FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 08 bản án về tội vi phạm quy định kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 08 bản án về tội vi phạm quy định kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
1 | Bản án số: 12/2019/HSST ngày 08/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Đông – tỉnh Bắc Giang
Về: “Tội vi phạm quy định kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” Nội dung: Do UBND xã hàng năm không có nguồn kinh phí cấp cho việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho UBND xã và làm đường, sửa chữa trụ sở UBND xã D. Bị cáo Hoàng Văn D, sinh năm 1965 trú tại thôn T, xã D, huyện S, tỉnh Bắc Giang là cán bộ tài chính kế toán xã D đã tự lập 04 bộ hóa đơn, chứng từ khống với các nội dung sửa chữa đường giao thông liên thôn, sửa chữa sân nhà văn hóa, khuôn viên Ủy ban nhân dân xã D, D đã tham mưu và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã D là ông Nguyễn Văn M là Chủ tịch ủy ban xã năm 2015, ông Lã Xuân G là Chủ tịch ủy ban xã năm 2016 ký, sau đó làm thủ tục thanh toán tại Kho bạc nhà nước huyện Sơn Động rút tổng số tiền 249.124.000đ (Hai trăm bốn chín triệu, một trăm hai mươi tư nghìn đồng) để chi không đúng mục đích (chi quà tết, trả nợ việc mua sắm tài sản, sửa chữa thi công công trình). Quá trình lập chứng từ, hợp đồng khống để thanh quyết toán với Kho bạc, Hoàng Văn D đã tự mình ký tên “T”, “Nguyễn Văn T” vào các mục “Người nhận tiền”, “Người xin thanh toán”, “Đại diện bên nhận thầu, nhận khoán” và D ký vào các mục “Kế toán trưởng”, “Người lập”, “Kế toán”. Tòa án sơ thẩm nhận định: – Hành vi của bị cáo Hoàng Văn D đã thực hiện không đúng về quản lý, sử dụng ngân sách quy định tại Thông tư 60/2003/TT- BTC ngày 23/6/2003 của Bộ tài chính quy định về quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn; Điều 82 Nghị định 60/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước năm 2002; khoản 5, 9 Điều 72 Luật ngân sách nhà nước năm 2002; Khoản 1, khoản 4 Điều 6 Luật kế toán năm 2003. – Có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Văn D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 221 Bộ luật hình sự. – Cần áp dụng hình phạt thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để răn đe bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. – UBND huyện S có ý kiến đối với số tiền bị cáo làm thiệt hại và tài sản đã làm và mua sắm như sau: Về số tiền bị cáo và người liên quan làm thiệt hại 141.680.000đ, UBND huyện đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng giao cho UBND xã D quản lý theo quy định. Về tài sản đã dùng tiền lập chứng từ khống để làm và mua sắm, UBND huyện chấp nhận cho nhập vào tài sản công của UBND xã D quản lý. – Ủy ban nhân dân xã D yêu cầu bị cáo Hoàng Văn D và những người liên quan bồi thường số tiền 141.680.000đ để UBND xã D quản lý theo quy định. Bị cáo D và ông G, ông M đã tự nguyện liên đới nộp Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo D và ông G, ông M tự nguyện thỏa thuận với nhau để nộp số tiền khắc phục hậu quả là đúng quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận. – Xét thấy hành vi của ông M, ông G đều vì công việc chung của Ủy ban xã D, không ai có vụ lợi cá nhân và do năng lực quản lý yếu; số tiền gây thất thoát chưa đến mức phải xử lý hình sự; vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý hình sự đối với ông M và ông G. Tuy nhiên Cơ quan điều tra đã có Công văn tham mưu với Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện S có hình thức xử lý về Đảng và chính quyền về những vi phạm nêu trên của ông M, ông G; Hội đồng xét xử thấy là có căn cứ cần chấp nhận. – Đối với ông Nguyễn Văn Đ là thủ quỹ Ủy ban nhân dân xã D, quá trình điều tra xác định ông Đ không biết việc bị cáo D lập chứng từ khống để rút tiền tại Kho bạc; vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét xử lý; Hội đồng xét xử thấy là có căn cứ cần chấp nhận. Tòa án sơ thẩm tuyên: 1. Về tội danh: Bị cáo Hoàng Văn D (Hoàng Anh D) phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. 2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 01 (một) năm 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 08/8/2019. Về hình phạt bổ sung: Cấm Hoàng Văn D đảm nhiệm chức vụ làm tài chính kế toán thời gian là 02 năm kể từ ngày chấp hành xong bản án. 3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Buộc bị cáo Hoàng Văn D và ông Nguyễn Văn M, ông Lã Xuân G phải liên đới bồi thường cho UBND xã D do ông Nguyễn Văn T đại diện số tiền là: 141.680.000đ (Một trăm bốn mươi mốt triệu, sáu trăm tám mươi nghìn đồng); cụ thể: Ông M 60.000.000đ, ông G 50.000.000đ, bị cáo D 31.680.000đ. Ghi nhận số tiền bị cáo D và ông M, ông G đã nộp đủ để bồi thường cho UBND xã D, nhưng cần tạm giữ để bảo đảm cho việc thi hành án dân sự. 4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn D số tiền: 107.444.000đ (Một trăm linh bẩy triệu, bốn trăm bốn mươi bốn nghìn đồng chẵn). |
1-10 |
2 | Bản án số: 49/2019/HSST ngày 26/09/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
Về: “Tội tham ô tài sản, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và vi phạm quy định kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” Nội dung: Trong quá trình làm chủ tịch UBND xã B từ 2011 đến hết tháng 06/2016 Nguyễn Văn P đã buông lỏng công tác quản lý tài chính, hàng tháng, quý, năm không tổ chức kiểm tra quỹ tiền mặt, không kiểm tra việc thu chi và thanh quyết toán ngân sách xã. Nguyễn Thị K thủ quỹ ngân sách xã thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch UBND xã và kế toán để cho việc cán bộ, kế toán xã tạm ứng, vay, chi tiền quỹ sai nguyên tắc tài chính, không có phiếu tạm ứng, không viết phiếu chi và để cho Trần Văn T là công chức Tài chính – Kế toán UBND xã B tự điều hành quỹ tiền mặt của UBND xã B, chi sai nguyên tắc tài chính, không đúng các mục, tiểu mục theo dự toán được duyệt, chi nhiều khoản không thuộc danh mục chi như: Chi tiếp khách, chi hỗ trợ các đoàn thể, chi nghỉ mát, du lịch, lễ chùa…và chi tiêu cá nhân từ tháng 04/2012 đến 31/12/2016 (tính đến thời điểm UBND xã B đã duyệt quyết toán, năm 2017 và năm 2018 chưa phê duyệt quyết toán), sau đó T hợp thức quyết toán các khoản chi như dự toán được duyệt gây thiệt hại nghiêm trọng với số tiền là 2.390.381.100đ (gồm: tiền lương, phụ cấp của cán bộ xã tổng số tiền 953.529.900đ, tiền hỗ trợ bảo vệ đất trồng lúa cho dân là: 486.851.200đ, tiền nợ ông Chu Văn A8 để trả tiền giải phóng mặt bằng là: 950.000.000đ) và Trần Văn T đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt số tiền do mình quản lý là: 139.325.000đ. Tòa án sơ thẩm nhận định: – Hành vi của Trần Văn T phạm vào các tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3 Điều 221 và tội “Tham ô tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 353 của Bộ luật hình sự năm 2015. – Nguyễn Văn P là Chủ tịch UBND xã B, chủ tài khoản của UBND xã B, là người được giao quản lý, điều hành ngân sách của UBND xã B. Tuy nhiên, Nguyễn Văn P đã giao lại cho kế toán là Trần Văn T thay mặt điều hành quỹ tiền mặt mà không kiểm tra hay giám sát. Hành vi thiếu trách nhiệm của Nguyễn Văn P gây hậu quả không có tiền để trả lương, phụ cấp cho cán bộ xã số tiền 580.713.400đ đã phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 Điều 360 của Bộ luật hình sự 2015. – Nguyễn Thị K là thủ quỹ của UBND xã B, được giao nhiệm vụ quản lý quỹ tiền mặt của UBND xã B, biết Trần Văn T dùng một phần các khoản tiền này sử dụng chi các khoản khác không nằm trong dự toán, không có phiếu chi, phiếu tạm ứng nhưng vẫn chấp hành, xuất quỹ theo sự chỉ đạo của Trần Văn T. Số thực tế còn thiệt hại mà Nguyễn Thị K phải chịu trách nhiệm hình sự là: 712.777.600đ. Hành vi thiếu trách nhiệm của Nguyễn Thị K phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Khoản 2 Điều 360 của Bộ luật hình sự 2015. – Đối với bị cáo Trần Văn T, tuy rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng chỉ có thể phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt mới có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, như vậy cũng đã thể hiện sự khoan hồng sâu sắc của pháp luật đối với bị cáo. – Bị cáo Nguyễn Văn P bị cáo là người có nhiều thành tích trong quá trình công tác được khen thưởng nên cần được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, với vai trò là chủ tài khoản nhưng bị cáo đã buông lỏng quản lý dẫn đến thất thoát tài sản do đó cần phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa tội phạm, phục vụ tốt công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. – Nguyễn Thị K , xét thấy, bị cáo chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của chủ tài khoản và của kế toán, không được hưởng lợi gì từ những khoản tiền mà T làm thất thoát. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên chỉ cần phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ để giáo dục bị cáo thành người có ích, đảm bảo chính sách hậu phương quân đội và không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. – Trách nhiệm bồi thường phải do T gánh chịu, cho nên đề nghị của người bào chữa không được chấp nhận, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tại phiên tòa. – Như vậy cần buộc Trần Văn T phải bồi thường cho UBND xã B, huyện Y số tiền tham ô là 139.325.000đ, xác nhận đã nộp đủ. – Buộc Trần Văn T phải bồi thường cho UBND xã B, huyện Y số tiền 2.390.381.100đ, xác nhận bị cáo đã bồi thường được 727.603.500đ, bị cáo P và bị cáo K tự nguyện cùng T bồi thường 130.000.000đ, số tiền còn phải bồi thường tiếp là 1.532.777.600đ (Là các khoản chi lương và phụ cấp và khoản tiền nợ của ông Chu Văn A8). Tòa án sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tham ô tài sản” và tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”; Bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Thị K phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. [1] Phạt Trần Văn T 07 năm tù về tội “Tham ô tài sản” và 10 năm tù về tội “Vi phạm về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Tổng hợp hình phạt, buộc Trần Văn T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 17 (Mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 06/4/2018. Phạt Nguyễn Văn P 04 năm 06 tháng tù, tổng hợp hình phạt 06 năm 06 tháng tù của Bản án số: 25/2019/HSST ngày 24/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 11 (Mười một) năm tù. Được trừ thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án số 25/2019/HSST và thời gian tạm giam từ ngày 18/4/2018 đến ngày 17/8/2018. Phạt Nguyễn Thị K 03 (Ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (Năm) năm. [2] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. – Buộc Trần Văn T phải bồi thường cho Uỷ ban nhân dân xã B, huyện Y số tiền tham ô là 139.325.000đồng (Một trăm ba mươi chín triệu ba trăm hai mươi lăm nghìn đồng), xác nhận đã nộp đủ. – Buộc Trần Văn T phải bồi thường cho Uỷ ban nhân dân xã B, huyện Y số tiền 2.390.381.100đ, xác nhận bị cáo đã bồi thường được 727.603.500đ, bị cáo P và bị cáo K tự nguyện cùng T bồi thường 130.000.000đ, số tiền còn phải bồi thường tiếp là 1.532.777.600đ (Một tỷ năm trăm ba mươi hai triệu bảy trăm bảy mươi bảy nghìn sáu trăm đồng). Trả lại cho Trần Văn T 01 điện T di động Iphone nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án. (Có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09 tháng 6 năm 2019 giữa Công an tỉnh Vĩnh Phúc và Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc). [3] Án phí: Các bị cáo Trần Văn T, Nguyễn Văn P, Nguyễn Thị K mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Văn T phải chịu 57.983.000đ (Năm mươi bảy triệu chín trăm tám mươi ba nghìn đồng) án phí dân sự trong vụ án hình sự. |
11-31 |
3 |
Bản án số: 204/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn
Về “Tội vi phạm quy định kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” Nội dung: Hội Nông dân tỉnh Lạng Sơn là tổ chức Chính trị – Xã hội, thực hiện chức năng tổ chức, xây dựng Hội Nông dân, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Hội viên. Cơ cấu tổ chức của Hội gồm: Chủ tịch, 03 Phó Chủ tịch và 05 Phòng, Ban chức năng, trong đó Vũ Trọng B là Chủ tịch Hội. Từ năm 2014 đến năm 2017, Hội Nông dân tỉnh Lạng Sơn đã sử dụng kinh phí từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước cấp, nguồn phí ủy thác, hoa hồng từ Ngân hàng Chính sách Xã hội, nguồn thu từ hoạt động quỹ hỗ trợ nông dân, nguồn thu từ hội phí vào việc triển khai thực hiện các chương trình tập huấn, hội thi, hội nghị… Sau khi thực hiện xong đã lập hồ sơ, chứng từ thanh quyết toán theo quy định. Do kinh phí của Hội eo hẹp, lợi dụng vào việc tổ chức các chương trình này, Vũ Trọng B – Chủ tịch Hội đã chỉ đạo Lê Thị V (Kế toán) làm trái quy định về Kế toán, lập khống một số bộ chứng từ quyết toán liên quan đến các nội dung tập huấn, hội thi và hội nghị để rút tiền từ Ngân sách Nhà nước chi phí cho các công việc chung của Hội. Lê Thị V đã lập khống 12 bộ chứng từ, quyết toán với tổng số tiền 788.440.000 đồng. Tòa án sơ thẩm nhận định: [1] Các bị cáo Vũ Trọng B và Lê Thị V phạm tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng theo điểm d khoản 2 Điều 221 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng số 87/CT-VKS-P3 ngày 17 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội. [2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, quy định của Nhà nước về kế toán, gây mất trật tự tại địa phương, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước. Do vậy, hành vi của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật. [3] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo. [4] Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn. Bị cáo Vũ Trọng B đã chỉ đạo cấp dưới lập khống 12 bộ chứng từ để rút 788.440.000 đồng từ Ngân sách; mặc dù không có động cơ vụ lợi, nhưng hành vi đó đã vi phạm Luật Ngân sách nhà nước và Luật Kế toán, gây thất thoát cho tài sản của Nhà nước, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm chính và chịu mức án cao hơn bị cáo còn lại. Bị cáo Lê Thị V, mặc dù biết trái quy định của pháp luật, nhưng bị cáo không ngăn cản, mà còn tham gia tích cực, tự soạn thảo và lập khống 12 bộ hồ sơ để rút tiền từ Ngân sách, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm đồng phạm với vai trò người giúp sức, thực hiện. [5] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s; 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b; 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t; 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1 và 01 tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Cả hai bị cáo đều có 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. [6] Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự cho các bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt đã truy tố cũng đảm bảo tác dụng giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. [7] Xét thấy cả hai bị cáo trước khi phạm tội đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; hồ sơ vụ án thể hiện các bị cáo từ trước tới nay chấp hành tốt chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm. Việc cho các bị cáo hưởng án treo cũng không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. [8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo hiện nay không đảm nhiệm chức vụ gì, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 221 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Tòa án sơ thẩm tuyên: 1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Trọng B và Lê Thị V phạm tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng. 2. Về hình phạt: – Xử phạt bị cáo Vũ Trọng B 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. – Xử phạt bị cáo Lê Thị V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. 3. Về xử lý vật chứng: 3.1. Tịch thu số tiền 662.550.000 đồng (sáu trăm sáu mươi hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) nộp Ngân sách Nhà nước. Xác nhận bị cáo Vũ Trọng B đã nộp 443.300.000 đồng. Bị cáo Lê Thị V đã nộp 345.000.000 đồng. Tổng cộng hai bị cáo đã nộp 788.300.000 đồng. … xem thêm tại file pdf |
32-41 |
LINK PDF: Tổng hợp 08 bản án về tội vi phạm quy định kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
……………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn