ủy ban nhân dân thành phố N đã thực hiện đúng các qui định khác của pháp luật liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho ông T, không có ai khiếu nại, tranh chấp. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cấp cho ông T là có căn cứ.

Về yêu cầu tính công sức trông coi, bảo quản: Tại phiên toà phúc thẩm, vợ chồng ông H1 trình bày thực tế trước đây khi cụ Kh2 còn sống và em của ông T khi về Việt Nam có hứa cho vợ chồng ông bà một lô đất nằm trong khuôn viên đất số 41 Đường Ng để làm nhà ở; do vậy, mới yêu cầu đòi 53,6m2 chứ thực tế ranh giới xung quanh khu nhà vẫn như nguyên trạng từ trước đến nay. Tuy nhiên, vợ chồng ông H1 không có chứng cứ gì để chứng minh; ông T cũng không có việc hứa cho một lô đất như vợ chồng ông H1 trình bày và ông T cũng không đồng ý cho vợ chồng ông H1 một lô đất. Do đó, không có cơ sở để xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của vợ chồng ông H1

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: 

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Đình H1; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2018/DS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà.

32- 52

  1. 5
Bản án số 569/2022/DS-PT ngày 25/8/2022 tại Tòa án nhân dân cấp cao thành phố Hồ Chí Minh

V/v “tranh chấp hợp đồng ủy quyền, đòi lại tào sản nhà đất và thừa kế tài sản”

Nội dung bản án:

Nguồn gốc căn nhà trệt gắn liền với quyền sử dụng đất diện tích 93,9 m2 loại đất ODT, tọa lạc tại số 485 là của cụ Trần Thị H tạo lập và cụ Trần Thị H đã tặng cho lại bà Trần Thị Phương M vào ngày 04/10/1988, ngày 07/12/1988 cụ Trần Thị H và bà Trần Thị Phương M giao nhận nhà đất. Đến năm 2000, bà Trần Thị Phương M đã xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất và đã được cấp GCNQSDĐ ngày 15/3/2004 cho hộ bà Trần Thị Phương M.

Đến năm 2005, bà Trần Thị Phương M cùng gia đình được bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ nhưng do bà Trần Thị Phương M trở về Việt Nam sinh sống. năm 2006 bà Trần Thị Phương M về Việt Nam sửa sang, xây dựng lại căn nhà cấp 4 kiên cố để hàng năm bà Trần Thị Phương M trở về Việt Nam có chỗ ở ổn định. Sau khi xây dựng xong căn nhà kiên cố thì vào ngày 16/5/2006 bà Trần Thị Phương M có đến Phòng Công chứng lập “Hợp đồng ủy quyền” để ủy quyền nhà đất cho ông Nguyễn Thanh C (là con riêng của chồng bà Trần Thị Phương M) quản lý, đồng thời được sử dụng căn nhà này để ở và làm nơi liên hệ kinh doanh. Đến tháng 8 năm 2018, bà Trần Thị Phương M quyết định trở về Việt Nam sinh sống nên bà Trần Thị Phương M thông báo cho ông Nguyễn Thanh C biết đến đầu năm 2019 bà Trần Thị Phương M sẽ lấy lại căn nhà cùng diện tích đất để ở thì ông Nguyễn Thanh C không đồng ý giao trả nhà và đất lại cho bà Trần Thị Phương M và cũng không cho bà Trần Thị Phương M vào sinh sống trong căn nhà trên.

Theo đơn phản tố ngày 22/8/2019 của bị đơn Nguyễn Thanh C C trình bày: Căn nhà trệt số 485. Năm 1988 cụ Trần Thị H chuyển nhượng căn nhà này cho ông Nguyễn Thanh H và bà Trần Thị Phương M với giá 03 lượng vàng 24k, nhưng khi chuyển nhượng không làm thủ tục sang tên mà cụ Trần Thị H chỉ lập hợp đồng ủy quyền cho bà Trần Thị Phương M quản lý, sử dụng. Đến năm 2006, trước khi đi định cư ở Hoa Kỳ thì ông Nguyễn Thanh H để cho bà Trần Thị Phương M ủy quyền cho ông Nguyễn Thanh C quản lý, sử dụng. Quá trình quản lý, sử dụng ông Nguyễn Thanh C đã sửa chữa, tu bổ từ căn nhà lá. Căn nhà này lúc ông Nguyễn Thanh H và bà Trần Thị Phương M nhận chuyển nhượng chưa có chủ quyền đất, năm 2004 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Trần Thị Phương M. Ông Nguyễn Thanh H chết không có di chúc, ông Nguyễn Thanh H có 03 con là Nguyễn Thanh C, Nguyễn Thanh Đ và Nguyễn Thanh T.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

1/Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị Phương M về việc yêu cầu chấm dứt Hợp đồng ủy quyền lập ngày 16/5/2006 giữa nguyên đơn Trần Thị Phương M với bị đơn Nguyễn Thanh C và buộc bị đơn Nguyễn Thanh C giao trả lại cho nguyên đơn nhà đất tranh chấp

1.1. Hợp đồng ủy quyền lập ngày 16/5/2006 giữa nguyên đơn Trần Thị Phương Mai với bị đơn Nguyễn Thanh C tại Phòng công chứng chấm dứt thực hiện kể từ ngày tuyên án.

1.2. Buộc bị đơn Nguyễn Thanh C giao trả lại cho nguyên đơn Trần Thị Phương M căn nhà (nhà trước diện tích xây dựng 33,37m2 , nhà sau diện tích xây dựng 69,1m2 và sàn đã gỗ (1+2) diện tích 17,2m2 11,374m2 ) cho hộ bà Trần Thị Phương M.

2/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thanh C về việc yêu cầu Tòa án công nhận căn nhà (nhà trước diện tích xây dựng 33,37m2 , nhà sau diện tích xây dựng 69,1m2 và sàn giả gỗ (1+2) diện tích 17,2m2 + 11,374m2 ).

3/Ghi nhận sự tự nguyện của người đại diện cho nguyên đơn, nguyên đơn Trần Thị Phương M đồng ý hỗ trợ lại cho bị đơn Nguyễn Thanh C số tiền sửa chữa là 50.000.000 đồng.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn HH, về việc yêu cầu ông Phạm VT và bà Ngô TP liên đới trả cho bà Nguyễn HH 32.693,8 USD. Buộc ông Phạm VT và bà Ngô TP liên đới trả cho bà Nguyễn HH 32.693,8 USD (được qui đổi thành tiền Việt Nam tại thời điểm thi hành án).

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Phạm VT và bà Ngô TP về việc yêu cầu bà Nguyễn HH trả giá trị quyền sử dụng đất là 3.073.000.000 đồng

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu hủy quyết định kê biên tài sản của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp đối với căn nhà số 571, ấp T, xã TQ, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp của anh Phạm VT và chị Ngô TP.

Nhận định của tòa án cấp cao:

Trong khi chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã thể hiện: Căn nhà và đất thuộc thửa đất số 8, tờ bản đồ số 45, tọa lạc tại số 485 có nguồn gốc của của cụ Trần Thị H. Năm 1988 cụ Trần Thị H xuất cảnh sang Hoa Kỳ nên cụ Trần Thị H lập văn bản “Đơn xin ủy quyền nhà cho con” là Trần Thị Phương M, được Ủy ban nhân dân Phường 3, thị xã S chứng nhận ngày 24/10/1988, đến ngày 07/12/1988 cụ Trần Thị H có “Đơn xin ủy quyền nhà” cho con Trần Thị Phương M và cùng ngày 07/12/1988 bà Trần Thị Phương M có “Đơn xin nhận nhà” với nội dung: Xin nhận căn nhà số 143/1 đường T; số nhân khẩu thường trú trong gia đình 01 người; lý do được mẹ ủy quyền cho căn nhà trọn quyền sử dụng, được Ủy ban nhân dân Phường 3 xác nhận ngày 14/12/1988

Có căn cứ xác định căn nhà số 485 thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Phương M do cụ Trần Thị H tặng cho riêng bà Trần Thị Phương M vào năm 1988 và bà Trần Thị Phương M không đồng ý xác định là tài sản chung của bà với ông Nguyễn Thanh H. Do đó án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh C về yêu cầu công nhận căn nhà đất tranh chấp tại số 485 (số cũ 143/1), đường T, khóm 8, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng là sở hữu, sử dụng chung của bà Trần Thị Phương M và ông Nguyễn Thanh H và không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh C yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật phần di sản của ông Nguyễn Thanh H để lại tại là căn nhà số 485 (số cũ 143/1), đường T là có căn cứ

Vào năm 2006 bà Trần Thị Phương M có lập hợp đồng ủy quyền cho ông Nguyễn Thanh C quản lý, sử dụng căn nhà số 143/1 đường T. Năm 2018 bà Trần Thị Phương M có nhu cầu sử dụng nhà để ở nên yêu cầu ông Nguyễn Thanh C giao trả lại nhà nhưng ông Nguyễn Thanh C không đồng ý. Ông Nguyễn Thanh C cũng thừa nhận bà Trần Thị Phương M có ủy quyền cho ông sử dụng nhà nêu trên. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Phương M, tuyên bố chấm dứt hợp đồng ủy quyền giữa bà Trần Thị Phương M với ông Nguyễn Thanh C xác lập ngày 16/5/2006 và buộc ông Nguyễn Thanh C giao trả căn nhà số nhà số 143/1 đường T là phù hợp với quy định tại các Điều 166, 422, 569 Bộ luật dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 7, khoản 1 Điều 8, Điều 158 Luật nhà ở năm 2014.

Tòa án cấp cao tuyên:

Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm:

2.1. Chấm dứt hợp đồng ủy quyền lập ngày 16/5/2006 giữa nguyên đơn bà Trần Thị Phương M với bị đơn Nguyễn Thanh C lập tại Phòng Công chứng Nhà nước số 1

2.2. Bị đơn Nguyễn Thanh C được lưu cư 06 tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm ngày 25/8/2022. Trong thời gian lưu cư bị đơn Nguyễn Thanh C phải gìn giữ, bảo quản và giữ nguyên hiện trạng nhà ở, vật kiến trúc và tài sản trên đất, nếu ai làm mất, hư hỏng hoặc gây thiệt hại phải bồi thường.

2.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thanh C về việc yêu cầu công nhận căn nhà gắn liền với diện tích theo đo đạc thực tế 102,5m2 loại đất ODT, thuộc thửa đất số 8, tờ bản đồ số 45, tọa lạc tại số 485 (số cũ 143/1), đường T, khóm 8, Phường 3, thành phố S, thuộc sở hữu, sử dụng chung của bà Trần Thị Phương M với ông Nguyễn Thanh H và yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông Nguyễn Thanh H theo pháp luật.

52-63

  1. 6
Bản án số 438/2020/DS-PT ngày 21/9/2020 tại Tòa án nhân dân cấp cao thành phố Hồ Chí Minh

V/v “ tranh chấp về đòi tài sản”

Nội dung vụ án:

Bà HH là người sinh sống tại Mỹ và có quen biết với vợ chồng bà Ngô TP và ông Phạm VT thông qua sự giới thiệu của bà Ngô TNg. Bà HH có bàn với vợ chồng bà TP và ông VT về việc đầu tư mua nhà đất tại Việt Nam để khi về nước có chỗ ở. Vào 12/2004 bà HH trực tiếp chuyển cho bà TP 10.000 USD để mua đất tại Bình Dương và thông qua ông Tr bà đã chuyển thêm 12.000 USD cho vợ chồng ông bà TP và VT để mua căn nhà số 88/20/12 đường HHG, khu phố 1, phường ThL, quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến tháng 10/2005, thông qua bà LM và bà D bà HH tiếp tục chuyển cho vợ chồng bà TP, ông VT 75.000 USD để mua 02 chiếc Mercedes 16 chỗ ngồi biển kiểm sát số 53N-6790 và 53N-6791 tổng ông bà TP, VT đã nhận 97.000 USD. Đến năm 2006 khi bà HH về Việt Nam thì vợ chồng bà TP và ông VT lánh  mặt và không chịu thu xếp trả tiền lại cho bà. Ngày 17/7/2006 bà TP bán diện tích đất ở Bình Dương nhưng không cho bà HH biết. Sau đó, bà TP trả cho bà được 205.400.000 đồng tương đương 12.837,5 USD do bà Hường là chị của bà nhận và trả tiếp 15.500 USD. Tổng bà HH nhận được 28.337,5 USD vợ chồng bà TP và ông VT còn nợ bà là 68.662,5 USD. Căn cứ vào đoạn ghi âm bằng điện thoại bà TP còn nợ bà 55.000 USD. Do đó, bà chỉ yêu cầu bà TP và ông VT liên đới trả cho bà 55.000 USD. Do vụ án này đã được thi hành án bởi Tòa án nhân dân tỉnh Đồng tháp với số tiền đã được trả là 22.306,2 USD nên bà yêu cầu ông VT và bà TP trả tiếp số tiền còn lại là 32.6993,8 USD.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn HH, về việc yêu cầu ông Phạm VT và bà Ngô TP liên đới trả cho bà Nguyễn HH 32.693,8 USD. Buộc ông Phạm VT và bà Ngô TP liên đới trả cho bà Nguyễn HH 32.693,8 USD

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Phạm VT và bà Ngô TP về việc yêu cầu bà Nguyễn HH trả giá trị quyền sử dụng đất là 3.073.000.000 đồng

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu hủy quyết định kê biên tài sản của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp đối với căn nhà số 571, ấp T, xã TQ, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp của anh Phạm VT và chị Ngô TP.

Nhận định của tòa án cấp cao:

Bà HH cho rằng, từ tháng 12/2004, đến tháng 10/2005, bà trực tiếp và thông qua các ông bà Lưu M, Nguyễn Văn Tr và D đã chuyển cho bà TP, ông VT tổng cộng 97.000 USD để hùn hạp mua đất ở Bình Dương, mua căn nhà số 88/20/12 HHG, khu phố 1, phường ThL, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh và mua 02 chiếc xe Mercedes 16 chỗ ngồi. Ngược lại, bà TP, ông VT cho rằng giữa bà HH và vợ chồng bà có hùn hạp mua căn nhà số 88/20/12 HHG với giá 12.000 USD, mỗi bên góp 6.000 USD. Vào khoảng tháng 10-11/2004, vợ chồng bà có nhận trực tiếp từ bà HH 12.000 USD để mua nhà và sau khi mua xong thì giấy tờ nhà giao cho bà HH giữ. Sau đó, bà HH cần tiền nên vợ chồng bà đã vay Ngân hàng, trả cho bà HH 205.400.000 đồng, trong đó, vốn 188.400.000 đồng và lãi 17.000.000 đồng, tổng cộng ông bà đã trả cho bà HH được 13.082,8 USD. Vợ chồng bà không còn nợ bà HH. Như vậy, có căn cứ để kết luận rằng, bà HH có chuyển cho bà TP 85.000 USD chứ không phải 97.000 USD như lời bà HH trình bày. Việc bà TP cho rằng, chỉ nhận của bà HH 12.000 USD hùn hạp mua nhà số 88/20/12 HHG, đã trả xong, không còn nợ bà HH là không có căn cứ. Điều này cũng phù hợp với lời thừa nhận của bà TP trong cuộc hội thoại với bà T tại các trang số 30, 31 và 32 của “Bản dịch nội dung” kèm theo Kết luận giám định số 2724/C21(P3) ngày 10/12/2008. Tại các bút lục vừa viện dẫn, bà TP thừa nhận với bà T rằng, bà HH đã chuyển cho bà 85.000 USD, đã trả được 30.000 USD, còn nợ lại 55.000 USD.

Đối với việc bà TP cho rằng các cuộc hội thoại giữa bà và bà T là do bà HH yêu cầu bà nói như vậy. Vì bà TP không xuất trình được chứng cứ để chứng minh. Do đó, bản án sơ thẩm buộc bà TP, ông VT phải tiếp tục trả cho bà HH 32.693,8 USD là có căn cứ, đúng pháp luật.

Như phần trên đã nhận định, có căn cứ để xác định bà TP còn nợ bà HH 55.000 USD nên Cơ quan thi hành án đã cưỡng chế thi hành đối với diện tích nhà, đất tại số 88/20/12 HHG, khu phố 1, phường ThL, Quận 12, Thành Phố Hồ Chí Minh để thi hành Bản án số 05/2010/DSST ngày 22/7/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, việc bà TP yêu cầu bà HH phải trả cho bà giá trị quyền sử dụng đất nêu trên là không có căn cứ cần giữ nguyên bản án sơ thẩm

Tòa án cấp cao tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn HH. Buộc ông Phạm VT và bà Ngô TP liên đới trả cho bà Nguyễn HH 32.693,8 USD (được qui đổi thành tiền Việt Nam tại thời điểm thi hành án).

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Phạm VT và bà Ngô TP về việc yêu cầu bà Nguyễn HH trả giá trị quyền sử dụng đất là 3.073.000.000 đồng.

64-71

  1. 7
Bản án số 167/2019/D-PT ngày 25-9-2019 Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

V/v “Đòi tài sản, yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền và chia tài sản chung”

Nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị T và ông Đỗ Q kết hôn năm 2011 tại Đại sứ quán Berlin – Đức. Quá trình chung sống không hạnh phúc nên từ tháng 01/2016 hai người đã chính thức sống ly thân. Ngày 16/3/2017, bà T và ông Q đã được Tòa Hôn nhân – gia đình Tòa án Potsdam (Đức) xét xử cho ly hôn.

Ngày 16/02/2016, bà T về Việt Nam và ký hợp đồng nhận chuyển nhượng lô đất 3 NV16-03 tại Khu đô thị PL của ông Trần Anh T2 và bà Lê Thị Nh. Bà T đã trực tiếp giao cho ông T2 và bà Nh số tiền chuyển nhượng là 1.400.000.000 đồng, bà T đứng tên ký hợp đồng thiết kế và thi công xây nhà trên lô đất đã mua. Tại thời điểm xây dựng nhà, do bà T đang sống tại Đức (giữa bà T và ông Q đã sống ly thân, chờ đủ thời gian để ra tòa ly hôn theo luật pháp nước Đức) bản thân ông Q đang có quan hệ tình cảm với một người phụ nữ khác nên ông Q thường xuyên về Việt Nam và ở tại Thành phố N2. Biết bà T đang có ý định xây nhà, ông Q có nói với bà T là sẽ giúp đỡ bà T trông coi, quản lý quá trình xây dựng nhà. Bà T đồng ý và ủy quyền cho ông Q rút số tiền 80.300 Euro tại Ngân hàng để lo chi phí xây dựng nhà. Ngày 29/7/2016, bà T còn chuyển khoản cho ông Q số tiền 300.000.000 đồng  với mục đích nhờ ông Q chi phí hoàn thiện nhà. Sau khi xây nhà xong, ông Q ngang nhiên đưa người phụ nữ khác về sống tại căn nhà trên, bà T đã nhiều lần yêu cầu ông Q phải trả toàn bộ nhà, đất cho bà T nhưng ông Q không đồng ý và cố tình chiếm đoạt. Theo luật pháp nước Đức quy định trong thời gian sống ly thân, tài sản do ai tạo lập thì thuộc sở hữu riêng của người đó. Do đó, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định nhà, đất tại lô NV16-03 Khu đô thị PL, Thành phố N2, Khánh Hòa thuộc quyền sở hữu riêng của bà T và buộc ông Q phải trả lại tài sản trên cho bà T.

Ông Q có đơn phản tố với nội dung như sau:

– Yêu cầu Tòa án tuyên hủy 02 Hợp đồng ủy quyền số 7877 ngày 15/5/2017 và số 27.015 ngày 06/11/2017.

– Yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:

Nhà, đất tại NV16-03 Khu đô thị PL, Thành phố N2, Khánh Hòa: ông Q yêu cầu chia đôi giá trị tài sản, ông xin được nhận nhà và thanh toán lại giá trị chênh lệch cho bà T.

Số tiền 3,5 tỷ đồng trong thẻ tiết kiệm đứng tên bà T tại Ngân hàng ACB – Chi nhánh thành phố N2

Số tiền 20.000 Euro trong sổ tiết kiệm đứng tên bà T

Số tiền bán xe Toyota hiệu Camry biển kiểm soát 79A-107.15 là 200.000.000 đồng.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T về việc “Đòi tài sản” là nhà, đất tại lô NV16-03 Khu đô thị PL, Thành phố N2 đối với bị đơn ông Đỗ Q

2/ Xác định một phần giá trị nhà, đất tại lô NV16-03 Khu đô thị PL, thành phố N2, tỉnh Khánh Hòa là 1.299.040.000 đồng là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân của ông Đỗ Q và bà Nguyễn Thị T.

3/ Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Đỗ Q về việc yêu cầu chia tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân là nhà, đất tại lô NV16- 03 Khu đô thị PL, Thành phố N2, Khánh Hòa.

4/ Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Đỗ Q về việc chia tài sản chung đối với số tiền 1.800.000.000 đồng .

Nhận định của tòa án cấp cao:

Ông Q, bà T đã được Tòa Hôn nhân – Gia đình Tòa án Potsdam (Đức) xét xử cho ly hôn. Bản án số hiệu 26/17 đương nhiên được công nhận tại Việt Nam theo quy định tại điều 431 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 16/02/2016 bà T về Việt Nam và trực tiếp ký hợp đồng nhận chuyển nhượng lô đất NV16-03 tại Khu đô thị PL, thành phố N2, tỉnh Khánh Hòa và đã giao đủ tiền cho ông Trần Anh Tài và bà Lê Thị Nhung với giá 1.400.000.000 đồng (một tỷ bốn trăm triệu đồng chẵn). Tháng 4/2016, bà T ông Q ký hợp đồng với Công ty tư vấn thiết kế bản vẽ thi công ngôi nhà nêu trên. Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và lời khai của bà T thì ngoài số tiền riêng mua đất (1,4 tỷ đồng) ngày 27/7/2015 bà T mượn của ông Nguyễn Mạnh Th1 76.300 Euro và bỏ thêm 4.000 Euro để mở thẻ tiết kiệm với số tiền 80.300 Euro tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Khánh Hòa và cùng ngày 27/7/2015 bà đã chuyển toàn bộ số tiền này cho ông Q sử dụng để xây dựng nhà và ông Q trực tiếp giúp bà trông coi quản lý xây dựng nhà tại Khu đô thị PL, thành phố N2, tỉnh Khánh Hòa. Nhưng ông Q cho rằng, tổng số tiền xây nhà 10 80.300 Euro do bà T ủy quyền ông đã rút để chi phí xây nhà là tài sản chung của ông và bà T chứ không phải tiền mượn của ông Th1 nhưng không có tài liệu gì để chứng minh. Như vậy cấp sơ thẩm xác định nhà đất NV16-03 Khu đô thị PL là tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân là đúng pháp luật.

Về giá trị tài sản chung, nhà và đất ở tại NV16-03 Khu đô thị PL có tổng giá trị là 3.359.140.305 đồng (làm tròn 3.359.140.000 đồng) sau khi trừ đi số tiền riêng của ông Th1 76.300 Euro (tương đương với 2.060.100.000 đồng) số tiền còn lại 1.299.040.305 đồng, chia đôi cho mỗi người được hưởng là: 649.520.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu đòi lại tài sản riêng của bà Nguyễn Thị T là có căn cứ.

Về nhà ở, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Đỗ Q và bà Nguyễn Thị T đều có nguyện vọng xin được nhận ngôi nhà nhưng xét thấy: Hiện nay ông Đỗ Q và bà T đều cư trú tại Cộng hòa Liên bang Đức, tuy nhiên căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh thực tế của bà T hiện có bố Đỗ Mạnh Th1 già yếu đang sinh sống tại Thành phố N2 không có người chăm sóc và con đang theo học tại thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án cấp sơ thẩm đã giao toàn bộ tài sản là đất và ngôi nhà nêu trên cho bà T quản lý tiếp tục đăng ký quyền sở hữu nhà ở theo quy định pháp luật và thanh toán lại giá trị chênh lệch cho ông Đỗ Q là phù hợp.

Tòa án cấp cao tuyên:

1/Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị T; sửa bản án sơ thẩm về phân chia tài sản chung, không chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Q và Kháng nghị của Viện kiểm sát về việc hủy một phần bản án.

2/Xác định một phần giá trị nhà, đất tại lô NV16-03 Khu đô thị PL, thành phố N2, tỉnh Khánh Hòa là 1.299.040.000 đồng là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân của ông Đỗ Q và bà Nguyễn Thị T

3/Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Đỗ Q về việc chia tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân là nhà, đất tại lô NV16-03 Khu đô thị PL, Thành phố N2, Khánh Hòa.

4/ Không chấp nhận yêu cầu của ông Đỗ Q về việc chia tài sản chung đối với số tiền 1.800.000.000 đồng.

72-86

  1. 8
Bản án số 422/2019/DS-PT ngày 18/9/2019 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

V/v Tranh chấp đòi tài sản

Nội dung vụ án:

Năm 1992, cha mẹ bà Kim NĐ (ông Nguyễn Văn S và bà Huỳnh Thị H1) qua đời có lập tờ di chúc với nội dung là giao căn nhà và đất nêu trên cho bà Kim NĐ và ông Nguyễn Phi BĐ1 được toàn quyền sở hữu. Năm 2001 bà Kim NĐ đã gửi tiền về cho ông BĐ1 cất lại căn nhà mới trên phần đất của cha mẹ để lại, căn nhà được chia làm 02 căn (Bà Kim NĐ 01 căn và BĐ1 01 căn). Vì bà Kim NĐ định cư ở nước ngoài nên năm 2003 ông BĐ1 đã làm giấy chứng nhận đứng tên toàn bộ quyền sử dụng đất nêu trên trong đó bao gồm phần diện tích đất đo đạc thực tế là 64,2m2 của bà Kim NĐ.

Năm 2010 bà Kim NĐ yêu cầu ông BĐ1 tách thửa cho bà nhưng ông BĐ1 không đồng ý và vợ chồng ông BĐ1 đã chiếm luôn căn nhà bà Kim NĐ để nhằm phục vụ mục đích kinh doanh. Tuy nhiên ông BĐ1 lại cho rằng phần đất diện tích 64,2m2 của bà Kim NĐ là tài sản riêng của mẹ ông BĐ1 là bà Huỳnh Thị H1 đã cho riêng ông BĐ1 chứ không phải tài sản chung của cha mẹ và ông BĐ1 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với phần nhà ông BĐ1 có thỏa thuận với bà Kim NĐ là bà Kim NĐ bỏ tiền ra cất nhà trên đất của ông BĐ1, sau khi cất mỗi người sẽ sở hữu ½ căn nhà gắn liền với đất có ký cam kết xác nhận tài sản nhà và đất cho bà Kim NĐ. Nhưng sau này bà Kim NĐ lại đổi ý không thực hiện lời hứa mà đòi ông BĐ1 trả tiền xây nhà là 22.000 Euro. Ông BĐ1 đã trả cho bà NĐ được 7.000 Euro chỉ còn nợ bà NĐ 15.000 Euro.

Vì vậy, bà Kim NĐ khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ1 thực hiện nghĩa vụ bàn giao căn nhà cho mình. Ngoài ra vợ chồng ông BD1 nợ bà Kim NĐ tổng số tiền 840.223.400đ, bà NĐ không yêu cầu trả nợ.

Toà án sơ thẩm tuyên:

– Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Kim NĐ đối với số tiền 840.223.400đ về việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Phi BĐ1, bà Thái Hồng BĐ2 phải trả.

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Kim NĐ về việc đòi lại căn nhà gắn liền diện tích đất 64,6m2.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc tuyên bố tờ Di chúc lập ngày 08/02/1992 vô hiệu.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc hủy Tờ cam kết lập ngày 02/02/2005.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc công nhận toàn bộ 02 căn nhà, đất có diện tích 134,4m2 cho ông BĐ1.

Toà án phúc thẩm nhận định:

Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, căn cứ vào tờ di chúc và tờ cam kết chia tài sản chung để xác định quan hệ tranh chấp giải quyết vụ án “đòi tài sản” là không đúng và thiếu yêu cầu phản tố của bị đơn. Chứng cứ nguyên đơn không phải là chứng cứ pháp lý đã vội xác định ½ căn nhà là tài sản thuộc sở hữu của bà Kim NĐ, di sản đang tranh chấp bà Kim NĐ chưa có đăng ký kê khai di sản thừa kế. Do đó, theo tài liệu trong hồ sơ vụ án, khai nhận của các đương sự, quan hệ giải quyết tranh chấp vụ án này phải là chia di sản thừa kế do cha mẹ để lại và yêu cầu hủy di chúc, văn bản thoả thuận chia tài sản chung và xác định tài sản riêng.

Do xác định chưa đúng, thiếu quan hệ pháp luật giải quyết vụ án, từ đó, áp dụng pháp luật không chính xác dẫn đến hệ quả giải quyết vụ án và tính án phí sơ thẩm không đúng.

So với tờ di chúc, không có sự thống nhất về tên và năm sinh của cha của các đương sự. Ông BĐ1 lại có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy tờ di chúc này do vi phạm hình thức và nội dung. Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập làm rõ vấn đề này là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét đến công sức đóng góp vào việc quản lý tôn tạo di sản làm tăng giá trị nhà đất, cũng như tiền thuế đất ông BĐ1 đã đóng là chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho ông BĐ1 theo quy định của pháp luật dân sự và Án lệ số 05/2016/AL, chưa giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.

Căn nhà đất số 232 do vợ chồng ông BĐ1 bà BĐ2 và các con đang sinh sống ổn định mà bản án của Tòa án cấp sơ thẩm buộc vợ chồng ông BĐ1 phải giao phần nhà đất này lại cho bà Kim NĐ là chưa phù hợp với thực tế trong khi căn nhà số 230 chưa có ai sử dụng. Tòa án cấp sơ thẩm định giá di sản thừa kế là toàn bộ căn nhà số cũ là 284 (nay là 230 và 232) làm cơ sở tính án phí là chưa phù hợp vì diện tích hai căn nhà có sự chênh lệch.

Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xử buộc gia đình ông BĐ1 phải di dời tháo dỡ tất cả đồ đạc trong căn nhà gắn với diện tích đất tọa lạc tại số 232 là chung chung, không cụ thể dẫn tới bản án khó thi hành. Tòa án cấp sơ thẩm phải làm rõ gia đình ông BĐ1 đầu tư cụ thể những gì trên nhà đất này mà không thể tháo dỡ hoặc khi tháo dỡ làm ảnh hưởng tới cấu trúc, hư hỏng nhà đất, từ đó nếu bà Kim NĐ nhận phần nhà đất này thì quy ra giá trị hoàn lại cho ông BĐ1.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1/. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 107/2018/DS-ST ngày 07 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về việc “Tranh chấp đòi tài sản”, giữa các đương sự:

2/. Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án nêu trên về Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

87 -95

  1. 9
Quyết định giám đốc thẩm số 39/2017/DS-GĐT ngày 08-9-2017 của Toà án nhân dân tối cao

V/v tranh chấp đòi tài sản

Nội dung bản án:

Ông T là người nước ngoài nên không thể ký hợp đồng mua bán nhà theo quy định của pháp luật và nhờ ông Diệc Quốc V đứng tên giùm căn nhà trong 03 năm sẽ sang tên, để đảm bảo tài sản này Ông V đã ký giấy mượn tiền ngày 04/6/2002, nội dung: “Tôi xin cam đoan trong vòng 3 năm sẽ trả số tiền 170 lượng vàng SJC cho bà P, nếu đến thời gian này tôi không có số vàng nói trên để trả, thì tôi sẽ giao căn nhà số 02 đường 27, Phường 4, Quận S cho bà P để hoàn lại đủ số vàng đã thiếu”. Năm 2006 ông T chết, ông V đã giao căn nhà nêu trên cho bà P, do mâu thuẫn giữa giấy mượn 170 lượng vàng SJC do ông V đã ký và cho rằng ông V không trả nợ, nên bà P đã khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết.

Toà án sơ thẩm tuyên:

– Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Lại Thị Thanh P về việc yêu cầu ông Diệc Quốc V phải giao trả 170 lượng vàng SJC bằng cách giao căn nhà số 2 đường P, Phường 4, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh và giao thêm số tiền cho đủ 170 lượng vàng SJC cho bà P.

– Buộc ông Diệc Quốc V phải có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Lại Thị Thanh P số tiền có giá trị tương đương 170 lượng vàng SJC vào thời điểm xét xử là 6.485.500.000 đồng.

– Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Diệc Quốc V yêu cầu bà Nguyễn Lại Thị Thanh P phải trả số tiền 120.000.000 đồng.

Toà án phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm.

1/.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Lại Thị Thanh P về việc yêu cầu ông Diệc Quốc V phải giao trả 170 lượng vàng SJC.

Buộc ông Diệc Quốc V phải có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Lại Thị Thanh P 170 lượng vàng SJC quy ra giá trị tiền đồng Việt Nam theo giá niêm yết bán ra của Ngân hàng thương mại cổ phần tại thời điểm thi hành án.

2/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Diệc Quốc V yêu cầu bà Nguyễn Lại Thị Thanh P phải trả số tiền 120.000.000 đồng.

Toà án tối cao nhận định:

Các tài liệu bao gồm “Giấy mượn tiền” ngày 04/6/2002, “Giấy thỏa thuận mua bán” đề ngày 18/5/2002, “Giấy cam kết” ngày 04/6/2002 đều có tình tiết liên quan là căn nhà số 02, đường 27, Phường 4, Quận S. Cụ thể, tài liệu do bà P xuất trình thể hiện ông V mượn 170 lượng vàng để mua nhà, cam kết giao nhà cho bà P nếu không trả nợ đúng hạn, còn tài liệu do ông V xuất trình thể hiện ông V bán nhà cho ông T, khi ông T về Việt Nam ở hẳn và sang tên nhà thì sẽ hủy bỏ giấy mượn 170 lượng vàng.

Đối với giấy chứng nhận quyền sỡ hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở 1999 thể hiện ông V đã mua căn nhà nêu trên và đã giao cho ông T từ 2002, hàng năm ông T về Việt Nam 06 tháng ở tại nhà này, như vậy có căn cứ xác định mỗi khi về Việt Nam, gia đình ông T đã ở căn nhà nêu trên và có đầu tư làm thêm, sửa chữa nhà, việc xây và lấn chiếm phần sân trước thông qua nhà Ông V là không thể tránh khỏi. Tại các biên bản hòa giải ngày 16/3/2011 và ngày 21/4/2011, các bên đương sự tham gia hoà giải không thành. Các bên không có lời khai cũng như không xuất trình chứng cứ về quan hệ ở nhờ hay ở thuê nhà giữa gia đình ông T với ông V. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không làm rõ việc gia đình ông T vào ở và làm thêm, sửa chữa nhà trên với tư cách gì.

Tại đơn yêu cầu ngày 07/4/2014, Ông V đã ký “Giấy mượn tiền” đề ngày 04/6/2002 theo yêu cầu của ông T, nhưng trong năm 2002 và năm 2005 bà P không về Việt Nam nên không thể ký giấy mượn tiền được, đề nghị cho giám định chữ ký nêu trên. Tòa án cấp phúc thẩm không xác minh, làm rõ trong năm 2002 và năm 2005 bà P có về Việt Nam không? bà P ký 02 giấy mượn tiền trên trong thời điểm nào, ở đâu? Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã đề nghị các đương sự yêu cầu giám định chữ ký nhưng ông V không yêu cầu và ông V đã thừa nhận chữ ký của ông V nên không cần thiết phải giám định chữ ký theo yêu cầu của bị đơn là giải quyết không đúng yêu cầu của ông V, chưa đảm bảo quyền, nghĩa vụ của đương sự. Tại Đơn đề nghị ngày 30/3/2017, ông V đề nghị giám định chữ ký đề tên ông T tại “Giấy thỏa thuận mua bán” đề ngày 18/5/2002 và “Giấy cam kết” đề ngày 04/6/2002. Vì vậy, cần phải giám định chữ ký đề tên ông T tại các tài liệu này và làm rõ các tình tiết nêu trên thì mới có cơ sở để xác định sự thật khách quan là ông V mượn vàng của bà P hay ông V bán nhà cho ông T, nhưng ký giấy mượn vàng của bà P theo yêu cầu của ông T để đảm bảo quyền lợi của ông T trong thời gian chưa được đứng tên nhà đất.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng các tài liệu do hai bên xuất trình không có sự liên hệ với nhau, từ đó chỉ căn cứ “Giấy mượn tiền” đề ngày 04/6/2002 để buộc ông V phải trả bà P 170 lượng vàng SJC (được quy ra giá trị tiền đồng Việt Nam) là chưa đủ căn cứ vững chắc và chưa xem xét toàn diện nội dung vụ án. nêu trên.

Toà án tối cao Tuyên:

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 21/KN-DS ngày 03/4/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2. Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 76/2014/DS-PT ngày 07/4/2014 của Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 1087/2013/DS-ST ngày 12/9/2013 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Lại Thị Thanh P với bị đơn là ông Diệc Quốc V; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.

96 -102

  1. 10
Quyết định giám đốc thẩm số: 21/2017/KDTM-GĐT ngày 14/7/2017 của Toà án nhân dân tối cao

V/v tranh chấp đòi tài sản

Nội dung vụ án:

Đầu năm 1993 công ty DK muốn đầu tư kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc tại Việt Nam nên đã liên doanh với doanh nghiệp tư nhân M của vợ chồng ông Hàn Phúc S, bà Dương Thị Mai K. Để thực hiện mở Công ty liên doanh, Công ty DK đã 27 lần chuyển tiền tổng cộng là 431.952 USD mỗi lần giao tiền, ông S, bà K đều ký nhận ngoài ra ông Kim chuyển thêm 1.947.961.000 đồng, đồng thời ông Kim đã đầu tư thêm với giá trị 2.238.864.413 đồng, để nhờ ông S, bà K đứng tên mua đất và xây dựng nhà xưởng làm cơ sở sản xuất kinh doanh may mặc. Ông S, bà K dùng số tiền này của Công ty DK để mua 7.430m2 đất của ông Nguyễn Văn L tại Thành phố Hồ Chí Minh theo “Văn tự mua bán nhà” ngày 14/9/1993 với giá 480 lượng vàng và tạo dựng cơ sở vật chất cho Công ty liên doanh. Ngày 22/12/1993, Giám đốc Sở Nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh có Giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà số 2877/GP-CS công nhận việc mua bán nhà giữa ông L với ông S, bà K và công nhận ông S, bà K là chủ sở hữu của căn nhà số 45 T.

Ngày 21/01/1994, DNTN M ký Hợp đồng liên doanh với Công ty DK để thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐQ và được cấp giấy phép thời gian hoạt động 20 năm là hợp đồng chấm dứt ngày 26/03/2014. Sau một thời gian hoạt động năm 2004 Công ty DK giải thể và giao cho ông Kim toàn quyền quyết định đối với số tiền và tài sản đầu tư vào Công ty liên doanh nêu trên. Trong khi Công ty liên doanh đang hoạt động hiệu quả thì DNTN M tự hợp thức hóa quyền sử dụng đất tại 45 ấp 3 T và ngày 15/7/2010 được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 3127/QĐ-UBND thuận cho DNTN M được sử dụng 7.430m2 đất nói trên. Năm 1999 đến năm 2011 bà K và ông S lần lượt qua đời, DNTN M chuyển đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn M do ông Hàn Khải T (con bà K, ông S) làm Giám đốc công ty M và đã nhiều lần gửi thông báo chấp dứt hợp đồng liên doanh, yêu cầu Công ty liên doanh bàn giao đất và nhà xưởng cho Công ty M. Việc làm này đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến việc hoạt động và làm ảnh hưởng đến uy tín của Công ty DK, vì vậy Ông Kim đã làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề về đất và nhà xưởng tại 45 ấp 3 T nêu trên.

Toà án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Kim Heung S và Công ty TNHH ĐQ.

Tuyên bố Hợp đồng cho thuê nhà xưởng ký giữa ông Hàn Phúc S và Dae Kwang Trading Corporation ngày 11/9/1993; Hợp đồng liên doanh thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐQ ký giữa Doanh nghiệp tư nhân M và Dae Kwang Trading Corporation ngày 21/01/1994 là các hợp đồng vô hiệu.

Xác định Công ty TNHH ĐQ là công ty do một mình Dae Kwang Trading Corporation (nay là ông Kim Heung S) bỏ vốn thành lập và quản lý điều hành.

Công nhận 4.788,8m2 đất thuộc quyền sử dụng của Công ty TNHH ĐQ. Công nhận phần tài sản được xây dựng trên phần đất này là tài sản thuộc sở hữu của Công ty TNHH ĐQ.

Bác yêu cầu của ông Kim Heung S và Công ty TNHN ĐQ đòi hủy Quyết định số 3127/QĐ-UBND ngày 15/7/2010 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất vào sổ số CT 02434 ngày 28/9/2010 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc chứng nhận cho Doanh nghiệp tư nhân M được quyền sử dụng 7.430 m2 đất tại địa chỉ số 45 T.

Bác yêu cầu của ông Kim Heung S và Công ty TNHH ĐQ đòi Công ty TNHH M phải bồi thường cho Công ty TNHH ĐQ số tiền thiệt hại là 9.530.029.781 đồng.

Toà án phúc thẩm tuyên:

1/. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Kim Heung S và Công ty TNHH ĐQ. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Hàn Khải T, Hàn Dương Mỹ L, Nguyễn Phương Anh, Quách Tú T và Công ty TNHH M. Sửa lại án sơ thẩm số 131/2015/KDTMST ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

2/. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Kim Heung S và của Công ty TNHH ĐQ. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH M.

– Tuyên bố hợp đồng cho thuê nhà máy ký giữa ông Hàn Phúc S và Dae Kwang Trading Corporation ký ngày 11/9/1993; Hợp đồng liên doanh thành lập Công ty TNHH ĐQ ký giữa Doanh nghiệp tư nhân M với Công ty DK ngày 21/01/1994 là hợp pháp không vô hiệu.

– Công nhận toàn bộ diện tích đất 7.430m2 do ông Hàn Phúc S làm chủ, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

– Buộc Công ty TNHH ĐQ và ông Kim Heung S di dời máy móc nhà xưởng ra khỏi địa chỉ 45 T, phường B, quận BT trả lại mặt bằng có diện tích 4.788,3m2.

– Bác yêu cầu của ông Kim Heung S và Công ty TNHH ĐQ đòi Công ty

TNHH M phải bồi thường cho Công ty TNHH ĐQ

Toà án tối cao nhận định:

Về giấy chứng nhận quyền sở hữu và quyền sử dụng đất số BB971045 ngày 28/9/2010 công nhận Doanh nghiệp tư nhân M (do ông Hàn Phúc S làm chủ) là người đại diện của những người được thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất quyền sử dụng diện tích 7.430m2 đất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tại nội dung thay đổi và cơ sở pháp lý trang 4 của Giấy chứng nhận nêu trên đã đính chính sai sót vào các ngày 19/5/2012, 22/5/2012 và 07/4/2014 thể hiện: các ông bà Hàn Khải T, Hàn Dương Mỹ L, Hàn Khải Vinh (do bà Nguyễn Phương Anh làm đại diện) là đồng thừa kế tài sản của ông Hàn Phúc S. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đưa các ông, bà có tên trên tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng.

Tại các phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, đại diện ubnd Thành phố Hồ Chí Minh đều vắng mặt  nên không lấy được lời khai. Lẽ ra trong trường hợp này, Tòa án cần có văn bản đề nghị có ý kiến về việc ông Kim Heung S yêu cầu hủy Quyết định số 3217/QĐ-UBND ngày 15/7/2010 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 02434 thì việc giải quyết vụ án mới chặt chẽ.

Về hợp đồng liên doanh Công ty DK ký Hợp đồng liên doanh với DNTN M thành lập Công ty liên doanh có tên gọi là Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐQ được cơ quan có thẩm quyền cấp nên về hình thức hợp đồng này là hợp pháp.

Về nội dung của Hợp đồng liên doanh, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, cả hai bên đương sự đều cho rằng Hợp đồng liên doanh là giả tạo; thực tế Doanh nghiệp tư nhân M không góp vốn; không thực hiện việc tham gia điều hành các hoạt động của Công ty. Như vậy, xét về bản chất Công ty trách nhiệm hữu hạn ĐQ là doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài. Tòa án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng liên doanh vô hiệu là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng Hợp đồng liên doanh là không vô hiệu (hợp pháp) là không đúng. Mặt khác, nếu cho rằng hợp đồng liên doanh là có hiệu lực; bị đơn là Công ty M có đơn yêu cầu phản tố đề nghị hủy hợp đồng liên doanh nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không giải quyết là bỏ sót yêu cầu của đương sự.

Về Hợp đồng thuê nhà máy, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do ông Hàn Phúc S ký hợp đồng cho Công ty DK thuê nhà máy tọa lạch tại số 45 Ấp 3, đường T; thời hạn cho thuê bắt đầu từ ngày bên thuê nhận được Giấy phép đầu tư (ngày 26/3/1994); tại Điều 4 của hợp đồng các bên thoả thuận sau khi nhận được giấy phép đầu tư, bên thuê sẽ thanh toán một khoản tiền bằng với 05 năm tiền thuê (102.677USD); sau 05 năm đầu, bên thuê sẽ thanh toán tiền thuê theo hình thức trả dồn mỗi 05 năm… Như vậy, lời khai của anh Hàn Khải T cho rằng số tiền Công ty DK chuyển ông S, bà K là tiền trả cho việc thuê nhà xưởng trong 20 năm là không có cơ sở, bởi lẽ Công ty DK chuyển ông S và bà K số tiền 431.952 USD (tương đương với toàn bộ số tiền thuê nhà máy) chỉ trong vòng 01 năm là không đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Mặt khác, tại thời điểm ký Hợp đồng thuê nhà máy, ông S, bà K còn chưa có nhà xưởng để cho thuê vì ngày 14/9/2013, ông S, bà K mới ký hợp đồng mua nhà của ông L tại 45 T với giá 480 lượng vàng.

Toà án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa yêu cầu Công ty M giải trình về số tiền ông S, bà K đã nhận từ Công ty DK từ đó mới có căn cứ để xác định Hợp đồng cho thuê nhà máy là cóthực hay cũng là hợp đồng giả tạo. Nếu Công ty M không chứng minh được số tiền nhận từ Công ty DK là tiền thanh toán cho việc thuê nhà máy thì phải được xem là tiền nhờ mua đất và đầu tư xây dựng vì hợp đồng liên doanh là giả tạo thì cũng không có việc chuyển tiền góp vốn đầu tư và trong các biên nhận, phiếu chuyển tiền cũng có nội dung “thanh toán tiền đất”, tiền xây dựng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng cho thuê nhà máy là vô hiệu; Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố hợp đồng này hợp pháp, đều chưa đủ căn cứ.

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng không có căn cứ để xác định chính xác thực tế phần đóng góp công sức tiền, vàng của ông S, bà K và phần tiền của Công ty DK đã đóng góp vào việc mua đất, xây dựng nhà xưởng; thực tế từ năm 1993 đến ngày ông S chết (ngày 09/8/2011) các bên đã tự phân chia đất, từ đó công11 nhận 4.788,8m2 đất tại địa chỉ số 45 T mà DNTN M đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của Công ty TNHH ĐQ; công nhận phần tài sản được xây dựng trên phần đất này là tài sản thuộc sở hữu của Công ty TNHH ĐQ là chưa đủ căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng quyết định này của Tòa án cấp sơ thẩm là sai về đường lối giải quyết về hợp đồng liên doanh và chính sách đất đai của Nhà nước, đồng thời công nhận toàn bộ diện tích đất 7.430m2 đất tại số 45 T là của DNTN M cũng là không đúng. Mặt khác, Tòa án cấp phúc thẩm xác định diện tích đất trên là của DNTN M do ông Hàn Phúc S làm chủ cũng là không chính xác vì DNTN M đã chuyển đổi hình thức doanh nghiệp thành Công ty TNHH M từ năm 2011.

Công ty liên doanh TNHH ĐQ đang sử dụng 5.646m2 đất nhưng phần diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là 4.788,8m2. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên buộc Công ty liên doanh TNHH ĐQ và ông Kim Heung S phải di dời máy móc nhà xưởng ra khỏi địa chỉ 45 T trả lại mặt bằng có diện tích 4.788,8m2, phần đất chênh lệch còn lại 857,1m2 chưa được xem xét, giải quyết.

Toà án tối cao Tuyên:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 của Bộ luật tố tụng dân sự;

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2016/KN-KDTM ngày

26/4/2016 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

2. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 30/2015/KDTM-PT ngày 07/9/2015 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 131/2015/KDTM-ST ngày 05/02/2015 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về đòi tài sản” giữa nguyên đơn là ông Kim Heung S với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn M và 07 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

103-113

LINK TẢI PDF: Tổng hợp 10 bản án, quyết định giám đốc về việc tranh chấp giữa người việt nam ở nước ngoài đòi lại tài sản nhờ người ở trong nước đứng tên mà quá trình giải quyết có yêu cầu phản tố

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan