NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 29/9/2014, Công ty cổ phần L (sau đây viết tắt là Công ty L) và Chi nhánh N – Công ty TNHH MTV D (sau đây viết tắt là Công ty D) ký Hợp đồng thi công xây dựng công trình số 01/2014/HĐ-XD (sau đây viết tắt là Hợp đồng 01) theo đó Chủ đầu tư là Công ty L giao Nhà thầu là Công ty D thực hiện việc thi công xây dựng gói thầu số 1: Hạ tầng kỹ thuật, kè, cổng và tường rào thuộc Dự án đầu tư xây dựng và khai thác Bến xe phía Nam thành phố L; quá trình thi công nếu Nhà thầu có sai sót thì phải sửa chữa sai sót hoặc thanh toán các chi phí cho Chủ đầu tư trong trường hợp Chủ đầu tư tự tiến hành khắc phục sai sót.
[2] Sau khi ký hợp đồng, Công ty D đã tiến hành thi công các hạng mục theo thỏa thuận tại hợp đồng ký kết giữa hai bên. Quá trình thi công công trình giữa các bên không phát sinh tranh chấp gì. Ngày 09/3/2016, đại diện Chủ đầu tư, đại diện tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát và đại diện Công ty D ký Biên bản nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng gói thầu số 01. Theo nội dung Biên bản nghiệm thu thì “các công việc được thi công theo đúng bản vẽ thiết kế và những thay đổi thiết kế đã được phê duyệt, công tác thi công đảm bảo đúng tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ thuật”; “Khu bãi đỗ xe cơ bản xong; Khu tái định cư đã thi công san nền tuy nhiên còn đoạn cuối khu tái định cư giáp bờ suối do còn mặt bằng chưa giải phóng hết nên công tác nắn suối chưa được tiến hành”; “các bên tham gia đồng ý nghiệm thu hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng các hạng mục”. Ngày 03/6/2016, các hạng mục đã được nghiệm thu được đưa vào sử dụng. Ngày 16/12/2016, Công ty L và Công ty D ký Biên bản thanh lý Hợp đồng 01 theo đó nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của Công ty D đã hoàn thành, các hạng mục được chuyển sang nghĩa vụ bảo hành 12 tháng kể từ ngày ký biên bản nghiệm thu, bàn giao và đưa vào sử dụng.
[3] Sau khi nhận bàn giao công trình, quá trình tiến hành thi công các hạng mục khác của dự án, Công ty L tiến hành kiểm tra, xác minh tại hiện trường về chất lượng các hạng mục do Công ty D đã thi công thì phát hiện những sai sót. Tại Biên bản cuộc họp ngày 18/7/2016, Biên bản làm việc ngày 11/11/2016, Biên bản cuộc họp ngày 11/4/2017, Biên bản họp ngày 09/5/2017 đại diện Công ty D thừa nhận những sai sót của nhà thầu trong quá trình thi công. Tại Báo cáo kết quả giám định chất lượng công trình ngày 26/6/2019 của Văn phòng tư vấn TĐTK và GĐCLCT thuộc Trường Đại học T thể hiện có nhiều hạng mục chưa đạt yêu cầu kỹ thuật, chưa đúng thiết kế. Như vậy, căn cứ vào các biên bản làm việc và báo cáo kết quả chất lượng công trình có căn cứ xác định, quá trình thi công Nhà thầu có những sai sót.
[4] Theo điểm c khoản 5.5 Điều 5 của Hợp đồng 01 thì chỉ trong trường hợp sai sót, hư hỏng của Nhà thầu dẫn đến việc Chủ đầu tư bị mất toàn bộ lợi ích từ công trình hay phần lớn công trình không thể đưa vào sử dụng cho đúng mục đích thì Nhà thầu mới phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Chủ đầu tư. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng Công ty D thi công không đúng thiết kế dẫn đến chất lượng công trình không đảm bảo, gây thiệt hại cho Công ty L nên xác định giá trị thiệt hại là tổng giá trị của các hạng mục do Công ty D thi công là 4.222.744.583 đồng, xác định lỗi của Công ty D là 70%, từ đó buộc Công ty D phải bồi thường cho Công ty L 2.955.921.208 đồng (4.222.744.583 x 70%) là không đúng. Trong vụ án này, khối lượng mà Công ty D nhận thầu với Công ty L bao gồm nhiều hạng mục khác nhau (hạ tầng kỹ thuật, kè, mương thoát nước, cổng, tường rào…). Các bên đã lập biên bản nghiệm thu từ tháng 3/2016, đưa vào sử dụng từ tháng 6/2016 và thanh lý hợp đồng vào tháng 12/2016. Theo thỏa thuận giữa các bên tại Điều 5 của Hợp đồng 01 thì Công ty D sẽ phải sửa chữa các hạng mục thi công chưa đúng, nếu Công ty D không tiến hành khắc phục thì Công ty L sẽ thực hiện hoặc thuê người thực hiện và Công ty D phải chịu toàn bộ chi phí. Do đó, để buộc Công ty D bồi thường cho Công ty L thì ngoài việc xác định lỗi, mức độ lỗi của các bên cần xác định thiệt hại, chi phí thực tế của Công ty L phải bỏ ra để khắc phục, sửa chữa những hạng mục có sai sót do Công ty D thực hiện. Tòa án chỉ có thể xác định giá trị thiệt hại là tổng giá trị các hạng mục do Công ty D thi công khi chứng minh được lỗi của Công ty D trực tiếp dẫn đến việc Công ty L mất toàn bộ lợi ích từ công trình hoặc phần lớn công trình không thể đưa vào sử dụng đúng mục đích.
[5] Mặt khác, Biên bản cuộc họp ngày 11/4/2017, đại diện Công ty D xác định: “Thiết kế ban đầu, là không có lõi thép, sau ông Phạm Duy T (Trưởng BQLDA đã yêu cầu sửa thiết kế và đưa lõi thép vào). Do đã thi công được một số, đã dùng, số còn lại đang ở trên hiện trường”… “Trong thiết kế yêu cầu bóc 20cm đất hữu cơ và đơn vị thi công đã bóc đi lớp 30cm, lượng đất hữu cơ còn lại đơn vị thi công không có trách nhiệm”. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến hồ sơ thiết kế ban đầu, thay đổi thiết kế; không làm rõ về việc thay đổi thiết kế, lỗi của các bên trong quá trình thiết kế và thi công. Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án cần làm rõ các hạng mục Công ty D đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, hạng mục nào còn thiếu sót, hạng mục nào không đảm bảo chất lượng dẫn đến hậu quả của những sai sót đó. Trên cơ sở làm rõ vấn đề trên, Tòa án mới có căn cứ để tính toán thiệt hại thực tế từ công trình. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm còn chưa thu thập tài liệu, chứng cứ về việc khắc phục sai sót của Công ty D, chi phí Công ty L phải bỏ ra để khắc phục những sai sót này (đối với những sai sót Công ty D không khắc phục), thiệt hại thực tế của Công ty L để từ đó làm căn cứ buộc Công ty D phải bồi thường. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ các vấn đề nêu trên nhưng buộc Công ty D phải bồi thường 70% tổng giá trị hợp đồng là chưa đủ cơ sở vững chắc.
[6] Ngoài ra, đơn vị giám sát là Công ty TNHH H (sau đây viết tắt là Công ty H) có một phần lỗi do không thực hiện đúng nhiệm vụ giám sát dẫn đến việc công trình không đảm bảo chất lượng. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Công ty H (bên thứ ba) có lỗi nhưng không giải quyết trong vụ án này là chưa toàn diện. Để giải quyết dứt điểm, toàn diện tranh chấp giữa các bên, khi xem xét lại vụ án, Tòa án cần căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và yêu cầu của Công ty L để xác định rõ lỗi, phần trách nhiệm Công ty H phải chịu. Trường hợp Công ty L không yêu cầu Công ty H phải bồi thường phần thiệt hại do lỗi của Công ty H gây ra thì Tòa án ghi nhận sự tự nguyện của các bên.
[Nguồn: Quyết định GĐT số 21/2021/KDTM-GĐT ngày 17/12/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI]
Xem file đính kèm toàn văn Quyết định số: 21/2021/KDTM-GĐT
…………….
Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn