Ngày 26 tháng 11 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra thông báo số 890/TB-VKSTC về “Rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự”
Trong vụ án dân sự sơ thẩm “ Tranh chấp đòi nhà, đất cho ở nhờ” giữa nguyễn đơn là ông Lương Văn D với bị đơn là bà Phạm Thị Q (bà Q chết năm 2013, người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q là chị Phạm Thị D cùng người khác) xảy ra tại Thành phố HN
Trong đó theo nguyên đơn: Diện tích đất tranh chấp 1 547m2, có một ngôi nhà 5 gian lợp ngói. thuộc thửa 25, Tờ bản đồ số 5 tại thôn LX, xã KC, huyện HĐ, tp HN là của cụ Lương Văn Đ (là bố đẻ của ông D, đã chết năm 1972) được Ủy ban hành chính tỉnh HĐ cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất năm 1956, có xây dựng một ngôi nhà 5 gian lợp ngói.
Khoảng năm 1952, cụ Đ giao nhà và đất trên cho gia đình cụ Lương Văn T (anh ruột cụ Đ) và các con cụ T là vợ chồng ông lương văn K (chết năm 1999) bà Phạm Thị Q (chết năm 2013) ở nhờ, quản lý và thu hoạch hoa lợi từ ao vườn trên; gia đình cụ Đ vẫn thường xuyên về chăm sóc vườn, thờ cúng tổ tiên.
Năm 1966 cụ Đ viết giấy chuyển quyền sở hưu, sử dụng toàn bộ nhà đất trên cho ông D ( được Ủy ban hành chính xã KC và chủ tịch Ủy ban hành chính huyện HĐ xác nhận ngày 30/08/1967) sau đó gia đình ông D có sơ tán và về ở tại nhà đất nêu trên.
Năm 1980 vợ chồng ông K và bà Q tháo dỡ công trình phụ xây nhà cấp 4 để ở trên một phần đất nêu trên sau đó xảy ra tranh chấp;
Ngày 19/06/1996 khi UBND xã giải quyết tranh chấp giữa hai bên, ông K đã xác nhận gia đình ông đang sử dụng nhờ thửa đất số 2536 của cụ Đ;
Cuối năm 1996, ông K được cấp đất để làm nhà ở, nhưng gia đình ông K bà Q vẫn không chịu trả lại đất cho ông D nên ông D khởi kiện yêu cầu bà Q (vợ ông K) trả đất cho ông.
THEO BỊ ĐƠN: bà Q cho rằng diện tích đất nêu trên là của cha ông để lại, cụ Đ tự ý kê khai; phần diện tích đất gia đình bà đang sử dụng đã được gia đình sử dụng từ trước năm 1952; việc ông K xác nhận ở nhờ trong biên bản hòa giải là do người khác viết them vào.
DIỄN BIẾN QÚA TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TÒA ÁN VỤ ÁN CÓ VI PHẠM
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2007/DSST Ngày 30/05/2007 TAND tỉnh HT (nay là HN) quyết định buộc bà Q, và các thừa kế của ông K trả lại các thừa kế của cụ Đ do ông D đại diện: nhà 05 gian lợp ngói, cây cối trên đất và quyền sử dụng 1440m2 đất tại thôn LX, xã KC huyện HĐ, tỉnh HT;
Các thừa kế của cụ Đ do ông D đại diện được quyền sở hữu các tài sản do gia đình và Q xây dựng trên đất gồm nhà, bếp nhưng phải thanh toán giá trị là 30.538.000 đồng, thanh toán công sức tu sửa, quản lý duy trì tài sản và hỗ trợ tạo lập nơi ở mới cho bà Q và các con bà Q số tiền là 70.000.000đồng.
Bản án phúc thẩm số 51/2008/DSPT ngày 05/03/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Giữ nguyên bản án dân sự sơ thâm nêu trên.
Quyết định giấm đốc thẩm số 53/2012/GĐT-DS ngày 27/09/2012 Hội đồng thẩm phán TAND tối caao quyết định: Hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, với nhận định: Quá trình giải quyết vụ án, tòa án các cấp chưa làm rõ nguồn gốc, diện tích đất thửa đất 2536 và các thửa khác thuộc khu đất đang tranh chấp. theo các giấy tờ đất đứng tên cụ Đ thì bao gồm cả đất ở và đất ao, nhưng nay chính quyền địa phương lại xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp là đất thổ cư….
Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2014/DS-ST ngày 28/4/2014 của TAND thành phố HN quyết định: Chấp nhận yêu cầu đòi đất cho ở nhờ của ông Lương Văn D. Buộc những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Phạm Thị Q phải trả toàn bộ diện tích 05 gian nhà lợp ngói và quyền sử dụng 1.547 m2 đất (trong đó có 97.7m2 đất công); giao cho ông D tiếp tục quản lý, sử dụng 97,7m2 đất công nêu trên cho đến khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ông D được quyền sở hữu các tài sản do gia đình bà Q xây dựng trên đât, nhưng phải thanh toán cho những người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Q số tiền là 30.538.000 đồng và công sức trông nom, quản lý duy trì tài sản và hỗ trợ tạo lập nơi ở cho những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q số tiền 300.000.000 đồng
Bản án dân sự phúc thẩm số 05/2015/DS-PT ngày 14/01/2015 Tòa phúc thẩm TAND tối cao quyết định: sửa một phần bản án dân sự phúc thẩm nêu trên: sửa phần thanh toán công sức trông nom, quản lý duy trì tài sản và hỗ trợ tạo lập nơi ở cho những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Q số tiền 400.000.000 đồng. Các phần khác giữ nguyên.
Quyết định giám đốc thẩm số 29/2020/DS-GDT ngày 10/06/2020, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 103/2019/KN-DS ngày 30/12/2019 của chánh án TAND tối cao; hủy Bản án dân sự phúc phẩm số 05/2015/DS-PT ngày 14/01/2015 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao HN và Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2014/DS-ST ngày 28/4/2014 của TAND thành phố HN; giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố HN xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
VI PHẠM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
– Buộc bị đơn giao phần diện tích đất công cho nguyên đơn – Theo kết quả đo đạc thẩm thẩm định của TAND thành phố HN ngày 09/08/2018 phần đất tranh chấp có diện tích 1.547m2, trong đó có 97.7m2 đất công thuộc Nhà nước quản lý, chứ không thuộc quyền sử dụng của bị đơn;
Tòa án tối cao nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc những người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn phải trả cho nguyên đơn phần diện tích đất công này là không đúng quy định của pháp luật.
– Không xem xét thỏa đáng công sức trong việc giữ gìn, quản lý, cải tạo và sử dụng đất tranh chấp – Vì gia đình ông K bà Q có công sức trong việc giữ gìn, quản lý, cải tạo và sử dụng đất tranh chấp trên để ở từ những năm 1950 đến nay;
Tòa án tối cao nhận định : Trong trường hợp đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của cụ Đ cũng nên để các thừa kế của vợ chồng ông K, bà Q sử dụng một phần đất xây dựng nhà nhằm ổn định nơi ở mới phù hợp, vì với diện tích đất tranh chấp có thể tách thửa được. Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phucs thẩm buộc những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Q trả lại toàn bộ diện tích đất trên cho ông D là không hợp tình, hợp lý.
– Việc xác định phần điện tích đất tranh chấp của ông D chưa rõ ràng:
Tòa án tối cao nhận định: Nguồn gốc phần đất tranh chấp có diện tích 1.547m2 thuộc thửa đất 25, tờ bản đồ số 5. Theo bản đồ năm 1939, gồm các thửa: 2534, 2536, 2537, 2538, nhưng theo Giấy đăng bộ năm 1941, cụ Đ không đứng tên thửa 2536; Giấy chứng nhận đất cụ Đ chuyển giao cho ông D năm 1966 cũng không có thửa 2536. Trước đó tại Quyết định giám đốc thẩm số 53/2012/GĐT-DS ngày 27/09/2012 Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cũng yêu cầu làm rõ thửa 2536 có phải của cụ Đ và cụ Đ đã chuyển giao lại cho ông D hay không. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm (lần 2) không xác minh làm rõ vấn đề trên, đồng thời cũng chưa làm rõ ngôi nhà 5 gian có phải xây dựng trên thửa đất 2536 hay không, nhưng lại buộc bị đơn trả toàn bộ nhà, đất cho nguyên đơn là chưa đủ căn cứ vững chắc.
Link tải: 890/TB-VKSTC
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/