FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 05 BẢN ÁN GIẢI QUYẾT VỀ TRỢ CẤP TUẤT, TRỢ CẤP MAI TÁNG VÀ TRỢ CẤP THỜ CÚNG LIỆT SĨ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT |
NỘI DUNG BẢN ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án phúc thẩm số: 19/2021/HC-PT ngày 19/01/2021 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính” Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 31/12/2019, ông Phạm Văn C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết huỷ bỏ Công văn số 1903/SLĐTBXH-NCC ngày 08/10/2019 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh N trả lời ông C về khoản tiền được Chính phủ hướng dẫn chi trả (từ Điều 19 – Điều 24) cụ thể là tiền nuôi dưỡng, tiền mai táng phí, tiền tuất ban đầu và một số tiền lặt vặt khác với số chi trả của Chính phủ theo Bằng Tổ quốc ghi công mà ông chưa nhận được của mẹ ông với lý do mẹ của ông chỉ nuôi liệt sĩ 16 năm nên chưa đạt đủ tiêu chuẩn của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn C về việc yêu cầu huỷ Công văn số 1903/SLĐTBXH-NCC ngày 08/10/2019 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh N. Ngày 23/6/2020, ông Phạm Văn C có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Đồng chí Đãng 13 tuổi thì bố mẹ qua đời và được cụ D nuôi dưỡng; tháng 3/1953 đồng chí Đãng nhập ngũ và hy sinh ngày 31/7/1953. Như vậy, khoảng thời gian từ khi bố mẹ liệt sĩ qua đời đến khi liệt sĩ nhập ngũ là 08 năm, và khi được cụ D nuôi dưỡng thì liệt sĩ đã 13 tuổi, thời gian cụ D nuôi liệt sĩ khi còn dưới 16 tuổi là 04 năm. Do vậy, trường hợp cụ D chưa đủ điều kiện để được giải quyết trợ cấp tuất công nuôi liệt sĩ; việc giải quyết chế độ trợ cấp tuất công nuôi liệt sĩ đối với người đã chết là không thực hiện được Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Bác kháng cáo của ông Phạm Văn C; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm. |
1 – 6 |
2 |
Bản án phúc thẩm số: 314/2017/HC-PT ngày 30/10/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Về việc: “Khiếu kiện: 1. Quyết định dừng và thu hồi trợ cấp thờ cúng liệt sĩ; 2. Quyết định giải quyết khiếu nại; 3. Hành vi thực hiện quyết định trợ cấp tuất vợ liệt sĩ.” Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 16/10/1997, Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Hải Dương ban hành Quyết định 442/LĐTBXH cấp Giấy chứng nhận và trợ cấp tuất cho bà Vũ Thị M là vợ liệt sĩ Vũ Khánh N2 từ ngày 01/01/1995 và từ đó thực hiện trợ cấp tuất liệt sỹ đối với bà M cho đến nay. Ngày 21/10/2013, Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Hải Dương ban hành Quyết định 1917/QĐ-SLĐTBXH với nội dung trợ cấp thờ cúng liệt sĩ Vũ Khánh N2 đối với ông Vũ Khánh N1 số tiền 500.000 đồng/năm. Ngày 26/02/2015, Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Hải Dương ban hành Quyết định số 225/QĐ-SLĐTBXH với nội dung: Dừng thực hiện Quyết định số 1917/QĐ-SLĐTBXH và thu hồi trợ cấp thờ cúng liệt sĩ đối với ông N1, cụ thể là 02 năm x 500.000 đồng/năm = 1.000.000 đồng. Tuy nhiên ông N1 không nhận được Quyết định này, sau khi khiếu nại đến Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Hải Dương, tại buổi làm việc với Thanh tra Sở ngày 25/11/2015 về việc giải quyết khiếu nại ông N1 mới nhận được bản photo Quyết định 225/QĐ-SLĐTBXH. Qua nhiều lần khiếu nại ông N1 khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương yêu cầu: Hủy Quyết định số 225/QĐ-SLĐTBXH, Hủy các quyết định giải quyết khiếu nại và buộc Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Hải Dương dừng thực hiện Quyết định số 442/QĐ-SLĐTBXH ngày 16/10/1997. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Khánh N1 Ngày 15/6/2017, ông Vũ Khánh N1 có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Việc Giám đốc SLĐTBXH tỉnh Hải Dương xác định bà M đã được gia đình và chính quyền địa phương thừa nhận là vợ liệt sĩ từ năm 1962 và căn cứ vào khoản 1 Điều 19 Nghị định số 28/1995/NĐ-CP ngày 29/4/1995 và Khoản 1 Điều 21 Nghị định 31/2013/NĐ-CP ngày 09/3/2013 của Chính phủ để ban hành Quyết 10 định 225/QĐ-SLĐTBXH với nội dung dừng và thu hồi trợ cấp thờ cúng liệt sĩ đối với ông N1 do bà M là vợ liệt sĩ đang được hưởng chế độ tuất vợ liệt sĩ là đúng. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của ông Vũ Khánh N1, giữ nguyên các các quyết định của bản án hành chính sơ thẩm. |
7 – 18 |
3 |
Bản án phúc thẩm số: 24/2019/PT-DS ngày 09/05/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
Về việc: “Tranh chấp về thừa kế tài sản” Tóm tắt nội dung vụ án: Bà Trần Thị H trình bày: Bà có ông ngoại là liệt sỹ Trần Cao Đệ hy sinh năm 1951, được công nhận liệt sỹ năm 2000; cậu ruột là liệt sỹ Trần Bỉnh Quân hy sinh năm 1950, được công nhận liệt sỹ năm 1960; bà ngoại là Trần Thị Yên mất năm 1990, được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng tháng 7 năm 2017. Tháng 7 năm 2017, nhà nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng đối với cụ Trần Thị Yên và tiền thưởng kèm theo là 20.150.000đ. Số tiền này con cụ Yên là Bà Trần Thị T đã nhận. Bà có quan điểm toàn bộ số tiền này là phải thuộc về bà vì bà có công nuôi dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Yên. Nay bà khởi kiện yêu cầu Bà Trần Thị T phải trả lại cho bà toàn bộ số tiền 20.150.000đ mà nhà nước khen thưởng khi truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng đối với cụ Trần Thị Yên. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị H. Buộc ông Trần Quyết T1 phải thanh toán cho NLQ2, Bà Trần Thị H mỗi người 2.518.700 đồng (Hai triệu năm trăm mười tám nghìn bảy trăm đồng). Số tiền này được lấy ra từ số tiền trợ cấp tuất một lần và tiền trợ cấp mai táng 26.554.300 đồng mà Bà Trần Thị T được hưởng, hiện ông Trần Quyết T1 là người quản lý. Tại đơn kháng cáo các ngày 19/10/2018, 22/10/2018, 26/10/2018 bà Trần Thị T1, ông Trần Quyết T1, Trần Quyết T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Bà Trần Thị T (tức Cúc) chết ngày 25/5/2018, nên việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do bà Thảo để lại được thực hiện theo quy định tại Điều 615 của Bộ luật dân sự 2015. Khi chết Bà Trần Thị T được hưởng chế độ tiền trợ cấp tuất một lần và tiền trợ cấp mai táng là 26.554.300 đồng, người được đứng nhận tiền trợ cấp là ông Trần Quyết T1. Ông T1 khai là đã sử dụng hết số tiền 26.554.300 đồng vào việc làm đám ma và 49 ngày cho bà Thảo nhưng ông không đưa ra được các chứng cứ chứng minh chi phí hợp lý cho việc sử dụng hết số tiền 7 26.554.300 đồng. Số tiền trợ cấp 26.554.300 đồng mà Bà Trần Thị T được hưởng khi chết là di sản do bà Thảo để lại và chưa được chia, ông Trần Quyết T1 là người quản lý di sản nên buộc ông Trần Quyết T1 phải thanh toán cho NLQ2 và Bà Trần Thị H mỗi người là 2.518.700 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật. Số tiền này được lấy ra từ số tiền trợ cấp tuất một lần và tiền trợ cấp mai táng 26.554.300 đồng mà Bà Trần Thị T được hưởng. Vì vậy kháng cáo của bà T1, ông T2, ông T1 là không có căn cứ chấp nhận. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
19 – 26 |
4 |
Bản án sơ thẩm số: 10/2022/HC-ST ngày 10/08/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
Về việc: “Khiếu kiện quyết định dừng trợ cấp thờ cúng liệt sĩ” Tóm tắt nội dung vụ án: Ông Phạm Ngọc B là cháu ruột liệt sỹ Phạm Học B và là em ruột liệt sĩ Phạm Ngọc H. Năm 2016, ông Phạm Ngọc B lập hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thờ cúng hai liệt sĩ là Phạm Học B và Phạm Ngọc H. Sau khi ông Bé được hưởng trợ cấp thờ cúng Liệt sỹ B và Hựu, tháng 7/2016 bà Phạm Thị H (là vợ ông Xuân, chị dâu cả của ông Bé và là cháu dâu của liệt sỹ Bợi, chị dâu của liệt sỹ Hựu) có đơn kiến nghị tranh chấp quyền thờ cúng liệt sỹ, ngày 16/8/2017 Sở LĐTBXH đã ban hành Quyết định số 3640/QĐ-SLĐTBXH (gọi tắt là Quyết định 3640) và Quyết định số 3641/QĐ-SLĐTBXH (gọi tắt là Quyết định 3641) về việc dừng trợ cấp thờ cúng đối với ông Phạm Ngọc B từ năm 2018. Ông Phạm Ngọc B khởi kiện yêu cầu: Hủy Quyết định số 3640/QĐ-SLĐTBXH và Quyết định số 3641/QĐ-SLĐTBXH; khôi phục các quyền lợi của người thờ cúng liệt sĩ và trả khoản trợ cấp thờ cúng liệt sĩ từ năm 2018 đến nay đối với 02 liệt sĩ Phạm Học B và Phạm Ngọc H. Ngày 17 tháng 6 năm 2022, ông Phạm Ngọc B, bổ sung yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương buộc Sở LĐTBXH giải quyết cho ông Bé truy lĩnh tiền trợ cấp thờ cúng đối với liệt sĩ Phạm Học B từ năm 2003 đến năm 2012. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Do gia đình ông Bé và họ tộc không thống nhất được người ủy quyền việc thờ cúng liệt sỹ Phạm Ngọc H và liệt sĩ Phạm Học B nên Sở LĐTBXH tỉnh Hải Dương đã ban hành các Quyết định số 3640 và Quyết định 3641 về việc dừng trợ cấp thờ cúng liệt sĩ Hựu và Bợi đối với ông Bé là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông Bé. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Ngọc B |
27 – 36 |
5 |
Bản án sơ thẩm số: 12/2022/HC-ST ngày 07/04/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
Về việc: “Hủy quyết định hành chính về thực hiện chế độ chính sách ưu đãi đối với thân nhân liệt sĩ” Tóm tắt nội dung vụ án: Mẹ của ông Nguyễn Văn X, Bà Nguyễn Thị K là người nhận chế độ trợ cấp tuất liệt sĩ Nguyễn Đức Th hàng tháng, nhưng không biết lý do gì từ năm 1996 bà Kh1 là người nhận chế độ này, trong khi đó năm 1999 bà Kéo mới mất. Ngày 15/5/2019, ông X có đơn kiến nghị gửi UBND xã Hòa Th và Ban Thương binh xã hội xã Hòa Th về việc kiến nghị xem xét việc giải quyết chế độ liệt sĩ Nguyễn Đức Th và ngày 21/5/2019, UBND xã Hòa Th có văn bản số 106/UBND về việc trả lời đơn kiến nghị của ông Nguyễn Văn X. Sau khi nhận được văn bản này ông có đơn có đơn yêu cầu giám định chữ ký (Nguyễn Văn X) trong các biên bản họp họ tộc và đơn xin hưởng chế độ trợ cấp của liệt sĩ Nguyễn Đức Th của bà Nguyễn Thị Kh1 nhưng không được các sở ban ngành chấp nhận. Vì vậy ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi các vấn đề sau: – Không công nhận và hủy Văn bản trả lời đơn khiếu nại nêu trên (Văn bản số 717/SLĐTBXH-TTr ngày 18/6/2021 của Sở Lao động – Thương binh và xã hội tỉnh Phú Yên); – Không công nhận việc chi trả chế độ ưu đãi vợ liệt sĩ tái giá cho bà Nguyễn Thị Kh1 vì bà Kh1 không đủ điều kiện được hưởng theo quy định; – Đề nghị xem xét giải quyết cho ông Nguyễn Văn X được hưởng chế độ tuất liệt sĩ đối với Liệt sĩ Nguyễn Đức Th theo quy định. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Theo quy định của Pháp lệnh số: 02/2020/UBTVQH14 ngày 09/12/2020 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì ông Nguyễn Văn X (là em của liệt sĩ Nguyễn Đức Th) không phải là đối tượng được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng của liệt sĩ Nguyễn Đức Th. Từ những lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X mà chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn X |
37 – 45 |
LINK PDF: TỔNG HỢP 05 BẢN ÁN GIẢI QUYẾT VỀ TRỢ CẤP TUẤT, TRỢ CẤP MAI TÁNG VÀ TRỢ CẤP THỜ CÚNG LIỆT SĨ
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn