THỰC TIỄN XÉT XỬ: TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM ĐƯỢC TÒA ÁN XÉT XỬ NHƯ THẾ NÀO?
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 17/1/2018, Công ty TNHH J (sau đây gọi tắt là J) có đơn khởi kiện đối với Tổng công ty CP B (sau đây gọi tắt là M) yêu cầu khởi kiện buộc M phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường tổn thất cho J số tiền bản hiểm là 3.618.507.316 đồng.
Ngày 25/9/2018, J bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu M phải thanh toán tiền lãi phát sinh kể từ ngày 12/8/2017 đến ngày 30/9/2018 là 415/365 ngày x 8%/năm x 3.618.507.316 đồng = 329.135.460 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, các bên đương sự xác nhận nội dung vụ án như sau:
Ngày 20/4/2016, J và M ký hợp đồng bảo hiểm cháy nổ bắt buộc số 275/16/HĐ-TS.1.1/015- KDBANCAS với nội dung cơ bản: M bảo hiểm tài sản cho J theo Quy tắc bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ban hành kèm theo Thông tư 220/2010/TT-BTC ngày 30/12/2010 của Bộ tài chính và các điều khoản mở rộng hay sửa đổi bổ sung; giá trị tài sản được bảo hiểm là 17.188.379.961 đồng; tỷ lệ phí bảo hiểm là 0,55% (đã bao gồm 10% thuế VAT); thời hạn bảo hiểm từ 20/4/2016 đến 20/4/2017. J đã đóng xong phí bảo hiểm cho M theo hợp đồng.
Khoảng 16 giờ ngày 26/3/2017, tại Phòng xi mạ của J xảy ra cháy, J đã thông báo cho M; M đã chỉ định Công ty cổ phần giám định Smart giám định tính toán thiệt hại và xác định phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. J cũng đã báo Cảnh sát phòng cháy chữa cháy phong toả hiện trường. Tại kết luận số 376 ngày 08/6/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, thành phố Hà Nội xác định: nguyên nhân cháy là do chập mạch diện phòng xi mạ của J. Theo báo cáo giám định của Công ty cổ phần giám định S đã đề xuất M bồi thường cho J số tiền là 3.618.507.316 đồng so với số khiếu nại thiệt hại của J là 6.332.411.221 đồng. Ngày 10/8/2017, M có thông báo số tiền ước bồi thường theo đánh giá của Slà 3.618.507.316 đồng.
Trong các ngày 29/8/2017, 29/9/2017 và 6/10/2017, M có công văn gửi J yêu cầu cung cấp Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn phòng cháy, chữa cháy của cơ quan công an phòng cháy, chữa cháy có thẩm quyền. Do J không cung cấp nên ngày 14/11/2017, M có công văn số 2624/2017/M-TGĐ gửi J thông báo M chế tài 80% số tiền bồi thường, tương đương 2.894.805.853 đồng, số tiền M đồng ý bồi thường là 723.701.463 đồng. J không đồng ý nên hai bên xảy ra tranh chấp.
Nguyên đơn yêu cầu M phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường tổn thất cho J số tiền bảo hiểm là: 3.618.507.316 đồng và tiền lãi phát sinh kể từ ngày 12.8.2017 đến ngày 30.9.2018 là 415/365 ngày x 8%/năm x 3.618.507.316 đồng = 329.135.460 đồng.
Bị đơn xác định: Do J không hoàn thiện hồ sơ phòng cháy chữa cháy nên M có quyền áp dụng chế tài đối với bên mua bảo hiểm, chỉ đồng ý thanh toán cho JSV 20% số tiền được bảo hiểm là 723.701.463 đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 30/2018/KDTM-ST ngày 23/10/2018 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng bảo hiểm của Công ty TNHH J đối với Tổng công ty CP B.
- Buộc Tổng công ty CP B phải thanh toán số tiền bồi thường tổn thất cho Công ty TNHH J là 1.085.552.194 đồng.
- Án phí: Tổng công ty CP B phải chịu 44.566.565 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Công ty TNHH J phải chịu 89.241.811 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Xác nhận Công ty TNHH J đã nộp 52.000.000 đồng tiền tạm ứng theo biên lai số 0006989 ngày 05/04/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa nên còn phải nộp tiếp 37.241.811 đồng.
- Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, cả nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Nguyên đơn kháng cáo cho rằng bị đơn phải thanh toán toàn bộ thiệt hại là 3,6 tỷ đồng.
Bị đơn kháng cáo cho rằng nguyên đơn có lỗi nên chỉ bồi thường 20% giá trị thiệt hại.
Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa kháng nghị: cho rằng hai bên đều có lỗi, hợp đồng bảo hiểm có quy định bên mua phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy hoặc biên bản xác nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy nhưng phía J (nguyên đơn) không có và vẫn để điện tại khu vực phòng xi mạ khi hết giờ làm mặc dù Cảnh sát PCCC khi tiến hành kiểm tra định kỳ có yêu cầu tắt các thiết bị máy móc không sử dụng, đồng thời ngắt điện các khu vực trước khi ra về nhưng công ty J không thực hiện.
Bị đơn cũng có lỗi khi đã không giải thích cho phía nguyên đơn các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, các giấy tờ cần phải có, không kiểm tra việc bên mua bảo hiểm thực hiện phòng chống cháy nổ như thế nào.
Do đó, xác định lỗi mỗi bên là 50% nên đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bên đương sự không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ gì mới.
Nguyên đơn và bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và không đồng ý với Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa.
Luật sư T – Công ty Luật T– Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn J nhất trí với ý kiến của nguyên đơn và đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng cáo và sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tổng công ty CP Q vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, nguyên đơn có lỗi nên chỉ bồi thường 20% giá trị thiệt hại. Đề nghị HĐXX sửa án sơ thẩm theo hướng M bồi thường cho khách hàng 20% giá trị tổn thất như M đã thông báo tới khách hàng tại Công văn số 2624/2017/MIC-TGĐ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án đã đề nghị: giữ nguyên kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, bác kháng cáo của cả nguyên đơn và bị đơn. Xác định lỗi các bên là 50% và M phải bồi thường 50% giá trị thiệt hại. Lãi chậm thanh toán không được chấp nhận.
Xem chi tiết bản án: 09/2019/KDTM-ST của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
…………………………………………………………………………………………………………
Luật sư tại Đà Nẵng:
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Phú Quốc:
65 Hùng Vương, thị trấn Dương Đông, huyện đảo Phú Quốc.
Website: www.fdvn.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/