Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu lý luận chung về quyền con người, lý luận và thực tiễn áp dụng các nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền im lặng,.. để bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
Qua đó, bài viết chỉ ra những kiến nghị các biện pháp bảo đảm quyền con người khi áp dụng các nguyên tắc, chế định trong hoạt động tố tụng hình sự, trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Abstract: The articles focus study in argued about human rights, theoretical and reality enforce of presume innocence principle, Right to silence,…. So that protect human rights in Criminal Lawsuit.
Thus, the articles’s show opinons out, solutions about protect human rights when enforce the principle & Criminal Lawsuit with our country situation at the moment.
Từ khóa: Quyền im lặng; Nguyên tắc suy đoán vô tội; Quyền con người; Cải cách tư pháp hình sự.
Keywords: Right to silence, Presume innocence principle, Human rights, Criminal judicial reform.
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Chế định hình sự là một công cụ để nhà nước quản lý xã hội, răn đe, phòng ngừa tội phạm và trừng trị người phạm tội. Do vậy, chế định hình sự mang nặng tính nghiêm khắc từ cơ quan nhà nước và đối tượng bị tác động thường nhận được những định kiến ban đầu là phải bị áp dụng hình phạt.
Nếu việc xử lý, áp dụng hình phạt đúng người và đúng tội thì nhà nước bảo đảm được an toàn xã hội. Tuy nhiên, nếu vì những định kiến, hoặc áp dụng không đúng thì lại tạo ra oan sai, gây ra bất ổn cho xã hội.
Do mang tính trừng trị từ cơ quan nhà nước, vậy nên, các cơ quan sẽ là người chứng minh việc phạm tội. Nhưng vì nôn nóng, lại là bên đang được giữ trọng trách, đại diện cho cơ quan nhà nước, nên một số người thực thi có sự vi phạm, gây ra sai sót trong quá trình điều tra, xét xử. Đơn cử như thời gian vừa qua rất nhiều vụ án oan sai đã diễn ra đó là vụ án Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn,… Chính điều này, đặt ra một vấn đề rằng cần bảo đảm quyền con người cho các nghi phạm trong giải quyết vụ án, như quyền im lặng, nguyên tắc suy đoán vô tội.
Chính vì vậy, với đề tài này tác giả sẽ đi sâu phân tích những quyền về con người được ghi nhận trong pháp luật hình sự, để đưa ra những nhận định, khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện, để bảo đảm việc cải cách tư pháp đạt kết quả tốt.
- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Khái quát quy định về quyền con người
Khái niệm quyền con người trong pháp luật về hình sự là phạm trù có tính lịch sử, phát triển lâu đời, được nhiều ngành khoa học nghiên cứu trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Theo khái niệm chung về quyền con người được phổ biến, thừa nhận thì: “Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế[1].”
Như vậy, quyền con người là những quyền mỗi cá nhân khi sinh ra đều được hưởng những quyền này, đây là những quyền mang tính tự nhiên. Tuy nhiên, để được ghi nhận, thực thi và bảo vệ thì các quyền tự nhiên này phải được Nhà nước ghi nhận, bảo vệ trong hệ thống pháp luật quốc gia, thỏa thuận quốc tế.[2]
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quyền con người cũng bị Nhà nước hạn chế, đó là trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.[3]
Như vậy, trong những trường hợp bảo vệ lợi ích quốc gia, cộng đồng thì một số quyền của công dân bị hạn chế. Khi đi tìm hiểu sâu vào các quy định tại Hiến pháp 2013 thì Hiến pháp làm rõ, đưa thêm nhiều quy định là những quyền cơ bản của con người.
Hiến pháp 2013 đã dành 36 Điều ở Chương II trên tổng số 120 Điều của Hiến pháp cho việc hiến định trực tiếp các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn hoặc tách thành điều riêng hầu hết các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992[4].
Từ những cơ sở hiến định, pháp luật hình sự được xây dựng, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Để đạt được mục tiêu, quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi đã được quy định trong Hiến pháp thì phải được tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành, tránh việc lạm dụng, vi phạm quyền con người, quyền công dân của các cơ quan nhà nước.
- Quy định hiện hành về bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong pháp luật hình sự
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp 2013 liên quan đến các quyền cơ bản của con người, thì Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có những quy định như nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền im lặng….nhằm bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
– Nguyên tắc suy đoán vô tội:
Cội nguồn của suy đoán vô tội bắt nguồn từ thời La Mã cổ đại, được áp dụng trong các giải quyết về tranh chấp dân sự có nội dung cơ bản rằng nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên tố cáo chứ không phải bên đang bị tố cáo.
Sau này, tại Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (1948) – Liên hợp quốc thì nguyên tắc này đã được thể chế hóa (Điều 11) như sau: “1) Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.
2) Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp.”
Hiện nay, trên thế giới, một số quốc gia đã có quy định liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội như sau: Ở Iran, Điều 37 của Hiến pháp Cộng hòa Hồi giáo Iran tuyên bố: “Vô tội là phải được coi là không có ai, và không ai phải chịu tội danh trừ khi tội lỗi của anh ta hoặc cô ta đã được tòa án có thẩm quyền xác lập.”
Tại Ý, đoạn thứ hai của Điều 27 của Hiến pháp nêu rõ: “Một bị cáo sẽ bị coi là không có tội cho đến khi bản án cuối cùng được thông qua”.
Tại Rumani, điều 23 của Hiến pháp quy định rằng: “Bất kỳ người nào sẽ được coi là vô tội cho đến khi bị kết tội bởi phán quyết cuối cùng của tòa án”.
Trong Hiến pháp Nam Phi, phần 35 của Dự luật Nhân quyền nêu rõ: “Mọi người bị buộc tội đều có quyền xét xử công bằng, bao gồm quyền được coi là vô tội, giữ im lặng và không làm chứng trong quá trình tố tụng.”[5]
Như vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội có nghĩa rằng không người nào bị coi là có tội khi các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được người này phạm tội theo các quy định của pháp luật về hình sự và chưa được kết tội bằng bản án có hiệu lực của tòa án.
Trước thời điểm Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực thi hành thì thuật ngữ “suy đoán vô tội” chưa được quy định cụ thể trong điều luật. Tuy nhiên, tư tưởng của nguyên tắc này cũng đã xuất hiện ở một số văn bản, đơn cử tại Thông tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953 thể hiện: “Không nên có định kiến rằng hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như người có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như vô tội để toà án có thái độ hoàn toàn khách quan”.
Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Toà án Nhân dân tối cáo có hướng dẫn hoạt động xét xử của toà án như sau: “Việc xét hỏi tại phiên toà nhằm trực tiếp và công khai thẩm tra lại các chứng cứ của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử phải xét hỏi một cách đầy đủ, khách quan, cần tránh tư tưởng quá tin vào hồ sơ mà coi nhẹ tác dụng của việc xét hỏi tại phiên toà, hoặc cho rằng xét hỏi chỉ nhằm buộc tội bị can phải nhận những lời mà họ đã khai ở cơ quan điều tra”.
Tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự 1988 thể hiện: “không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.”
Tiếp đến, Hiến pháp 1992 tại Điều 72 thể hiện: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.”
Sau này, như đã trình bày để cụ thể hóa tư tưởng, nội dung hiến định tại Hiến pháp 2013 thì BLTTHS 2015, BLHS 2015 đã có quy định liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội. Cụ thể tại: Điều 2 BLHS 2015 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Điều 13 BLTTHS 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”
Từ quy định nêu trên thì có thể nhận thấy chỉ người nào phạm tội được quy định trong BLHS thì mới chịu tội có nghĩa rằng chỉ giới hạn, xử lý hình sự các tội danh mà Nhà nước đã quy định. Tiếp đến, một người được xem là có tội nếu hoạt động chứng minh việc người này phạm tội được tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định và có bản án có hiệu lực của tòa án. Và cũng một điểm mà BLTTHS 2015, BLHS 2015 có cách tiếp cận, thay đổi phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013 trong việc thay đổi chủ từ nhân xưng “Không ai” thành “Người bị buộc tội”; còn BLHS 2015 thì thể hiện “chỉ người nào”. Cách diễn đạt như vậy, không chỉ đơn thuần là thay đổi thuật ngữ mà sự thay đổi trên đã lột tả hết bản chất của nguyên tắc suy đoán vô tội. Bởi, chủ từ nhân xưng đã chỉ được đích danh người bị tác động và phải được áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội.
Ngoài ra, để làm rõ các nguyên tắc suy đoán vô tội, thì tại Điều 85 BLTTHS 2015 thể hiện: “Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
- Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
- Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
Như vậy, điều khoản trên lại khẳng định rằng việc chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng chứ không phải người bị buộc tội. Hoạt động chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ một cách toàn diện, tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, có ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động định tội danh của cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu không chứng minh được có hành vi phạm tội thì người bị buộc tội sẽ không bị xử lý trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh đó, để tránh việc bức cung, nhục hình, ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án thì ngay tại Điều 98 BLTTHS 2015 đã quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.”.
Như vậy, quy định này cũng đang đặt ra vấn đề rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải điều tra, không được dựa vào lời khai của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội họ. Trong nhiều vụ án, nhiều bị can, bị cáo vì sự thiếu hiểu biết, vì bị những tác động mà đã nhận tội mặc dù mình không làm, dẫn đến việc oan sai.
Từ đây chúng ta có thể nhận thấy rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội là một quy định bảo đảm sự công bằng, nhân đạo, bảo đảm quyền con người. Việc vận dụng, áp dụng quy định này vào hoạt động tiến hành tố tụng là rất quan trọng.
– Quyền im lặng
Nguồn gốc hình thành bắt nguồn từ thời La Mã rằng không ai bị ràng buộc để phản bội chính mình. Sau đó, nhiều quan điểm cho rằng nước Anh là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm về quyền được im lặng, từ thế kỉ XVI đã tồn tại nguyên tắc: “không ai bị ràng buộc để buộc tội mình, bất kì hình thức hoặc toà án nào”.
Mặc dù không có căn cứ rõ rằng nhưng ngày nay, tại Vương quốc Anh và tại các nước theo hệ thống pháp luật của Anh thì quyền im lặng vẫn được áp dụng. Đơn cử như Australia, mặc dù không quy định về quyền được im lặng trong Hiến pháp song chính quyền vẫn thừa nhận về quyền này trong các luật và bộ quy tắc cấp bang và liên bang. Quyền im lặng được coi là một trong những biện pháp quan trọng nhất bảo vệ người dân trước các hành động tuỳ tiện của nhà nước.[6]
Tuy nhiên, khi nói về quyền im lặng, người ta thường nhắc nhiều hơn đến Hoa Kỳ với thuật ngữ “Miranda warning” (lời cảnh báo Miranda: “Anh có quyền im lặng”) bắt nguồn từ vụ Miranda kiện Arizona, mà sau này trở thành nguyên tắc cơ bản về quyền im lặng trong luật về tố tụng hình sự của Hoa Kỳ. Từ đó, “Miranda warning” được dùng như công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền của nghi phạm hình sự nhằm tránh việc tự buộc tội chính mình do bị bức cung.[7]
Quyết định của Toà án tối cao trong trường hợp Miranda liên quan đến một quyền con người cơ bản trong lĩnh vực tư pháp hành sự đã được ghi nhận trước đó trong tu chính án thứ năm của Hiến pháp Hoa Kỳ. Theo tu chính án Hiến pháp lần thứ năm của Hoa Kỳ thì: “…trong bất kỳ vụ án hình sự nào cũng không phải bị ép buộc làm nhân chứng chống lại chính mình, và không thể bị tước đoạt sinh mạng, tự do, hoặc tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng thủ tục quy định của pháp luật.…”
Ngoài ra, Toà án tối cao Hoa Kỳ, cũng quy định trước khi thẩm vấn, cảnh sát phải thông báo cho nghi phạm như sau: “Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước toà. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật sư”.
Như vậy, có thể nhận thấy quyền im lặng là một trong những quyền cơ bản của con người mà hệ thống pháp luật của Anh Mỹ (Common Law) – một trong những hệ thống pháp luật lớn trên thế giới đã ghi nhận, và điều chỉnh.
Theo pháp luật của Việt Nam, tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng đã có nội dung ghi nhận quyền im lặng. Theo đó, các chủ thể mà Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định khi áp dụng quyền im lặng gồm người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo. Trong quá trình tham gia tố tụng, tất cả các đối tượng trên đều có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.
Việc quy định quyền không đưa ra lời khai chống lại chính mình có thể được hiểu là người bị buộc tội có quyền không khai những điều chứa đựng thông tin bất lợi cho bản thân mình. Tuy nhiên, căn cứ theo nội dung điều luật, người bị buộc tội chỉ có thể từ chối đưa ra lời khai nếu sự thẩm vấn yêu cầu lời khai có chứa đựng thông tin chống lại họ hoặc buộc họ phải nhận mình có tội. Còn đối với những câu hỏi khác trong quá trình thẩm vấn, người bị buộc tội không có quyền giữ im lặng, bởi có thể người bị buộc tội sẽ bị cho rằng không thành khẩn khai báo.
Vậy nên, quyền im lặng để đạt hiệu quả cao thì thường gắn liền với quyền được bào chữa. Khi có luật sư tham gia, được hỗ trợ pháp lý thì người bị buộc tội có những sự trình bày đúng về vụ án, tránh việc bị sức ép tâm lý, hay tác động làm ảnh hưởng tới lời khai, hoạt động điều tra.
Có thể nói rằng, quyền im lặng là bước tiến dài của việc tôn trọng quyền con người trong xã hội thượng tôn pháp luật, văn minh. Quyền im lặng là sự phòng vệ rất tự nhiên của người bị buộc tội. Quyền im lặng cùng với Nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ buộc cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định, bảo đảm sự công bằng, khách quan trong quá trình điều tra, và việc này không phải là gây cản trở điều tra, giúp tội phạm trốn khỏi sự trừng trị của pháp luật.
- Thực tiễn áp dụng các quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền im lặng.
Nguyên tắc suy đoán, quyền im lặng ra đời đã khắc phục được những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã có rất nhiều nỗ lực, phát hiện, khởi tố, điều tra theo quy định của pháp luật, đảm bảo việc tiến hành tố tụng, xét xử theo quy định của pháp luật. Nhờ đó tình hình oan sai đã giảm so với trước đây, chỉ xảy ra một vài vụ án oan, còn án sai cũng chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Cụ thể: Theo báo cáo của VKSNDTC trước Quốc hội ngày 26/10/2020. Theo Viện trưởng Lê Minh Trí, năm 2020, tình hình tội phạm, tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tiếp tục diễn biến phức tạp. Ngành Kiểm sát đã thực hành quyền công tố, kiểm sát khởi tố mới 84.271 vụ án hình sự, tăng 7,1% so với năm 2019. Viện kiểm sát các cấp đã kiểm sát 100% việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; ban hành hơn 103.100 văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh, tăng 9,6%; trực tiếp kiểm sát gần 1.300 cuộc tại Cơ quan điều tra;… Kết quả, qua kiểm sát, Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố 791 vụ án, tăng 8,6% và hủy 30 quyết định khởi tố vụ án. Đồng thời, Viện kiểm sát trực tiếp quyết định khởi tố 22 vụ án, tăng 4,7%; hủy 72 quyết định không khởi tố vụ án và 62 quyết định khởi tố vụ án, tăng 21,5%;… Qua đó, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Viện kiểm sát đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm thực hiện yêu cầu mọi trường hợp bị bắt, tạm giữ, tạm giam và các hoạt động điều tra phải có đủ căn cứ, đúng pháp luật. Theo đó, đã trực tiếp lấy lời khai hơn 35.000 người bị bắt, tạm giữ; trực tiếp kiểm sát hơn 70.000 hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra (tham gia 38.995 cuộc khám nghiệm hiện trường; 14.250 cuộc khám nghiệm tử thi; 5.795 cuộc đối chất; 6.048 cuộc nhận dạng; 2.324 cuộc khám xét; 2.665 cuộc thực nghiệm điều tra;…); ban hành 77.428 yêu cầu điều tra, tăng 16,2%; trực tiếp hỏi cung 68.324 bị can,… Thông qua đó, đã không phê chuẩn 717 lệnh, quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam và hủy 716 quyết định tạm giữ thiếu căn cứ, trái pháp luật; yêu cầu bắt tạm giam 58 bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố điều tra 816 bị can,…
Kết quả, chất lượng công tác điều tra, truy tố được nâng lên, vi phạm, sai sót giảm dần, cụ thể: tỷ lệ bắt, tạm giữ, chuyển xử lý hình sự đạt cao (98%); tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố tụng giảm 0,57% (ở cấp Trung ương giảm 7,1%); tỷ lệ truy tố đúng thời hạn vượt 9,99%, truy tố đúng tội danh vượt 4,9% chỉ tiêu Nghị quyết 96 của Quốc hội; tỷ lệ kháng nghị án hình sự cũng vượt chỉ tiêu của Quốc hội. Số bị can phải đình chỉ do không phạm tội giảm 42,1% và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số bị can (0,02%).[8]
Đối với Tòa án, trong nhiệm kỳ 2016 – 2020, công tác giải quyết, xét xử các vụ án hình sự bảo đảm nghiêm minh, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, kết án oan người không có tội. Trong nhiệm kỳ, các Tòa án đã thụ lý 386.165 vụ với 650.546 bị cáo; đã giải quyết, xét xử được 384.209 vụ với 641.616 bị cáo, đạt tỷ lệ 99,5% về số vụ và 98,6% về số bị cáo, vượt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội đề ra. Trong đó, năm 2020, các Tòa án đã thụ lý 89.726 vụ với 162.295 bị cáo; đã giải quyết, xét xử được 87.770 vụ với 153.365 bị cáo 3, đạt tỷ lệ 97,8% về số vụ và 94,5% về số bị cáo (so với năm 2019, thụ lý tăng 2.014 vụ với 15.842 bị cáo, giải quyết tăng 10.314 vụ với 26.853 bị cáo); tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 1,18% (do nguyên nhân chủ quan là 0,59%); bị sửa là 4,91% (do nguyên nhân chủ quan là 0,26%).[9]
Một vụ án điển hình, có thể nói là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nền cải cách tư pháp được thể hiện rõ nhất, đó chính là vụ án Hoa hậu Phương Nga. Theo đó, bà Nga bị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát truy tố với tội danh lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, mà nạn nhân là ông Cao Toàn Mỹ, số tiền chiếm đoạt là hơn 16 tỷ đồng. Hồ sơ mà Viện kiểm sát dùng buộc tội thể hiện các bị cáo có hành vi chiếm đoạt như có giấy thỏa thuận mua bán nhà, giấy biên nhận giao nhận tiền có chữ ký giả của ông Mỹ; nhân chứng khai nhận tiền của Nga để làm giấy tờ giả, con dấu giả; Nga thừa nhận đã nhận của ông Mỹ 16,5 tỉ đồng…
Tuy nhiên, điều bất ngờ xảy ra là trong các phiên tòa, bà Nga đều đã sử dụng tối đa quyền im lặng của mình, nếu các câu hỏi bà Nga cho rằng mang tính bất lợi. Khi được chủ tọa phiên tòa hỏi, vì sao trong giai đoạn điều tra, cho đến khi xét xử, bị cáo lại thực hiện quyền im lặng, thì bà Nga trả lời: “Bị cáo bị điều tra viên mớm cung. Bị cáo không tin vào Viện kiểm sát. Bị cáo sợ nếu khai ra tất cả chứng cứ sẽ bị hủy”. Tuy nhiên, với những câu hỏi của HĐXX để làm rõ vụ án thì bà Nga đều trả lời cho HĐXX. Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung và thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam thành cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Nga và Dung. Sau đó, cơ quan tố tụng đã đổi tội danh đối với Nga và Dung thành tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức và miễn trách nhiệm hình sự.
Qua vụ án nêu trên, có thể nhận thấy, bà Nga đã thực hiện đúng các quyền im lặng của mình, cũng như Tòa án đã án dụng nguyên tắc suy đoán vô tội. Cơ quan tiến hành tố tụng đã trả hồ sơ điều tra bổ sung, đổi tội danh đối với bà Nga.[10]
Nhìn chung, công tác xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có một số vụ án có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc này, và thời gian gần đây đã được phát hiện; xuất phạt từ nhận thức, tuy duy pháp luật và các quy định của pháp luật. Các vi phạm này được biểu hiện ở một số vấn đề sau:
Một là: Sai phạm trong hoạt động bắt giữ, tiến hành xử lý thông tin, điều tra ban đầu
Bắt, tạm giữ là một trong những hoạt động ban đầu của quá trình giải quyết vụ án, việc vi phạm các quy định về bắt, tạm giữ người bị buộc trong giai đoạn này có ảnh hưởng gián tiếp đến nguyên tắc suy đoạn vô tội, quyền im lặng.
Mặc dù chưa có tội nhưng việc bị phân biệt đối xử, và việc chịu một số áp lực từ phía cơ quan điều tra ít nhiều có thể làm ảnh hưởng đến tâm lý người bị buộc tội, dẫn đến một tình trạng chung là “bị ép nhận lỗi”. Những vụ án điển hình có thể kể đến là vụ án Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn,..Trong các vụ án này, những người bị buộc tội đều bị bắt, nhận tội tại cơ quan điều tra. Tuy nhiên, khi ra xét xử đều một mực khai nhận mình bị bức cung, dùng nhục hình, thể hiện việc bắt giữ, điều tra là không đúng quy định của pháp luật.
Tiếp đến, là việc các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hóa quan hệ dân sự. Đối với một vụ án về tranh chấp dân sự, mua bán thuần túy một bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng lại xác định hành vi vi phạm này là về hình sự, từ đó, bắt giam và tiến hành điều tra.[11]
Hai là: Hành vi mớm cung, bức cung, nhục hình trong hoạt động điều tra
Tình trạng điều tra viên mớm cung, bức cung trong quá trình lấy lời khai người bị tạm giữ hoặc hỏi cung bị can có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả điều tra. Các điều tra viên trên tinh thần tư duy buộc tội đã vô hình áp dụng “suy đoán có tội”, và dẫn đến nhiều tình trạng oan sai như hiện nay.
Các hành vi bức cung, dùng nhục hình thường diễn ra ngay sau khi bắt, tạm giữ hoặc khi lấy lời khai khi mà đối tượng không nhận tội. Lúc này các điều tra viên cho rằng, hành vi im lặng, không nhận tội là một sự chống đối. Rất nhiều vụ dùng nhục hình đã xảy ra, dẫn đến nhiều hậu quả rất nghiêm trọng.
Theo Bản án 280/2019/HSPT ngày 21/05/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, các bị cáo Ngô Văn Sáng (sinh năm 1986), Trần Đức Lâm (sinh năm 1989), Vũ Trọng Trường (sinh năm 1989), Hồ Bá Đồng (sinh năm 1991) và Nguyễn Phạm Việt Hà (sinh năm 1995) đã bị xét xử về tội “Dùng nhục hình”.
Theo hồ sơ vụ án, Võ Tấn Minh (sinh năm 1992) bị Công an tỉnh Ninh Thuận khởi tố và bắt giam để điều tra về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Trong quá trình giam giữ tại nhà tạm giữ của Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, thì Minh có xảy ra xô xát với một số bị can trong buồng giam. Trong lúc làm việc, do bực tức việc Minh vi phạm nội quy lại có thái độ không hợp tác, có lời lẽ xúc phạm cán bộ nên Ngô Văn Sáng, Trần Đức Lâm, Nguyễn Phạm Việt Hà, Hồ Bá Đồng và Vũ Trọng Trường đã có hành vi dùng nhục hình đối với Võ Tấn Minh. Sau đó, Minh tử vong, kết quả khám nghiệm tử thi xác định nguyên nhân chết là do phù phổi cấp, xẹp phổi gây suy hô hấp, trụy tim mạch cấp tính, đa sung huyết phủ tạng trên cơ thể đa chấn thương.[12]
Vụ việc thứ hai là Đại úy Đặng Thế Đông là Trưởng Công an thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang có hành vi dùng nhục hình. Theo đó, trong quá trình làm việc với ông Vũ Đình H., trú tại thị trấn Vĩnh Tuy, Đặng Thế Đông, Hoàng Trọng Tấn, Nguyễn Vũ Hiệp đã có hành vi tát, bẻ tay ra sau lưng, dùng thuốc đang cháy dí vào móng tay của ông Vũ Đình H. gây cháy, bỏng móng tay, dùng còng số 8 treo 2 tay lên tường… Kết luận giám định xác định ông H. bị tổn thương cơ thể 12%.
Ngày 17/11/2020, Cơ quan Điều tra VKSND Tối cao đã tống đạt quyết định khởi tố bị can, thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Đại úy Đặng Thế Đông là Trưởng Công an thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Đồng thời, cơ quan Điều tra VKSND Tối cao cũng tống đạt quyết định khởi tố bị can đối với Hoàng Trọng Tấn, Nguyễn Vũ Hiệp, Công an viên thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Các bị can bị khởi tố để điều tra tội “Dùng nhục hình” quy định tại khoản 2, Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. [13]
Ba là: Thiếu cơ chế bảo vệ, cung cấp thông tin ngay từ ban đầu cho người bị bắt, người bị tạm giữ được biết các quyền cơ bản trong pháp luật hình sự.
Theo các quy định của pháp luật Mỹ, ngay khi bắt giữ nghi phạm, cảnh sát đều thể hiện nội dung, nghi phạm có quyền im lặng, những lời khai có thể làm bằng chứng buộc tội họ. Chính sự nhắc nhở về các quyền cơ bản này, dẫn đến tâm lý của các nghi phạm không hoang mang, bảo đảm quyền cơ bản của hình.
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định người bị bắt, người bị tạm giữ có quyền được im lặng. Tuy nhiên, quy định lại không đề cập đến thời điểm thực hiện sự giải thích, thông báo quyền. Trong khi đó, đối với bị can thì theo quy định được thông báo quyền trước lần hỏi cung đầu tiên; đối với bị cáo thì khi bắt đầu phiên tòa đã được thẩm phán chủ tọa phiên tòa thông báo các quyền. Vậy nên, cần quy định rõ ngay tại thời điểm bị bắt giữ để phục vụ hoạt động điều tra, người bị bắt, bị tạm giữ phải được các cơ quan nêu các nội dung cơ bản về quyền của mình để tránh việc hạn chế quyền trước khi chuyển sang tư cách tố tụng là bị can, bị cáo với đầy đủ sự đảm bảo pháp lý.
- Hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng.
Quán triệt quan điểm cải cách tư pháp thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn điều tra, xét xử, để bảo đảm thực hiện tốt các quyền cơ bản của con người, cần phải áp dụng, có sự điều chỉnh như sau:
Một là, Bổ sung các quy định liên quan đến thời điểm thông báo quyền cho người bị bắt, người bị tạm giữ. Theo đó, ngay khi bị bắt thì cơ quan điều tra phải tiến hành thông báo các quyền cơ bản của người bị bắt giữ, để họ biết được các quyền cơ bản của mình, như quyền có người bào chữa, quyền im lặng,…
Hai là, Đảm bảo nguyên tắc quyền bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự. Theo đó, cần bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và những người bào chữa mà người bị buộc tội yêu cầu. Nhằm đảm bảo được có một bên thứ ba thực hiện các quyền bào chữa, tranh luận một cách khách quan, công bảo, bảo vệ được quyền lợi của người bị buộc tội. Ngoài ra, khi thực hiện việc lấy lời khai, cần phải có sự có mặt của người bào chữa, hoạt động lấy lời khai phai được ghi âm, ghi hình và được lưu trữ khi cần xác minh, làm rõ thông tin.
Ba là, Cần tách biệt việc chứng minh tội phạm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật hình sự quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là những cơ quan có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Tuy nhiên, cần có sự tách biệt, bảo đảm việc Tòa án được xét xử một cách khách quan, dựa trên hồ sơ, tình tiết sự thật của vụ án. Trách nhiệm điều tra, chứng minh việc phạm tội không thuộc Tòa án, Tòa án chỉ thẩm vấn làm rõ vấn đề, chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
Bốn là, Việc áp dụng các biện pháp tư pháp cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng và có sự giám sát chặt chẽ. Các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam…là các biện pháp có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con ngưởi. Do đó, cần hạn chế áp dụng các biện pháp này và chỉ áp dụng khi thật sự cần thiết phải ngăn chặn những hành vi tội phạm có khả năng tiếp tục phạm tội.
Năm là, Cần ghi nhận các nội dung tranh tụng trong xét xử để làm cơ sở đưa ra Bản án/Quyết định. Tòa án luôn phải đảm bảo quyền bào chữa và quyền được tranh luận của các bên tại phiên tòa. Dựa trên việc tranh tụng tại phiên tòa, dựa trên sự xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của các bên tham gia phiên tòa mà Tòa án đưa ra các phán quyết. Tránh việc, khi không có các cơ sở để chứng minh tội phạm, Tòa án thường đẩy sang cho Viện kiểm sát, cơ quan điều tra bằng việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần.
III. KẾT LUẬN BÀI VIẾT
Để việc cải cách tư pháp đạt hiệu quả cao, tránh những việc oan sai, xâm phạm đến các quyền cơ bản của con người thì cơ quan tiến hành tố tụng, khi áp dụng các quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền im lặng, … và thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cần thực hiện một cách khách quan, vô tư, công bằng.
Tránh việc lợi dụng các quyền hạn, mang nặng ý chí suy xét theo hướng buộc tội, đảm bảo cho người bị giữ, tạm giam, bị can, bị cáo được thực hiện các quyền cơ bản của mình. Các cơ quan cần có cơ chế giám sát, xử lý các hành vi vi phạm, đảm bảo quyền được bào chữa, tranh luận của bị can, bị cáo và người bào chữa theo quy định./.
LUẬT SƯ MAI QUỐC VIỆT – CÔNG TY LUẬT FDVN
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Xem thêm: Lê Trang Hùng, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiên pháp năm 2013, nguồn: https://vksndtc.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-moi.aspx?ItemID=212;
[2] Tại khoản 1, Điều 14 Hiến pháp 2013 có thể hiện: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”;
[3] Khoản 2, Điều 14 Hiến pháp 2013;
[4] Hiến pháp 1999 thể hiện: quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; quyền không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20); quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (Điều 21);
[5] Xem thêm: Phạm Nguyễn Việt Cường, Luận văn thạc sỹ Luật học (2019), Nguyên tắc Suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam;
[6] Xem thêm: Võ Văn Tài – Trịnh Tuấn Anh, Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ (2016), Một số vấn đề lý luận về quyền im lặng trong tố tụng hình sự;
[7] Xem thêm: Quang Hòa, Nguồn gốc của lời cảnh báo Miranda: Anh có quyền im lặng, nguồn:https://www.nguoiduatin.vn/nguon-goc-cua-loi-canh-bao-miranda-anh-co-quyen-im-lang-a83948.html;
[8] Xem thêm: Báo cáo công tác của Viện trưởng VKSND tối cao tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, nguồn: https://vksndtc.gov.vn/tin-hoat-dong-vksnd-toi-cao/bao-cao-cong-tac-cua-vien-truong-vksnd-toi-cao-tai-d2-t8547.html;
[9] Xem Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và nhiệm kỳ 2016 – 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nguồn:https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-chi-dao-dieu-hanh?dDocName=TAND155594;
[10] Xem thêm: Hoàng Điệp, Từ vụ hoa hậu Phương Nga, khi nào bị cáo được… im lặng? Nguồn:https://tuoitre.vn/tu-vu-hoa-hau-phuong-nga-khi-nao-bi-cao-duoc-im-lang-1337952.htm;
[11] Đoàn Cường, Phục hồi điều tra giám đốc doanh nghiệp kêu oan ở Đà Nẵng, nguồn:https://tuoitre.vn/phuc-hoi-dieu-tra-giam-doc-doanh-nghiep-keu-oan-o-da-nang-20210420142348528.htm;
[12] Xem thêm: Bản án hình sự phúc thẩm số 280/2019/HSPT ngày 21/05/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh;
Nguyễn Thành, Dùng nhục hình gây chết người tại Ninh Thuận, nguyên 5 cán bộ công an lĩnh án tù, nguồn: https://baotintuc.vn/phap-luat/dung-nhuc-hinh-gay-chet-nguoi-tai-ninh-thuan-nguyen-5-can-bo-cong-an-linh-an-tu-20190521151519096.htm;
[13] Xem thêm: Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, Vụ Trưởng Công an thị trấn ở Hà Giang bị khởi tố vì dùng nhục hình: Không đủ điều kiện để được hưởng án treo? Nguồn: https://lsvn.vn/vu-truong-cong-an-thi-tran-o-ha-giang-bi-khoi-to-vi-dung-nhuc-hinh-khong-du-dieu-kien-de-duoc-huong-an-treo.html;